|  | LAN MAN VỀ CHỮ KỴ 
		HÚY VÀ NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI MIỀN NAM 
 THIẾU KHANH
 
 Tiếng nói không những là phương tiện giao tiếp mà c̣n là một thứ “căn 
		cước” cho biết ḿnh là người miền nào. Nghe tiếng nói người ta phân biệt 
		được người B́nh Định với người người Phú Yên, người G̣ Công cũng nói 
		không giống người Rạch Giá.
 
 Tuy vậy, không cần phải là một nhà nghiên cứu, ai cũng có thể thấy người 
		Việt, nói chung, có chung một đặc tính kỳ diệu: từ Bắc xuống Nam cùng 
		nói một thứ tiếng Việt phổ thông; sách vở cũng dùng chung một thứ chữ 
		Việt phổ thông. Nếu trong 9 thôn bản của người Mông, Lô Lô, Tày, Pu Péo 
		ở xă Lũng Cú, một xă cực bắc Việt Nam, thuộc huyện Đồng Văn tỉnh Hà 
		Giang, mà có người Việt sinh sống, th́ người Việt ở đó, cho đến những 
		người Việt ở Xă Đất Mũi, một xă cực Nam, thuộc Huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà 
		Mau, cùng đọc hiểu chung một thứ chữ viết, nói chung một thứ tiếng Việt.
 
 Nhưng người ở mỗi địa phương, mỗi miền có cách nói khác nhau, thậm chí 
		có cả từ vựng khác nhau. Thứ tiếng khác nhau đó được coi là phương ngữ: 
		ngôn ngữ “đặc sản” của một địa phương. Chính cái khác nhau của ngữ âm và 
		từ vựng “đặc sản” làm nên tính chất đặc biệt của con người ở vùng miền 
		đó.
 
 Phương ngữ của một địa phương được thể hiện ở hai mặt: ngữ âm (phonectic 
		sounds), và từ đặc trưng của địa phương (local words/phrases).
 Về mặt ngữ âm, ngoài sự biến âm tự nhiên (natural change) mang đặc tính 
		vùng miền c̣n có sự biến âm cưỡng bức (forced change) một cách giả tạo.
 
 Nói một cách sơ lược, sự biến âm tự nhiên của người miền Nam[1] nói 
		chung được thấy rơ trong cách phát âm của một số phụ âm đầu, chủ yếu là 
		hoạt động của âm đệm (hay cũng gọi là âm phụ) /-w-/ (mà chữ viết là o, u 
		như trong các từ ngoan ngoăn, quán quân…).
 
 1. Âm đệm biến phụ âm [Kh-] thành [Ph-]
 
 Ví dụ: “ăn khoai” thành ra “ăn phai,”
 “khoan khoái” thành “phan phái”
 “khuây khỏa” thành “phây phả”
 “Ông ấy phứt núi rồi” (khuất núi).
 
 2. Âm đệm thay thế phụ âm đầu:
 
 Ví dụ: “hoàn toàn” được phát âm “wàn tàn(g)”,
 “Ngoan ngoăn” thành ‘wan wăn”
 “Nguyễn” thành “wĩễn”
 “Hoa quả” thành “wa wả,”v.v…
 Mà “qua” cũng thành “wa”.
 (“Hoa” và “qua” cùng được phát âm “wa” nhưng được hiểu theo ngữ cảnh: 
		“Mua một ít “wa wả” (hoa quả) về cúng,” và “Bậu gieo tiếng dữ cho rồi 
		bậu ra / Bậu ra cho khỏi tay “wa”)
 
 3. Âm đệm biến đổi phụ âm xát hữu thanh G /g/ thành phụ âm tắc xát Gi- 
		/j/
 
 Ví dụ: “ở góa” thành ra “ở giá,”
 (nhưng “guồng máy” th́ vẫn là “guồng máy”)
 4. Âm đệm biến mất sau phụ âm [Nh-]:
 Ví dụ: “Nhuyễn” được phát âm thành “nhiễn”
 Ngoài ra, người miền Nam nói chung không phân biệt được các phụ âm cuối 
		“-n” và “-ng”, “-t” và “-c”
 Ví dụ: “than lửa” và “cái thang”, “mặt mũi” và “mặc kệ”.
 Và người ở một số địa phương ở Nam bộ[2] không phát âm được những từ có 
		phụ âm đầu là R /r/, một âm rung đầu lưỡi. Trong khi vài địa phương ở 
		miền Trung nói rơ âm /r/, một số địa phương ở Nam Trung Phần[3]phát âm 
		âm /r/ thành âm tắc xát /j/ (Rơ ràng = jơ jàng), người miền Bắc phát âm 
		âm /r/ thành âm hữu thanh /z/ (Rơ ràng = zơ zàng), th́ nhiều người ở một 
		địa phương Nam bộ có khuynh hướng biến âm rung đầu lưỡi /r/ thành một âm 
		xát hữu thanh G /g/. Đó là nguyên nhân đưa đến câu nói đùa phổ biến: 
		“Con cá gô bỏ trong gổquậy gột gột!” Nói th́ nói vậy, nhưng khi viết th́ 
		ai cũng viết: Con cá rô bỏ trong rổ quậy rột rột.
 Người miền Nam chỉ phát âm được 4 trong 5 dấu giọng: sắc, huyền, nặng, 
		và hỏi/ngă. Các từ ngả (trong ngả nghiêng) và ngă (trong ngă ḷng) được 
		phát âm giống nhau.
 Nếu quá tŕnh biến đổi ngữ âm tự nhiên, rất phức tạp, trong suốt lịch sử 
		phát triển của ngôn ngữ mà chỉ các nhà ngôn ngữ học, tức người có chuyên 
		môn, mới có thể xác định được, th́ sự biến âm cưỡng bức xuất hiện một 
		cách đơn giản và dễ được nhận thấy hơn. Đó là những từ kỵ húy phát sinh 
		trong ngôn ngữ Việt, ít nhất là từ thời người Việt tiếp thu văn hóa Tàu 
		và bắt chước thói “kỵ húy” của họ, tức là tránh viết và nói những từ là 
		tên của vua chúa.
 
 Thời xưa chữ Hán được viết theo hàng dọc từ trên xuống dưới, từ phải qua 
		trái. Khi gặp một chữ tên húy, người viết “đài” chữ đó lên đầu ḍng, tức 
		là một cách “xuống hàng” th́nh ĺnh bất kể văn mạch, và đưa chữ đó lên 
		đầu hàng (dọc) mới, và cao hơn các hàng khác một chữ, và điều quan trọng 
		là chữ đó phải được viết thiếu đi một nét. Quên các điều này là phạm húy, 
		có thể là tội chết, hoặc nhẹ nhất là bị đánh hỏng và cấm thi, nếu là sĩ 
		tử.
 
