| |
|
Chửi, vũ khí của dân đen
Tạp ghi Huy Phương
“Mả cha cuộc đời quá vô hậu...”
(Trần Vàng Sao)
Trước hết phải nói “chửi” vũ khí của kẻ yếu mất hết lòng tin vào công lý
và xã hội. Xã, ấp nào phân xử chuyện mất một con gà, nên nạn nhân giành
quyền phán xét bằng cách chửi đứa ăn trộm gà, dù mười mươi biết rằng có
chửi, thì con gà cũng đã được vặt lông, cho vào nồi lâu rồi, không còn
hy vọng tìm lại được. Nhưng vẫn phải chửi, trước là cho hả giận, sau là
để nguyền rủa năm mười đời thằng ăn trộm gà cho nó xót gan bào ruột.
Chửi cũng phải có nghệ thuật. Không phải cứ thấy mất gà là đã đong đỏng
lên mà chửi, ai nghe? Thường thì người mất gà phát giác ra con gà “một
đi không trở lại” trong thời điểm trời nhá nhem tối, nghĩa là giờ “gà
lên chuồng.” Nhưng chửi vào giờ ấy, trong khi mọi gia đình, người đi làm
chưa về, bữa cơm chưa dọn, kẻ còn cho trâu vào chuồng, người còn cho lợn
ăn, thì ai nghe? Vậy nghệ thuật chửi là phải chọn đúng thời điểm khi
hàng xóm, làng giềng đã yên lặng, có thể bắt đầu lên giường, như thời
đại bây giờ người ta bắt đầu bật cái TV để nghe tin tức, cũng như bà vừa
xong bữa cơm, nhai hết miếng trầu. Bốn bề vắng lặng, cuộc chửi rủa bắt
đầu khi bà bước ra sân, mở đầu bài diễn văn hùng hồn, kiểu thưa gửi của
một chính trị gia: “Kính thưa đồng bào...”
“Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái xám.”
Trước hết người chửi phải mở hết công suất của cái mồm, thứ đến phải
hướng loa về căn nhà lối xóm bị tình nghi ăn trộm. Chửi không phải dễ,
như thường ngày chúng ta vì bực tức buột miệng ra bằng một tiếng chửi
thề, mà chửi đây phải có văn bản, nói theo lối thời thượng là phải có
“biên tập.” Nội dung một bài “chửi” phải có “bới” và “rủa” như ta thường
nói “chửi bới” hay “chửi rủa.”
Có người cho rằng người miền Nam có “chửi” chứ không hề “bới,” trong khi
người miền Bắc nếu chửi nhau là đào bới cả tông ti họ hàng lên, đó là
cái lối bới mả, đào mồ ông cha, tổ tiên mười đời lên mà chửi: “...bà đào
mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại lục
đại nhà mày lên...” Còn “rủa” là trù yếm: “Rồi ra, nhà chúng mày chết
một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước đầu bước
ra sau, đẻ sót nhau, chết mau, chết sớm, chết trẻ, đẻ ngang!”
Ðể câu chửi được nhịp nhàng, người ta dùng thể văn “biền ngẫu,” từng câu
từng chữ đối nhau chan chát: “Bố thằng chết đâm, cha con chết xỉa...
chết một đời cha, chết ba đời con... ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột...
bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cầm cờ đỏ đứng đầu làng...”
Bài chửi muốn hay lại có vần điệu, chửi lên nghe âm thanh trầm bổng, thì
người chửi phải chửi cao hơn một bậc nữa, là chửi bằng... thơ:
“Hôm nay bà chửi một bài
Ngày mai bà sẽ chửi hai lần liền
Bà chửi cho mày hóa điên
Bà rủa suốt tháng liên miên không ngừng
Bây giờ bà mệt quá chừng
Bà về cơm nước, nhớ đừng quên a...
