|  | 
		
		Phương ngữ Thanh Hóa  Phương ngữ Thanh 
		Hóa hay thổ ngữ Thanh Hóa, tiếng Thanh Hóa, tiếng địa phương Thanh Hóa 
		là một phương ngữ tiếng Việt lưu hành chủ yếu trong phạm vi xứ Thanh, 
		ngày nay là tỉnh Thanh Hóa (trừ một số vùng nhỏ như phía đông huyện Nga 
		Sơn), với hạt nhân là đồng bằng sông Mă.
 Hiện chưa có sự thống nhất khi sắp xếp phương ngữ Thanh Hóa vào các vùng 
		phương ngữ lớn của tiếng Việt. Phương ngữ Thanh Hóa nói chung được coi 
		là trung gian giữa vùng phương ngữ Bắc Bộ (phương ngữ Bắc) và vùng 
		phương ngữ Trung Bộ (hay phương ngữ Trung, phương ngữ Bắc Trung Bộ).
 
 Về giọng điệu, người Thanh Hóa nói giọng Bắc trong khi có một bộ phận từ 
		vựng và một số đặc điểm ngữ âm lại khá gần với người Nghệ – Tĩnh. Nhà 
		ngôn ngữ học Nguyễn Bạt Tụy xếp tiếng Thanh Hóa vào phương ngữ Bắc trong 
		khi Hoàng Thị Châu, Vương Hữu Lễ… xếp vào vùng phương ngữ Trung Bộ[4].
 
 Nguyễn Kim Thản th́ cho rằng một phần tỉnh Thanh Hóa thuộc về phương ngữ 
		Bắc, phần c̣n lại thuộc phương ngữ Trung Bắc nhưng lại không chỉ rơ ranh 
		giới giữa hai phần nêu trên.
 
 Căn cứ trên ngữ âm và từ vựng, Trương Văn Sinh và Nguyễn Thành Thân cho 
		rằng đây là một phương ngữ chuyển tiếp nhưng có thể xếp vào vùng phương 
		ngữ Bắc Trung Bộ. Quan điểm này đặc biệt quan tâm đến diện mạo của từ 
		vựng cũng như các yếu tố cổ là đặc điểm chung giữa phương ngữ Thanh Hóa 
		với phương ngữ Nghệ Tĩnh, và sự tương đồng của thổ ngữ tại thành phố 
		Thanh Hóa cũng như thành phố Vinh so với phương ngữ Bắc Bộ chỉ là kết 
		quả của sự xuất hiện các kôinê văn hóa.
 
 Ngược lại, nhà ngôn ngữ học Phạm Văn Hảo cho rằng mặc dù phương ngữ 
		Thanh Hóa tương tự phương ngữ Nghệ Tĩnh về phụ âm đầu, các từ về khẩu 
		ngữ, một bộ phận từ vựng… nhưng về tổng thể ngữ âm và từ vựng, nên xếp 
		phương ngữ Thanh Hóa vào vùng phương ngữ Bắc Bộ.
 
 Nhà nghiên cứu Vơ Xuân Trang cũng phản đối việc xếp phương ngữ Thanh Hóa 
		vào vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ, v́ giữa phương ngữ Thanh Hóa với 
		phương ngữ B́nh-Trị-Thiên và phương ngữ Nghệ Tĩnh của vùng phương ngữ 
		Bắc Trung Bộ có nhiều điểm khác biệt như phương ngữ Thanh Hóa không có 
		ba phụ âm quặt lưỡi và có hệ thống vần phong phú hơn.
 