 C̣n trong lời nói th́ để tránh từ tên húy, người ta phát âm trại đi một 
		chút, hoặc thay bằng một từ khác, hay tránh hẳn nói tiếng đó.
 
 Có phải chính v́ cái tập quán kỵ húy tai hại của người xưa mà chúng ta 
		đánh mất tên một ông vua quan trọng trong lịch sử? Ngay các sử gia cũng 
		không biết tên thật của Tiên hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh là ǵ. Bộ Lĩnh chỉ là 
		một chức quan mà sứ quân Trần Minh công (Trần Lăm) phong cho ông, để ông 
		nắm giữ binh quyền chớ không phải tên thật [4].
 
 Khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam gầy dựng Xứ Đàng Trong, ông mang theo tập 
		quán kỵ húy từ miền ngoài vào. Nhưng ở Xứ Đàng Ngoài, trải qua hàng ngàn 
		năm lịch sử, với nhiều biến cố lên xuống của các triều đại, ḷng người 
		tan hợp thăng trầm theo mệnh nước, nhiều tiếng kỵ húy của triều đại 
		trước bị triều đại sau xóa bỏ, và chúng đă mai một đi trong trí nhớ 
		người dân, c̣n để lại rất ít dấu vết trong ngôn ngữ những lưu dân theo 
		chân Nguyễn Hoàng vào Nam. Mà đă vào vùng đất mới này tức thoát khỏi 
		ṿng cương tỏa của triều đ́nh, họ chẳng thèm sợ húy ǵ của vua chúa cũ 
		nữa. Bản thân vị Chúa Tiên cũng chỉ áp đặt tập quán đó cho thần dân của 
		ḿnh ở vùng đất mới chớ chẳng bận tâm đến những từ húy kỵ nơi “cố quốc”. 
		Có lẽ v́ thế mà trong ngôn ngữ người dân miền Nam chỉ có những từ húy từ 
		tên các vua chúa nhà Nguyễn.
 
 Trong khi người dân Xứ Đàng Trong tha hồ gọi tên húy của các vua Lê chúa 
		Trịnh ở Đàng Ngoài, th́ họ bị quy định hết sức ngặt nghèo trong viết hay 
		nói các từ trọng húy của vua chúa nhà Nguyễn. V́ vậy trong ngôn ngữ xuất 
		hiện những từ rất oái oăm: Kỷ ngươn, Rằm thượng ngươn, thay v́ kỷ nguyên, 
		rằm thượng nguyên (để kiêng tên chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên); can đởm, 
		thay v́ can đảm, đởm lược thay vỉ đảm lược (kiêng tên vua Minh Mạng 
		Nguyễn Phúc Đảm), Thới b́nh, tên một huyện ở Cà Mau, thay v́ Thái b́nh (kiêng 
		tên chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái); các tên thôn (hiện nay là xă) như Thới 
		Tam, Thới Tứ, Tân Thới Nhứt, Tân ThớiNh́, Xuân Thới Đông, Xuân Thới Sơn… 
		thuộc khu vực Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh, là tuân theo sự kỵ húy đó. 
		Làng Tân Kiểng xưa (Bây giờ c̣n Đ́nh Tân Kiểng và chợ Tân Kiểng ở Phường 
		2, quận 5, Sài G̣n) vốn có tên là Tân Cảnh (trùng tên húy Hoàng tử 
		Nguyễn Phúc Cảnh, con cả vua Gia Long). Từ Hoàng được đổi thành Huỳnh v́ 
		kỵ tên của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Gọi màu hồng thành màu hường, nói 
		nhiệm chức thay v́ nhậm chức để tránh tên Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua 
		Tự Đức. (Ngô Thời Nhiệm thay cho Ngô Th́ Nhậm, Ngô Ṭng Châu thay cho 
		Ngô Tùng Chu cũng v́ vậy. (Chu là tên Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu). Người 
		miền Nam quen nói Tôn giáo, thay v́ tông giáo để kiêng tên vua Thiệu Trị 
		Nguyễn Phúc Miên Tông. Cũng v́ tránh tên ông vua thứ ba của nhà Nguyễn 
		này mà tất cả các chữ Tông trong các đế hiệu như Lư Thánh Tông, Trần 
		Nhân Tông, Lê Trung Tông, v.v… đểu được đổi thành Tôn: Lư Thánh Tôn, 
		Trần Nhân Tôn, Lê Trung Tôn…
 
 Có thời người miền Nam nói cúng kiếng thay v́ cúng kính, kiếng lễ, thay 
		v́ kính lễ, để kiêng tránh tên Nguyễn Hữu Kính, tên húy của Lễ Thành Hầu 
		Nguyễn Hữu Cảnh, một danh tướng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, có nhiều 
		công lao hiển hách trên gần suốt cả đất nước xứ Đàng Trong. Tên ông là 
		Nguyễn Hữu Kính, nhưng do kiêng húy, người ta nói trại ra là Cảnh. 
		Khoảng một trăm năm sau, v́ kiêng tên hoàng tử Cảnh, người ta lại gọi 
		trại một lần nữa từ Kính thành Kiếng. V́ vậy, Nguyễn Hữu Cảnh chỉ là tên 
		kỵ húy chớ không đúng tên thật[5]. Nguyễn Hữu Kính từng thành lập Trấn 
		Thuận Thành, hiện nay là vùng đất từ tỉnh B́nh Thuận đến Ninh Thuận và 
		trấn giữ Dinh B́nh Khang, nay là vùng đất từ tỉnh Ninh Thuận ra đến 
		Khánh Ḥa; vào năm 1698 ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào miền Nam 
		củng cố và mở rộng đất Sài G̣n Gia Định. Tuy không phải mà một vị chúa, 
		nhưng ông từng làm quan trấn nhậm, được nhân dân ngưỡng mộ suốt từ miền 
		Trung vào đến miền Nam, nên họ tự kiêng tránh tên húy của ông.
 
 Người miền Nam nói Sơn là núi mà không nói San, v́ đó là tên vua Duy Tân 
		Nguyễn Phúc Vĩnh San. Sau năm 1975, nhiều người miền Nam bắt chước người 
		miền Bắc nói phản ánh thay v́ trước đó họ nói phản ảnh (ảnhdấu hỏi) để 
		tránh tên vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Ngay chữ Phúc trong tên các vua 
		chúa nhà Nguyễn cũng phải nói trại đi là Phước. Trước kia, miền Nam có 
		các tỉnh Phước Long, và Phước Tuy (được chánh phủ VNCH thành lập năm 
		1956) mà theo sách Phương Đ́nh Dư Điạ Chí vốn là Phúc-Long- phủ và 
		Phúc-Tuy- phủ thuộc tỉnh Biên Ḥa.
 
 Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có một bài hát Lên Đàng. Đàng là từ người miền Nam 
		nói trại từ Đường (tên vua Đồng Khánh Nguyễn Phúc Ưng Đường). Tuy nhiên 
		Đàng không phải là một từ mới đặt mà người ta lấy một từ cũ có sẵn. Từ 
		Đàng đă có ghi trong An Nam Dịch Ngữ, một loại “tự điển” Tàu Việt do 
		người Tàu soạn từ Thế kỷ 15, với nghĩa tương đương là Đường (đi).
 
 Sự kỵ húy của nhà Nguyễn không chỉ giới hạn trong tên các vua chúa mà mở 
		rộng đến tên hoặc thậm chí cung điện của các bà vương hậu (tức hoàng hậu, 
		v́ các vua nhà Nguyễn không đặt hoàng hậu, trừ ông vua cuối cùng là Bảo 
		Đại). Người miền Nam nói nhơn ngăi thay cho nhân nghĩa, chắc v́ kiêng 
		tên của các bà vợ vua nào chăng? Tuy sách Phương Đ́nh Dư Địa Chí viết 
		tỉnh Quảng Nghĩa (廣義) nhưng người dân đều v́ kỵ húy mà nói trại thành 
		Quảng Ngăi. Những người dịch sách Đại Nam Nhất Thống Chí[6] cũng viết 
		Quảng Ngăi, dù chữ nho trong sách là Quảng Nghĩa.
 
 Nhiều người miền Nam tầm tuổi sáu, bảy mươi từng biết tên nữ tướng Phàn 
		Lê Huê (Fan Lihua, mà chữ Tàu viết là 樊梨花– Phàn Lê Hoa), vợ của Tiết 
		Đinh San (Xue Dinhshan), cũng có chỗ giữ húy gọi là Tiết Đinh Sơn, trong 
		tiểu thuyết dă sử Tàu về thời nhà Đường chinh phục nước Tây Lương (Xi 
		Liang). Huê là một từ nói trại để kiêng húy từ Hoa, v́ đó là tên bà Hồ 
		Thị Hoa, chánh hậu của vua Minh Mạng[7]. Từ Hoa không chỉ được nói trại 
		là Huê mà c̣n được thay bằng một từ khác là Bông. Theo cụ Vương Hồng Sển 
		trong Sài G̣n Năm Xưa, cái Cầu Bông trên đường Đinh Tiên Hoàng bắc qua 
		Kênh Nhiêu Lộc ở quận 1 Sài G̣n vốn có tên là Cầu Hoa.
 
 Các từ tên húy khác chỉ cần tránh bằng cách nói trại đi, nhưng từ Hoa 
		này th́ lôi thôi hơn. Cầu Hoa thành CầuBông, tỉnh Thanh Hoa bị đổi thành 
		tỉnh Thanh Hóa, nhưng chợ Đông Hoa ở đất thần kinh th́ lại được đổi 
		thành chợ Đông Ba! Người Quảng Nam đến nay vẫn c̣n nhớ câu ca dao: 
		“Thủng thỉnh lượm bông ba rơi / Lượm cho có cách hơn người trèo cao.” (ba 
		= hoa).
 
 Trong bộ Bài Cḥi của người Quảng Nam có con Bạch Huê; không biết Bạch 
		Huê này có phải là nói trại tên nàng công chúa Bạch Hoa, con vua Hùng 
		Vương thứ 18, kết hôn với chàng Sơn Tinh khiến Thủy Tinh oán giận gây 
		lụt lội hàng năm, hay bà Bạch Hoa, vợ của danh tướng Đinh Lễ (cháu ngoại 
		vua Lê Lợi), là bà tổ của nghề đàn hát (cô đầu) mà v́ kỵ húy người ta 
		nói trại đi, như được kể trong Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam của 
		Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế.
 
 Cũng như từ đàng, huê là một từ cũ trong số 716 từ tiếng Việt được ghi 
		trong An Nam Dịch Ngữ (từ thế kỷ 15), chớ không phải từ mới đặt như 
		những ngươn, ngăi, kiểng, huỳnh… trên kia.
 
 Những từ nói trại v́ kỵ húy c̣n nhiều nữa. Vơ thay cho Vũ, Đờm thay cho 
		Đàm, Thời thay cho Th́, Tùng thay cho Ṭng, Nguyệt Quới thay cho Nguyệt 
		Quế, Quới nhơn thay cho quư nhân, vân vân. Chúng là một dạng từ biến âm 
		cưỡng bức được dùng phổ biến, chủ yếu trong Miền Nam, tức Xứ Đàng Trong, 
		từ Quảng Trị, nhưng rơ nhất là từ Huế, trở vào. Sở dĩ người miền Bắc 
		“miễn nhiễm” với sự kỵ húy này là do hoàn cảnh lịch sử: “Nước” Đàng 
		Ngoài chẳng việc ǵ phải nghe theo luật lệ của “nước” Đàng Trong. Sau 
		khi vua Gia Long thống nhất đất nước, những tên húy kiêng cử của nhà 
		Nguyễn đem áp dụng cho dân miền Bắc mà đa số c̣n hoài vọng nhà Lê th́ sự 
		tuân phục cũng chẳng được bao nhiêu. Tiếp đó miền Bắc được đặt dưới sự 
		bảo hộ của người Pháp, nên người ta chẳng thấy cần thiết phải sợ phạm 
		húy với vương triều nhà Nguyễn nữa.
 
 Ferdinand von Humboldt (1767–1835), triết gia, nhà ngôn ngữ học người 
		Phổ (Prussa) cho rằng ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc. “Linh hồn” 
		của dân tộc Việt chịu những ràng buộc ngôn ngữ quái đản như thế, bảo sao 
		đất nước chẳng lận đận măi không ngẩng đầu lên được.
 