Muốn sống thì thả gà ra
Lạy bà hai lạy, bà tha cho mày.... ày ày ày...” (*)
Chửi không phải chỉ sử dụng cái mồm mà còn sử dụng tay chân, miệng chửi
nhưng phải hoa tay múa chân, lâu lâu lại phải nhảy lên “đong đỏng” tay
vỗ phành phạch vào hạ bộ để tỏ ra khinh miệt kẻ địch thủ chưa rõ mặt, là
kẻ tình nghi ăn trộm gà. Có điều chắc chắn là người “chửi gà” không thể
là đàn ông mà phải là đàn bà. Ðàn bà có nhiều năng khiếu văn chương,
nhiều lời, biết “trình diễn” hơn đàn ông và cũng lại còn có cái để mà...
vỗ.
Chống cường quyền ngày nay, con người bất lực không thể dùng dao, dùng
búa, dùng gươm, dùng súng, dân đen chỉ biết dùng miệng lưỡi trời cho để...
chửi, như bài “Vũ khí chửi” trên tờ Quân Ðội Nhân Dân của CS hồi tháng
8, 2012 cũng đã viết: “Ðành rằng, chửi 'đã mồm' cũng chẳng mấy khi tìm
lại được gà, nhưng cái 'chửi' để hả giận, để đánh thức lương tâm, nuôi
dưỡng công lý. Lương tâm và công lý sẽ lớn lên, chặn tay bọn ăn cắp
những 'con gà vàng' thấm đẫm mồ hôi, nước mắt người lao động. Chửi là vũ
khí của người nghèo.” Rõ ràng cơ quan ngôn luận này của “bộ đội CS”
không thấy nhột nhạt khi đăng một bài “luận về chửi,” trong khi cả nước
đang chửi chế độ vì bất mãn.
Chửi mất gà trong xóm làng Việt Nam là chuyện chửi nhỏ. Ngày nay trong
xã hội có nhiều loại không những căn cắp vặt mà ăn cướp công khai vì có
quyền lực trong tay, dân đã mất người, mất nhà, mất đất, có khi mất cả
giang san, thì thấp cổ, bé miệng, không có gươm có súng để làm cách mạng,
thì còn có cái mồm chửi, cho đỡ uất.
Trên Internet chúng ta đã xem người phụ nữ bị cướp đất, đến một đồn công
an ở Hà Nội, tụt quần chửi cho đã giận. Người ta tập họp nhau ở vườn hoa
Mai Xuân Thưởng, chửi đảng, chửi nhà nước. Mẹ con cởi truồng chống cưỡng
chế đất đai, chửi bới bọn tham quan, ô lại. Nhưng phải là người “ở trong
chăn,” lớn lên từ chế độ đó, mất hết vì chế độ đó thì câu chửi mới hay,
lời chửi mới sâu sắc.
Một nhà thơ của chế độ cộng sản đã chửi bằng thơ. Tác giả thuộc loại
“sinh viên tranh đấu” ở miền Nam, mê cộng sản đến đỗi bỏ tên họ cha mẹ
đặt, sửa lại thành Trần Vàng Sao. Ông nướng hết tuổi trẻ cho cộng sản,
về già bất mãn, ngồi làm thơ chửi đổng cho sướng miệng. Bài thơ “Tau
Chửi” không một chữ một lời chỉ đích danh thằng nọ con kia, nhưng đọc
lên ai cũng hiểu là một bài thơ chửi đảng, chửi cha chế độ. Bài thơ chửi
dài 156 câu, mà chúng tôi chỉ trích ra vài đoạn ngắn sau đây, trước tiên
cũng là những lời “bới” và “rủa”:
“mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì
con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây...”
“Bây” ở đây là ai? Trần Vàng Sao nói rõ:
“bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm.”