 Trước đây, v́ lư do khí hậu và ngôn ngữ (có nhiều tương đồng với phương 
		ngữ Bắc) mà một số học giả người Pháp thời Pháp thuộc muốn đem Thanh Hóa 
		nhập vào Bắc Kỳ, để tách Thanh Hóa khỏi Trung Kỳ “trực trị” của triều 
		đ́nh Huế, thể hiện kín đáo một quan điểm mang ư đồ chính trị, v́ bấy giờ 
		Bắc Kỳ là đất bảo hộ của Pháp.
 Tiếng địa phương 
		Thanh Hóa được coi là “một thổ ngữ chuyển tiếp giữa phương ngữ Bắc Bộ và 
		Bắc Trung Bộ”, vừa có yếu tố giống phương ngữ Trung, lại vừa có yếu tố 
		giống phương ngữ Bắc. Một số tác giả c̣n cho rằng tiếng Thanh Hóa là 
		“nguồn cội”, “điểm xuất phát” của phương ngữ Nam Trung Bộ gắn với quá 
		tŕnh mở cơi vào Nam của chúa Nguyễn... Phương ngữ Thanh Hóa c̣n bảo lưu 
		nhiều yếu tố cổ của tiếng Việt.
 Về địa lư, Thanh Hóa được đóng khung bởi ba bề núi, một mặt biển. Tính 
		ổn định về lịch sử, địa lư và tính bền vững của cư dân bản địa người 
		Việt Cửu Chân (xuất hiện từ thời Hùng Vương và có thể xa xưa hơn nữa) là 
		cơ sở để h́nh thành một kiểu lời ăn tiếng nói giàu sắc thái thổ âm - thổ 
		ngữ Thanh Hóa.
 
 Ngoài đặc trưng về thanh điệu (dấu hỏi và dấu ngă), trong phương ngữ 
		Thanh Hóa có một số vần và phụ âm đầu không thấy xuất hiện ở các phương 
		ngữ khác.
 
 Có những thành ngữ, tục ngữ, ca dao in dậm dấu vết thổ âm - thổ ngữ xứ 
		Thanh, đă góp phần làm giàu có thêm kho tàng văn hóa dân gian Việt 
		Nam[9]:
 
 Đă mất lả (lửa) lại mất cả trua (tro).
 Thuốc đắng đă tật (đă là khỏi, không phải “dă”).
 
 Dân ca Thanh Hóa sử dụng nhiều từ địa phương
 
 Có ḷng xin giă ơn ḷng
 
 Xa xôi cách lế đèo ḅng mần răng?
 
 và:
 
 Hăn chừ cho nếp hoe vàng
 
 Cho anh cùng nàng đi lắt về rang
 
 Trong dân ca Thanh Hóa c̣n có hiện tượng dùng song song cả từ địa phương 
		và từ toàn dân:
 
 Cái ǵ ngái lại nên ngưn?
 
 Cái ǵ rất gần mà lại nên xa?
 
 Hay:
 
 Ḿnh về ngoài ấy mau vô
 
 Cho anh sắm sửa cau khô để dành
 
 Dân ca Đông Anh (huyện Đông Sơn) có câu: Ba bốn o có bợm cùng chăng... 
		nếu thay o bằng cô, bợm bằng bạn th́ mất nét đặc sắc của dân ca Thanh 
		Hóa.
 
 Trong tṛ Trống mơ, một tṛ diễn cũng thuộc dân ca Đông Anh có câu hát:
 
 …Vắng giàn thiên lí, ta chơi tạm nhụy đào tầm tơn
 
 Theo quy luật biến đổi âm cuối của phương ngữ Thanh Hóa, từ tầm tơn ở 
		đây tương ứng với tầm tơi, chính là mùng tơi của tiếng Việt phổ thông. 
		Tuy nhiên, do không nắm được quy luật này mà người viết sách đă chú giải 
		rằng tầm tơn là do đọc chệch từ tầm tơ mà thành.
 
 Hay trong điệu múa Ngô quốc của tṛ Xuân Phả (huyện Thọ Xuân) có câu 
		hát:
 
 …Trồng chuối nay chuối lổ tiêu tàu
 
 Từ lổ trong phương ngữ Thanh Hóa chính là trổ (chuối trổ buồng), không 
		phải là lỗ trong lỗ lăi.
 
 Văn học hiện đại cũng có nhiều trường hợp đặc sắc, như bài thơ “Nhớ” của 
		Hồng Nguyên viết những năm đầu kháng chiến chống Pháp:
 
 Đằng nớ vợ chưa?
 Đằng nớ?
 Tớ c̣n chờ độc lập
 Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
 nh́n o thôn nữ cuối nương dâu
 …
 Đồng chí mô nhớ nữa
 Kể chuyện B́nh Trị Thiên
 Cho bầy tôi nghe ví
 Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí
 - Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ
 Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri
 …
 Chúng tôi đi nhớ măi câu ni
 Dân chúng cầm tay lắc lắc
 Độc lập nhớ rẽ viền chơi với chắc!
 