 Người dân Nam bộ là tổng hợp của con cháu những người từng theo chân 
		chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) vào Thuận Hóa từ năm 1558, và các đợt di dân về 
		sau, hợp cùng với hậu duệ của người dân bản địa của các quốc gia cổ 
		Chiêm Thành, Chân Lạp, và một số người Cao Miên ở lại. Trong cuộc sống 
		chung ḥa b́nh, họ tiếp xúc và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau, trong đó có 
		tiếng nói, từ đó, cùng với bối cảnh sinh hoạt thực tiển và đặc thù, 
		tiếng nói của người dân Nam bộ có nét đặc trưng, cả về ngữ âm lẫn từ 
		vựng, không giống với miền nào khác trong cả nước. Mà vùng đất Nam bộ 
		của ba tỉnh Miền Tây trong “Nam kỳ Lục tỉnh”
  khá rộng lớn, cho nên không phải tất cả người dân Nam bộ đều nói như 
		nhau về mặt ngữ âm, nhưng người Nam bộ có một “kho” từ vựng riêng rất 
		phong phú phản ảnh cuộc sống vật chất mà trong đó cái ăn tương đối dễ 
		t́m, và phản ảnh tinh thần phóng khoáng của khối di dân trên vùng đất 
		mới “làm chơi ăn thiệt”. Cái chất dân dă kiểu “Hôm qua qua nói qua qua 
		mà qua hổng qua; hôm nay qua hống nói qua qua mà qua qua” cứ lừng lững 
		đi vào văn học qua các nhà văn “đặc sản” Nam bộ như Hồ Biểu Chánh[9], Lê 
		Xuyên[10], B́nh Nguyên Lộc[11], học giả Vương Hồng Sển[12], và hiện nay 
		với Nguyễn Ngọc Tư[13]… 
 Với Hồ Biểu Chánh (1884–1958), nhà văn tiên phong và tiêu biểu của tính 
		chất Nam bộ từ đầu thế kỷ 20, ngôn ngữ c̣n mang đậm tính mộc mạc dân dă, 
		hầu như nguyên chất văn nói. Với một bút lực rất “ghê gớm,” ông để lại 
		hơn một trăm tác phẩm gồm nhiều thể loại mà gần một nửa là tiểu thuyết 
		(64 cuốn).
 
 Đây là một đoạn văn ngắn trong tiểu thuyết Ngọn Cỏ Gió Đùa của Hồ Biểu 
		Chánh phóng tác tác phẩm Les Miserables của văn hào Pháp Victor Hugo:
 
 “Lê- văn- Đó thấy nhà giàu cơm ăn không hết lại mời khách mà đăi thâm 
		tới ban đêm, rồi nhớ tới nhà ḿnh nghèo khổ, đèn không dầu nên tối ṃ, 
		mẹ đau không thuốc nằm chờ ngày chết, sắp cháu đói bụng rên khóc van- 
		vầy 7, th́ tức- tủi trong ḷng, quyết bước vô mà cậy 8 chủ nhà giàu nầy 
		một vài giạ lúa đen về cho gia quyến ăn, đợi năm tới thuận mùa rồi làm 
		mà trả lại.
 Nhà nầy là nhà ông Bá- hộ Cao ở Vồng- Nâu. Bữa ấy là bữa ông nhóm họ 
		đặng cưới vợ cho con, nên mới dọn cỗ bàn mà đăi thân bằng quyến thích. 
		Lê- văn- Đó ở ngoài xăm xăm đi vô, đứng ngay cửa cái mà ngó. Khách trong 
		nhà mắc ăn thịt uống rượu, mắc nói nói cười cười, không ai để ư tới 
		ngoài sân, nên không ai thấy nó. Cách một hồi lâu, ông Bá- hộ ḍm ra, 
		thấy có người lạ mặt đứng trước cửa, bèn sai gia- dịch ra hỏi coi đi đâu. 
		Lê- văn- Đó thuở nay không từng nói chuyện với ai, mà cũng không hiểu lễ 
		phép chi hết, nên nghe người ta hỏi đi đâu, không lấy lời dịu ngọt thê 
		thảm mà động ḷng nhơn từ của người, lại nói xẳn- xớn rằng: – Nhà tôi 
		nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn tôi làm. Bây giờ nào là 
		mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của tôi chết đói hết thảy, tôi đi 
		đến đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn một ít giạ lúa về ăn 
		đỡ.”
 
 Sắp gia- dịch nghe rồi trở vô nhà nói làm sao với ông Bá- hộ không biết, 
		mà khách trong nhà cười rộ, rồi ông Bá- hộ sai người ra đuổi Lê- văn- Đó 
		biểu phải đi ra khỏi cửa cho mau.”
 Đến các nhà văn Lê Xuyên, B́nh Nguyên Lộc, ngôn ngữ Nam bộ trong tác 
		phẩm đă bớt phần mộc mạc, và có âm hưởng của ngôn ngữ văn học hơn. Một 
		đoạn trong tiểu thuyết Chú Tư Cầu nổi tiếng của nhà văn Lê Xuyên:
 
 “Tư Cầu chẳng nói chẳng rằng ǵ nữa hết, xốc thúng lúa lên nách bưng đi. 
		Anh ta ghé qua mái nước múc một gáo uống ừng ực. Rồi như để trút nổi bực 
		tức, anh ta hắt tẹt nước c̣n dư vào đám rau om, móc gáo vào cây đinh 
		nghe một cái cộp, lấy tay quẹt miệng rồi bưng thúng lúa thẳng ra bờ xẻo 
		trước nhà.
 
 Để thúng lúa xuống xuồng vững vàng rồi Tư Cầu vừa nhổ cây sào vừa đưa 
		chơn tống xuồng ra và chống sào cho xuồng đi vèo vèo trên mặt nước. (…) 
		Đôi lúc lườn xuồng, be xuồng cọ rào rào vào những đám rau muống, những 
		đám lục b́nh, những nhánh điên điển. (…) Ra giữa khoảng đồng trống, gió 
		thổi mát rượi. Tư Cầu cũng thấy thơi thới trong ḷng chớ không c̣n bực 
		bội như hồi năy nữa. Và như cảm hứng, anh ta vừa chống vừa ca vài câu 
		vọng cổ, cái bài vọng cổ “văng vẳng tiếng chuông chùa…” mà anh ta nghe ở 
		cái máy hát của ông Xă Tám. Có mấy cái dĩa hát đi hát lại ḥai anh ta 
		nghe riết rồi cũng thuộc ḷng hết. Thuộc ḷng rồi anh ta sang qua bắt 
		chước cho đúng cái giọng ngân ư.. ử… của Năm Nghĩa, cái giọng mà anh ta 
		cho là “mùi bạt mạng”. “
 Một đoạn văn của B́nh Nguyên Lộc trong tiểu thuyết Cuống Rún Chưa Ĺa:
 
 “Chợt một bữa kia không biết nhờ ǵ gợi ư bà nhà tôi đi mua chậu, đi t́m 
		đất, ra đặt mấy cái chậu đất ấy ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp. 
		Bà nhà tôi trồng rau răm, rau tần dài, hành hương, ớt, không mấy tháng 
		mà sân trong không c̣n chỗ để chơn nữa v́ chậu cứ được sắm thêm hoài, 
		thật là bất tiện. Thuở ấy rau cỏ có bao nhiêu tiền đâu, đi chợ mua hai 
		xu, cả nhà ăn cả ngày không hết mà hai xu chỉ bằng hai đồng bạc ngày 
		nay. Bà ấy lại không c̣n th́ giờ nghỉ ngơi nữa, hễ sáng, vừa bét mắt th́ 
		lo săn sóc ba chậu rau không đáng giá đó, trưa cũng vậy, chiều cũng vậy. 
		Vậy, mà kể từ ngày ấy, bà nhà tôi vui vẻ trở lại như hồi vợ chồng tôi 
		mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi đâu nữa hết, măi cho tới 
		bây giờ mà tôi đă có cháu ngoại rồi.”
 