Và đánh thẳng vào những tên cầm quyền đầu sỏ:
“bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt xương
khô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ dựng tượng dựng đài cho
cha mẹ cố tổ bây...” (**)
Nhưng nói cho cùng phản ứng “chửi” vì mất mát, bất công, bị chèn ép là
phản ứng tiêu cực của kẻ yếu, người nghèo. Những kẻ nghe chửi không phải
ai cũng biết đau biết nhục, vì ca dao Việt Nam đã có câu:
“Quân tử ư hử cũng đau,
Tiểu nhân vác đá ném đầu chẳng sao!”
Cho nên, đối với bọn “cố đấm ăn xôi” này, nghe chửi đã quen, đứa nào
cũng mang bí danh, tên giả, biết đâu bố mẹ mà sợ người ta nói đụng chạm
đến cha ông, dòng tộc, động đến tổ tiên, mồ mả.
Người xưa nói “bất bình nhỏ thì dùng rượu, bất bình lớn thì dùng gươm.”
Uống rượu là để nén bất bình xuống đáy lòng, không nén được thì văng tục
hay lên tiếng chửi cho hả dạ. Bọn vô cảm không hề sợ chửi, chúng chỉ sợ
con người dùng gươm để giải quyết khi không còn chịu được với nỗi bất
bình lớn.
Chú thích:
(*) Không biết tác giả
(**) “Tau Chửi” của Trần Vàng Sao
Để bổ xung
thêm vũ khí "chửi" tuyệt vời làm sao, mời các bạn đọc bài thơ TAU
CHỬI của nhà thơ danh tiếng TRẦN VÀNG SAO để nhận ra rằng" Chửi"
đúng, không dễ !
Để bổ xung thêm vũ khí "chửi" tuyệt vời làm sao, mời các bạn đọc bài
thơ TAU CHỬI của nhà thơ danh tiếng TRẦN VÀNG SAO để nhận ra rằng"
Chửi" đúng, không dễ ! (TRẦN KỲ TRUNG)
tau
chưởi
tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
tau cũng có chân có tay
tau cũng có đầu có óc
có miệng có mắt
có ông bà
có cha mẹ
có vợ con có ngày sinh tháng đẻ
có bàn thờ tổ tiên một tháng hai lần
rằm mồng một hương khói bông ba hoa quả
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì
con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
bây ỉ thế ỉ thần
cậy nhà cao cửa rộng
cậy tiền rương bạc đống
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm không dao
đang sống bây giả đò chết
người chết bây dựng đứng cho sống
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm
lúc như thầy tu vào hạ
lúc như con nít đói bụng đòi ăn
hai con mắt bây đứng tròng
bây bắt hết mọi người trứơc khi chết phải hô
cha mẹ bây ông nội ông ngoại bây tiên sư cố tổ bây
sống dai đời đời kiếp kiếp
phải quỳ gối cúi đầu
nghe bây nói không được cãi
phải suốt đời làm người có tội
vạn đợi đội ơn bây
đứa nào không nghe bây hớt mỏ chôn sống
thằng nào không sợ bây vằm mặt thủ tiêu
bây làm cho mọi người tránh nhau
bây làm cho mọi người thấy nhau nhổ nước miếng
đồ phản động
đồ chống đối
đồ không đá bàn thờ tổ tiên
đồ không biết đốt chùa thiêu Phật
thượng tổ cô bà bây
mụ cô tam đợi mười đời bây
tau xanh xương mét máu
thân tàn ma dại
rách như cái xơ mướp chùi trách nồi không sạch
mả ông bà cố tổ bây kết hết à
tụi bây thằng nào cũng híp mắt hai cằm
bây ăn chi mà ăn đoản hậu
ăn quá dã man
bây ăn tươi nuốt sống
mà miệng không dính máu
người chết bây cũng không chừa
năm năm mười năm hai mươi năm
xương chân xương tay sọ dừa vải liệm`
bây nhai bây khới bây mút
cả húp cả chan bây còn kêu van xót ruột
bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt xương
khô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ dựng tượng dựng đài cho
cha mẹ cố tổ bây
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả
tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
Trần Vàng Sao 29 tháng 6 năm 1997
Post Ngày
12/08/18
|
|