 Trong một số ngữ cảnh, trên sách báo cũng xuất hiện các từ thuộc phương 
		ngữ Thanh Hóa nói riêng và phương ngữ nói chung. Một thống kê thực hiện 
		trong những năm 1980 cho biết trên sách vở và báo chí xuất bản ở Thanh 
		Hóa, cứ 6,4 trang (mỗi trang gồm 350 tiếng) th́ có một từ địa phương 
		xuất hiện, so với 4,4 trang ở Nghệ Tĩnh và 8,3 trang ở Vĩnh Phú.
   Những biến đối 
		ngữ âm của phương ngữ Thanh Hóa so với phương ngữ Bắc là khá phổ biến. 
		Một người Thanh Hóa có thể nói chị thành chậy ([chệi]) mà với bản thân 
		họ, 2 cách nói này có giá trị ngang nhau trong khi với một người Hà Nội 
		th́ hai từ này không phải biến thể của nhau.
 Phụ âm đầu
 
 Phương ngữ Thanh Hóa gồm 20 phụ âm như phương ngữ Bắc, tuy nhiên một số 
		vùng ven biển có tới 23 phụ âm giống như phương ngữ Trung, hơn phương 
		ngữ Bắc 3 phụ âm uốn lưỡi /ʂ, ʐ, ʈ/ (chữ quốc ngữ ghi bằng s, r, tr).
 
 Phương ngữ này cũng giữ lại một số phụ âm tắc đang trong quá tŕnh xát 
		hóa như k/g (ví dụ: cấy, so với gái trong phương ngữ Bắc Bộ), d/z 
		(đao/dao)…
 
 Nhà ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu đă khảo sát về sự phân biệt phụ âm tr/ch 
		ở Thanh Hóa. Kết quả là tại các huyện ven biển: Nga Sơn (ở phía đông 
		bắc) và Quảng Xương, Tĩnh Gia (ở phía đông nam), phần lớn người dân có 
		phân biệt tr/ch. Hiện tượng phân biệt tr/ch cũng diễn ra ở một số xă của 
		huyện Nông Cống và lẻ tẻ ở một số xă của các huyện khác trong tỉnh. Tuy 
		nhiên, phần đông người Thanh Hóa không phân biệt tr/ch. Đặc biệt là một 
		số địa phương phát âm tr thành t (trời trong trẻo thành tời tong tẻo) 
		như các xă Nga Mỹ, Nga Thủy thuộc huyện Nga Sơn, xă Phú Yên thuộc huyện 
		Thọ Xuân.
 
 Một số thổ ngữ ở các huyện Thọ Xuân và Triệu Sơn (phía tây và tây nam 
		đồng bằng Thanh Hóa) thậm chí c̣n phát âm ch thành tr, d thành r. Ví dụ 
		về một đoạn đối thoại giữa các cụ già ở xă Hạnh Phúc, huyện Thọ Xuân:
 
 - Ngoài đềnh họ đang riễn cấy tích tri rứa? (Ngoài đ́nh họ đang diễn cái 
		tích ǵ đấy?)
 -Trả biết họ đang riễn cấy tích tri, chỉ thấy đang tốc râu đổ rượu.
 
 Một cuộc khảo sát đă cho thấy ở Thanh Hóa, vào đầu thế kỉ 21 một số thổ 
		ngữ c̣n lưu giữ những biến thể phát âm phụ âm đầu không gặp ở các thổ 
		ngữ hay phương ngữ nào khác ở Việt Nam, đó là các biến thế [ɟ], [k'], 
		[p'], [ɾ] của các phụ âm /c/,/f/, /χ/, /ʐ/, /ʂ/[11].
 