 C̣n đây là giọng khề khà của cụ Vương Hồng Sển trong Sài G̣n Năm Xưa:
 “Tiện đây tôi yêu cầu các học giả nên thận trọng lời diễn luận chẳng khá 
		làm tàng bịa đặt tên “nhà thương Đầm Đất” (như trong một tờ tạp chí kia), 
		trong lúc dưỡng đường Grall được cât xây trên một đồn đất thật sự, ai ai 
		cũng rơ biết, và cũng không nên v́ thấy gần Sài G̣n có những chợ: “Ông 
		Lănh”, “Bà Chiểu”, “Bà Điểm”, “Bà Hom”, “Bà Rịa”, “Bà Đen” rồi đề quyết 
		Năm Bà vốn là thê thiếp của ông Lănh binh nọ. Tội chết đa! Tuy người mất 
		rồi không nói được, chớ c̣n người cố cựu nữa chi? Bạn thân tôi, ông Sơn 
		Nam có kể cho tôi nghe gần Cái Bè, trên con đường đi về Hậu Giang, có 
		một khúc quanh gọi “Khúc quanh ông Cọp”. Nhiều học giả chưa ǵ vội nói 
		hớt, cắt nghĩa: “Xưa ở vùng ấy, cọp rất nhiều, nên dân bản xứ lấy đó đặt 
		tên”. Theo ông Sơn Nam chịu khó điều tra kỹ càng; rơ lại mấy chục năm về 
		trước hăng bán tủ sắt hiệu “BAUCHE” có quảng cáo cho thứ tủ này bằng một 
		bảng lớn dựng tại khúc quanh đó; trên bảng vẽ h́nh một con hổ to ngồi 
		chồm hổm trên đầu tủ, một tay tḥ xuống cố cạy nắm tủ “BAUCHE” (nhăn 
		hiệu “con cọp”) cạy hoài mà không sao cạy được, đủ biết tủ sắt kiên cố 
		bực nào. Dân quê trong vùng qua lại thấy bảng vẽ cọp nhan nhản tại khúc 
		quanh, trong khi nói chuyện bèn gọi tắt chỗ ấy là “khúc quanh ông Cọp”. 
		Chuyện chỉ có bấy nhiêu, không nên lắm sự!”
 
 Khoảng gần hai mươi năm trước, khi tái bản cuốn Sài G̣n Năm Xưa này, một 
		nhà xuất bản trong nước đă “làm ơn cho tác giả” bằng cách “biên tập” gọt 
		đẽo nhẵn nhụi văn phong trong sách – thực sự là “viết lại” – theo một 
		“chuẩn” ngôn ngữ văn học chung áp dụng trong cả nước, khiến tác giả phẫn 
		nộ và người đọc cũng hết sức thất vọng.
 
 Trước năm 1975, không một nhà xuất bản nào ở Miền Nam có biên tập viên 
		(editor), hoặc có ghi tên biên tập viên vào sách như cách làm của tất cả 
		các nhà xuất bản trong nước hiện nay. Phần lớn tác phẩm thời đó chỉ ghi 
		tên người sửa lỗi morasse mà từ quen dùng lúc bấy giờ là “Thầy c̣” (correcteur).
 
 Do không phải qua tay biên tập viên như hiện nay mà các tác phẩm văn học 
		từ Hồ Biểu Chánh tới Lê Xuyên, và B́nh Nguyên Lộc c̣n giữ được nguyên 
		chất ngôn ngữ Nam bộ.
 Biên tập là một công việc văn học được nhiều nước thực hiện từ lâu đời 
		chớ không phải chỉ ở Việt Nam mới có. Ở một số quốc gia Âu – Mỹ tên 
		người biên tập tác phẩm đôi khi quan trọng hơn và “bảo chứng” cho tên 
		tác giả và giá trị tác phẩm, nếu tác giả là người mới. Trong nước hiện 
		chưa có một biên tập viên nào đạt được tŕnh độ như thế.
 
 Nhưng không có người biên tập không có nghĩa là tác phẩm được in bừa băi 
		mà người xuất bản chẳng cần biết nó là ǵ. Thật ra, bản thảo nào cũng 
		được nhà xuất bản đọc kỹ trước khi đưa in; tác phẩm có thể được hiệu 
		đính hoặc nhuận sắc (revised) nếu cần phải thế, có sự thảo luận với tác 
		giả, chớ không được “biên tập” (edited) theo cách hiểu và làm ngày nay 
		là gọt sửa cấu trúc câu và sửa đổi chữ dùng của tác giả theo một “chuẩn” 
		nào đó không rơ ràng, nếu không phải theo ư chủ quan của người biên tập. 
		V́ tôn trọng sự tự do tư tưởng của tác giả, tôn trọng cách hành văn đặc 
		trưng phản ảnh cá tính, và ngôn ngữ mang tính vùng miền của tác giả nên 
		các nhà xuất bản trước kia không bao giờ tự ư “tḥ tay ngọc, thọc tay 
		vàng” vào đứa con tinh thần của người viết để sửa chữa theo ư ḿnh, buộc 
		tác phẩm khoác một “đồng phục” ngôn ngữ chung nào đó. Người Pháp nói văn 
		phong thế nào phản ảnh con người thế ấy, “le style, c’est l’homme – The 
		style reflects the man himself” – Đẽo gọt trơn tru cho hết những cái rề 
		rà trong văn phong của Vương Hồng Sển th́ c̣n ǵ cụ Vương Hồng Sển nữa! 
		Tục ngữ Pháp cũng nói: Ce n’est pas ce qu’il a dit, mais la façon il l’a 
		dit.” Vấn đề đâu phải là điều họ nói mà là cách họ nói thế nào kia. Điều 
		họ nói th́ ai nói ra cũng vậy thôi, chỉ cái cách họ nói mới cho thấy họ 
		là ai, tính cách của họ thế nào.
 
 Tuy cho đến nay chưa có một chỉ thị hay qui định lấy ngôn ngữ của một 
		địa phương nào làm chuẩn cho ngôn ngữ văn học, nhưng hầu như tất cả các 
		nhà xuất bản trong nước mặc nhiên biên tập tác phẩm theo ngôn ngữ miền 
		Bắc, cụ thể là ngôn ngữ Hà Nội. Trong sách vở nhan nhản những từ miền 
		Bắc, bất kể tác giả là người miền nào[14].
 
 Hà Nội là thủ đô của đất nước, lấy tiếng nói của thủ đô làm chuẩn cho 
		ngôn ngữ văn học cả nước cũng phải thôi. Nhưng tiếng Hà nội có nhiều 
		điểm không chuẩn: không phân biệt các âm “iu” và “ưu”, “iêu” và “ươu”, 
		chẳng hạn, như trong câu nói: “Về hiu rồi tha hồ uống riệu.” Ngôn ngữ 
		của người Hà Nội cũng không phân biệt các cặp phụ âm CH và TR, S và X, R 
		và D / Gi. Cái “bánh Trưng” từng xuất hiện trên biểu ngữ và trên mặt báo. 
		Các phụ âm CH và TR lẫn lộn nhau là chuyện hà rầm. Một lần đọc thấy 
		trong một bài báo viết “Vậy mà Hải Pḥng mưa rầm rề…,” tôi ngạc nhiên, 
		gơ thử vào google hai chữ “rầm rề” (trong ngoặc kép). Và thật là trên 
		mức kinh ngạc: hàng loạt kết quả cho thấy hầu như người ra đă “chính 
		thức” dùng hai từ này thay cho “dầm dề”! Thậm chí trên một tờ báo ở Hà 
		Nội từng xuất hiện một tiêu đề in chữ lớn : “DOANH NGHIỆP NÓNG N̉NG CHỜ 
		HỖ TRỢ.”
 
 Sự lẫn lộn giữa các phụ âm L và N dĩ nhiên không phải là “đặc trưng” 
		trong tiếng nói người Hà Nội. Nhưng điều này cho thấy hiện tượng “nước 
		chảy vào chỗ trũng” trong ngôn ngữ của thủ đô. Tiếng Hà Nội không những 
		không “chuẩn” mà cũng không mang đủ nội lực để “cảm hóa” và đồng hóa 
		những cá nhân bên ngoài thâm nhập vào thế giới chữ nghĩa của thủ đô, để 
		đến nỗi tiếng nói ngọng nghịu của một địa hương choán vào chỗ trũng đó. 
		Lấy tiếng Hà Nội làm “chuẩn ngữ văn học” cho cả nước liệu có an toàn 
		không? Vậy mà trên thực tế tiếng miền Bắc/tiếng Hà Nội giành được ưu thế 
		trong hầu hết tác phẩm văn học và báo chí cả nước; ngay đến một nhà văn 
		Nam bộ như Nguyễn Ngọc Tư, những tưởng ngôn ngữ Nam bộ phải trở thành 
		hơi thở, máu thịt trong chị, nhưng không phải, Nguyễn Ngọc Tư hồn nhiên 
		sử dụng ngôn ngữ miền Bắc trên những trang văn tài hoa và rất xúc động 
		của chị về con người và cuộc sống đất Nam Bộ nơi chị sinh ra và lớn lên. 
		Những con người Nam bộ nói tiếng Bắc nghe lấn cấn thế nào ấy. Ví dụ 
		Nguyễn Ngọc Tư dùng từ “bảo” thay cho từ “biểu” của người miền Nam. “Rồi 
		d́ bảo, mai mốt chế Ba về, anh Tư à. Thiệt, mai mốt này…” “Con Điềm 
		thường bảo, người ta lấy thơ để thay lời thề hẹn đó.” “Rồi họ và cả má 
		tôi đều bảo tôi khóc đi.” Thật ra Nguyễn Ngọc Tư có dùng cả biểu lẫn 
		bảo. Có lẽ 50/50.
 
 Tỷ lệ của chứ thay v́ chớ có lẽ cao hơn. “Má căi: hỏng tới đâu ông ơi, 
		chừng nửa kư là cùng, cá lóc táp nghe hờm vậy chứ.” “Bây giờ Nhà nước 
		cho nuôi tôm th́ mừng chứ.” “Rồi mấy đứa con gái đểnh đoảng như tôi vất 
		vả biết chừng nào, đôi khi không lấy được chồng chứ chẳng phải chuyện 
		chơi.”
 
 Nhưng hạt thay hột, và chân thay chơn/chưn th́ có lẽ 100%. “Tôi lấy dao 
		phay băm cho đất tơi ra để kịp lúc ba về gieo hạt cải.” “Tôi học từ má 
		rằng gạo Một Bụ dài, óng ả, gạo Tiên Lùn hạt ngắn, đục như nếp…” “Tôi ăn 
		hạt gạo má tôi làm ra mà không giúp ǵ cho má tôi.”
 “… một đám người chen nhau đứng đàng sau cánh cửa, quà trên tay chất 
		vượt mặt, gơ cửa bằng chân.” “Con Tư mầy phải sống trên ghe thím vài năm 
		mới được, sống trên chiếc ghe dài bảy thước ngang hai thước mới thấy 
		buồn chân.” “…mỗi lần ghé bến tụi nó lại chạy te te lên bờ, cuống quưt 
		rượt đuổi nhau, những đôi chân trần trụi thoăn thoắt nhảy trên cái bến 
		gồ ghề đất.”
 
 Rồi c̣n đĩa thay dĩa, nhặt thay v́ lượm, thóc thay lúa, hoa thay cho 
		bông nữa: “Tôi mua cho em cái đĩa người ta dạy chăm sóc trẻ sơ sinh.” “… 
		rồi nó đem ra mấy cái đĩa nhạc thu âm từ hồi năm một ngàn chín trăm mấy 
		mươi ǵ đó. Gương mặt của Thái Thanh, Hà Thanh… trên b́a đĩa coi trẻ 
		măng…” “Bữa qua ngồi quán chiều vắng ngắt, ông đồ cổ lại mở cái đĩa hát 
		cổ…”
 
 “Đó là lúc tôi thấy má tôi tội nghiệp như nàng Tấm bị mẹ con mụ d́ ghẻ 
		cay nghiệt bắt nhặt thóc trong gạo khi làng đang vào hội…” “Lượm nhớ 
		quay quắt cái xóm cũ, nhà cũ, lau sậy cũ, nhớ ông ngoại lúc giận quá 
		nhặt cây sậy găy đánh cháu.” “… tôi chưa làm được việc ǵ coi được một 
		chút, một chuyện mang hơi hướng vĩ đại, như nhặt của rơi trên đường trả 
		lại người bị mất chẳng hạn.”
 
 “… đằng trước chỉ một khoảng sân nhỏ trồng mấy chậu hoa nhỏ.” “Như có 
		người mua hoa bằng tay này rồi tặng tay kia.” “Trên những con đường chi 
		chít hoa dại hiếm hoi mới thấyvài trẻ con chơi.”
 
 Chị nói đấy thay v́ đó. “… hồi nhỏ nó vị vỏ ốc cắt đứt chân hoài mà nó 
		vẫn chân không ngạo nghễ đấy thôi.” “… cái rễ cây đấy mà cũng làm chân 
		nó đau đâu.” “Dù đây về đấy chưa tới một tiếng đi xe chợ, người muốn về 
		trước giao thừa th́ đă bán thốc tháo để về.”
 
 Chị gọi cái mền của người Nam bộ là chăn, gọi cái bánh tráng là bánh đa. 
		“… nhà này không thấy nhà kia, thị trấn này sẽ trùm chăn nằm ngủ?” “… 
		lúc nào mới được ngă lưng trên chiếc giường chăn nệm ấm.” “Qua một con 
		dốc nhỏ, gặp một cụ già kèm nhèm ngồi nướng bánh đa…”
 Chị nói nhạt thay v́ lạt, và nhợt nhạt thay v́ lợt lạt. “… cùng những 
		cánh đồng, mảnh vườn xanh xanh đậmnhạt bọc quanh.” “Bông cũng không níu 
		kéo bất cứ cái nh́n nào. Lơ thơ. Nhợt nhạt.” “Cái nắng kỳ lạ khôngnhàn 
		nhạt như nằng chiều hè…”
 
 Chị nói cái rốn thay v́ rún. “không c̣n kịp nữa như một cái rốn nước sâu 
		hoáy, điên cuồng hút tôi vào.” “… có cái rốn to nhăn rúm, như cái mặt 
		người , cái rốn 21 ngày mới rụng…”
 
 Chị nói gửi thay v́ gởi. “Hạt gửi mùa sau.” “Bảy năm trước, lúc ông Mười 
		gom hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn Thọ gửi d́ Thắm đốt hết.” 
		“Người ta gửi tới nhà Tư Lai một lá thư.”
 Chị nói “đảm đang” thay v́ “đảm đương” “… má vén khéo đảm đang chèo 
		chống gia đ́nh nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn…”. Và khi Nguyễn Ngọc 
		Tư nói “… lại làm con mệt mỏi đến nhường này,” th́ người đọc nếu không 
		biết chị sẽ nghĩ chắc mười mươi chị là người Bắc!
 
 Đúng là ngôn ngữ miền Bắc đă “t́m được chỗ đứng” và rất phổ biến trong 
		tiếng nói của người miền Nam, không chỉ từ sau đợt di cư vĩ đại năm 
		1954, mà lâu trước đó nữa, chớ không phải mới theo chân cán bộ và bộ đội 
		miền Bắc trong đợt “người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng” bốn mươi năm 
		trước đây. Chẳng vậy mà từ thời thủ tướng Nguyễn Văn Thinh của Nam Kỳ 
		Quốc người ta đă xua đuổi những người nói “Tân Sơn Nhất” về Bắc, chỉ 
		những người nói “Tân Sơn Nhứt” mới là công dân của nước Nước “Cộng ḥa 
		Nam kỳ Tự trị.” Nhưng hiện nay ngay cả người ở cạnh cái phi trường sắp 
		hết đát này cũng đă nói Tân Sơn Nhất chớ hầu như không c̣n ai nói Tân 
		Sơn Nhứt nữa. Thế cho nên nếu một anh hay chị nông dân Nam bộ mà nói mấy 
		tiếng “Sầu riêng hạt lép,” nghe cũng không buồn cười cho lắm. Sầu riêng 
		là sản vật của miền Nam, hạt là một từ miền Bắc. Và cụm từ “sầu riêng 
		hạt lép” Nam Bắc đề huề đă phổ biến khắp miền Nam rồi đó. Nhưng một nhà 
		văn Nam bộ mà cả tâm hồn và văn nghiệp đều thấm đẫm chất Nam bộ mà lại 
		nói, viết về cuộc sống nơi quê hương Nam bộ của ḿnh bằng ngôn ngữ miền 
		Bắc thỉ… nghe chẳng ra sao cả. Thật tiếc.
 
 Đọc tập thơ “Gọi Khan Giọng T́nh” của thi sĩ Trần Phù Thế, người Thạnh 
		Lộc tỉnh Sóc Trăng xưa, tôi cảm động khi bắt gặp đoạn thơ này trong đó 
		có từ “nhửng” mà gần năm mươi năm trước tôi đă từng nghe:
 
 Ta ghét mười năm ở xứ này
 Mười năm đủng đỉnh lục b́nh quay
 Như con nước nhửng ḍng sông Hậu
 Thương cả lần đi ứa máu đầy
 
 Ngày trước, vào giửa những năm 1960, trong bước “giang hồ” ở vùng sông 
		chia chín nhánh tôi từng nghe người địa phương nói từ “nhửng” này, cũng 
		trong ngữ cảnh về sông nước như trong câu thơ trên. Tôi hiểu nước nhửng 
		là con nước “đứng”, lờ đờ trên ḍng sông không lên không xuống – nhưng 
		không chắc lắm. Triết gia người Anh gốc Áo Ludwig Wittgenstein cho rằng 
		ư nghĩa của một từ là cách dùng của từ đó. Nói như thế cũng quá mơ hồ. 
		Nhưng một người Nam Bộ tha hương mang theo ḿnh h́nh ảnh con nước nhửng 
		trên ḍng sông quê nhà chắc phải làm cho những người xa quê như ḿnh cảm 
		động lắm. Tôi đă cảm động như gặp lại người quen cũ.
 
 Tập thơ của thi sĩ Trần Phù Thế được in ở nước ngoài. Nghĩa là nó không 
		phải qua tay một “biên tập viên” nào, nên những từ như thế c̣n “sống 
		sót” được, như các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Lê Xuyên, B́nh Nguyên 
		Lộc, và của học giả Vương Hồng Sển nữa, c̣n “truyền lại” ngôn ngữ tinh 
		ṛng Nam bộ trong đó đến nay.
 
 Muốn thấy lại tiếng nói Nam bô rặc ri chắc phải đọc lại Lê Xuyên hay 
		B́nh Nguyên Lộc, nếu không phải là đọc lại lối văn đậm chất văn nói dân 
		dă mộc mạc thủơ ban đầu phát triển văn học miền Nam của Hồ Biểu Chánh. 
		C̣n muốn biết “mặt mũi” phương ngữ Nam bộ một cách rơ ràng và có hệ 
		thống, chắc là phải đọc cuốn sách này của thi sĩ Cao Thoại Châu: Phương 
		Ngữ Nam Bộ.
 
 Thiếu Khanh
 
 GHI CHÚ
 
 Viết theo yêu cầu của thi sĩ Cao Thoại Châu cho cuốn sách Phương Ngữ Nam 
		Bộ của anh.
 [1] Từ “Miền Nam” vừa mang khái niệm một trong ba miền trên đất nước: 
		Miền Bắc, Miền Trung, và Miền Nam, vừa để chỉ miền đất nửa nước từ Vĩ 
		tuyến 17 trở vào trong thời kỳ đất nước bị chia cắt. Trong bài viết này, 
		từ “Miền Nam” được dùng uyển chuyển với nghĩa thứ nhất, hoặc với nghĩa 
		thứ hai, tùy theo ngữ cảnh.
 
 [2] Để thay cho các tên gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thời Pháp thuộc, 
		chánh phủ VNCH đặt ra các từ tương ứng: Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần, 
		c̣n chánh phủ VNDCCH th́ gọi Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, mà Nam Bộ này 
		gồm Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, tương ứng với ba tỉnh miền Đông và ba 
		tỉnh miền Tây của Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa. Tuy nhiên với nhiều người Miền 
		Nam từ “Nam Bộ” (hoặc “Nam bộ”) được dùng chỉ khu vực “Miền Tây Nam bộ,” 
		tức vùng Đồng bằng Sông Cửu Long hiện nay. Từ “Nam bộ” ở đây được dùng 
		theo nghĩa đó.
 
 [3] Vào đầu thời Đệ Nhất Cộng Ḥa của VNCH, người ta sáng tạo khái niệm 
		“Phần”, Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần, thay cho các khái niệm Bắc Kỳ, 
		Trung Kỳ, Nam Kỳ thời Pháp thuộc, trong đó Trung Phần từ Thanh Hóa tới 
		B́nh Thuận, Nam Phần từ tỉnh B́nh Tuy trở vào.
 
 [4] Ở một chú thích trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim viết: 
		“Có sách chép rằng Đinh Tiên-hoàng tên là Hoàn 桓, chứ không phải là Bộ 
		Lĩnh. Bộ Lĩnh là một tước quan của Trần Lăm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng 
		xét trong « Khâm-định Việt-sử » và các sách khác th́ thấy chép Đinh bộ 
		Lĩnh chứ không thấy Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm-định mà chép.” 
		(Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Tân Việt Sai G̣n, cuối trang 88)
 
 [5] Sách Đại Nam Thực Lục (tiền biên), và Việt Nam Sử Lược của Trần 
		Trọng Kim đều viết tên Nguyễn Hữu Kính, với chữ Kính (鏡). Sách Đại Nam 
		Thực Lục cũng ghi phẩm tước của ông là Lễ Tài hầu.
 
 [6] Viện Sử học, Ủy ban Khoa học Xă hội Việt Nam, Nxb Khoa học Xă hội, 
		Hà Nội 1969. Tôi không có bản dịch của cụ Cử nhân Hán học Tu Trai Nguyễn 
		Tạo xuất bản trong miền Nam, nên không biết cụ có kiêng húy như thế 
		không.
 
 [7] Bà là con gái của Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi, quê ở Thủ Đức, tỉnh 
		Gia Định, nay là thành phố HCM. Bà vào cung làm vương phi của thái tử 
		Nguyễn Phúc Đảm năm bà mới 15 tuổi. Vua Gia Long băng, thái tử Đảm nối 
		ngôi tức Vua Minh Mạng. Về sau bà là mẹ của vua Thiệu Trị.
  [8] 
		Sau khi khai phá xong miền Nam, năm 1698 chủa Nguyễn Phúc Chu lập Gia 
		Định Phủ. Vua Gia Long thống nhất xong đất nước, đổi Gia Định Phủ thành 
		Gia Định Trấn, rồi lại đổi thành Gia Định Thành. Năm 1832, Vua Minh Mạng 
		băi bỏ Gia Định Thành, và chia thành sáu tỉnh, gồm ba tỉnh miền Đông: 
		Phiên An, Biên Ḥa, Định Tường, và ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, 
		và Hà Tiên. Năm 1834, cả sáu tỉnh này được gộp lại thành Nam Kỳ, (người 
		Pháp gọi là Basse-Cochinchine), từ đó xuất hiện danh từ “Nam Kỳ Lục Tỉnh.” 
		Ba tỉnh miền Đông lúc đó nay trở thành các tỉnh B́nh Phước, B́nh Dương, 
		Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, và Thành phố Hồ Chí Minh. Ba tỉnh 
		miền Tây xưa nay phát triển thành các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, 
		Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên 
		Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, và Thành phố Cần Thơ.
 [9] Hồ Biểu Chánh, (1884–1958) người làng B́nh Thành, tỉnh G̣ Công (nay 
		thuộc huyện G̣ Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
 
 [10] Nhà văn Lê Xuyên (1927 – 2004), tên thật là Lê B́nh Tăng, người 
		huyện Phong Điền – Tỉnh Cần Thơ.
 
 [11] B́nh Nguyên Lộc, (1914 – 1987), nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử dân 
		tộc, người làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Ḥa (tức tỉnh 
		Biên Ḥa xưa trong ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ), nay thuộc thị trấn Tân 
		Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh B́nh Dương. Ngoài bút hiệu B́nh Nguyên Lộc 
		ông c̣n kư nhiều bút hiệu khác. Tuy quê quán của ông không nằm trong 
		vùng Nam bộ (theo nghĩa hẹp, tức trong ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ), nhưng 
		tác phẩm của ông mang phong cách và ngôn ngữ của người Nam bộ.
 
 [12] Vương Hồng Sển (1902-1996), sinh tại Sóc Trăng, mang ba ḍng máu 
		Việt, Hoa, Khmer.
 
 [13] Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại xă Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh 
		Cà Mau. Là một nhà văn Nam bộ tài hoa, đau đáu t́nh người trên từng 
		trang tác phẩm, nhưng Nguyễn Ngọc Tư không dùng ngôn ngữ Nam bộ tinh 
		ṛng như các nhà văn kia. Trong các tác phẩm rất cảm động về con người 
		và cuộc sống ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long chị dùng nhiều từ ngữ của 
		ngôn ngữ Bắc bộ, đọc rất lấn cấn, khó chịu. (xem ở dưới.)
 
 [14] Sau năm 1975, chánh quyền mới ở thành phố Huế đổi ngay tên cầu 
		Trường Tiền quen thuộc của người miền Nam thành cầu Tràng Tiền.
   Post ngày: 
		12/08/18    |