 Âm đệm
 
 Trong một số trường hợp, âm đệm [w] có xu hướng đồng hóa âm chính [a] 
		theo sau nó. Ví dụ: toàn được đọc là [tʷ̣:n], quạt được đọc là [kʷọ:t]. 
		Trong phương ngữ Nam cũng có hiện tượng này, và tại một số thổ ngữ ở 
		Quảng B́nh, Quảng Trị th́ âm đệm [w] đồng hóa nguyên âm [â] (mùa xuân 
		thành mùa xun).
 
 Vần
 
 Trong hệ thống vần của phương ngữ Thanh Hóa có một số vần không có trong 
		tiếng Việt phổ thông cũng như không thấy ở các phương ngữ khác như /âj/ 
		[ệi] (ví dụ: /câj6/ hay [chệi] tương ứng với chị trong tiếng 
		phổ thông), /âƯ/ [ẫư] (ví dụ: /cƯ4/ hay [chẫư], tương ứng với 
		chữ), /âw/ [ôu] (ví dụ: /mâw6/ hay [mộu], tương ứng với mụ).
 
 Vần có thể thay đổi toàn bộ hoặc chỉ thay đổi một bộ phận (âm chính, âm 
		cuối) như dưới đây.
 Âm chính
 
 Trong phương ngữ Thanh Hóa, các nguyên âm đôi /ie/ [iê], /Ươ/ [ươ], /uô/ 
		[uô] bị triệt tiêu, chính điều này đă làm nảy sinh sự đối lập trường độ 
		giữa các âm /i/ với /i:/, /Ư/ và /Ư:/, /u/ và /u:/, ví dụ: mía trong 
		tiếng phổ thông trở thành /mi:3/ [mí:], kéo dài hơn so với mi3 
		[mí] (trong mí mắt). Sự thay đổi này không phụ thuộc vào phụ âm đầu kết 
		hợp với âm chính tuy nhiên lại phụ thuộc vào sự kết hợp với các thanh 
		điệu: miên được đọc thành mi:n, miến thành mi:3n nhưng miền 
		và miện lại không thay đổi c̣n cặp miển/miễn dường như mới bắt đầu quá 
		tŕnh triệt tiêu.
 
 Các nguyên âm /e/ [e], /ɔ/ [o:] và /ɔ/ [o] được chuyển tương ứng thành 
		các âm chuyển sắc /ie/ [iê] và /wo/ [uô], ví dụ le te trở thành lia tia, 
		to nhỏ trở thành tua nhủa. Quá tŕnh này cũng không phụ thuộc vào phụ âm 
		đầu mà phụ thuộc vào các thanh điệu, ví dụ me được đọc thành /mie/ 
		[miê], mé thành /mie3/ [miế], mẻ/mẽ thành /mie4/ 
		[miể] nhưng mè lại thành /mæ2/ [miè], mẹ lại thành 
		/mæ6/ [miẹ] , hoặc bó thành /bwo3/ 
		[buố] nhưng ḅ lại thành [bụ].
 
 Giống như các phương ngữ khác của tiếng Việt, những biến thể ngữ âm 
		thường là những âm tố nằm giữa giới hạn của hai âm vị hoặc hai âm vị kề 
		nhau trong hệ thống âm vị tiếng Việt. Ví dụ: i đọc thành êi 
		(chị/chệi, dịch/dệich), u đọc thành ôu 
		(chục/chộuc, bụng/bộung).
 
 Một số biến đổi âm chính có tính đối xứng như [â] - [ă], [â] - [Ư] hay 
		[ô] - [u] nhưng các thay đổi này phụ thuộc vào cả phụ âm đầu, âm cuối và 
		thanh điệu. Ví dụ chân chuyển thành chưn trong khi sân chỉ thay đổi phụ 
		âm đầu (s/x) ở một số thổ ngữ, âm chính không thay đổi, c̣n đầu lại 
		chuyển thành đàu. Ngược với diễn tiến [â] - [Ư] là diễn tiến [Ư] - [â]: 
		bực chuyển thành bậc, nóng nực chuyển thành nóng nậc, nóng rực chuyển 
		thành nóng rậc, đực chuyển thành đậc.
 
 Âm cuối
 
 Hệ thống âm cuối tương tự như trong vùng phương ngữ Bắc và phương ngữ 
		Nghệ Tĩnh. Riêng trong một số từ c̣n dấu vết của âm cuối /Ư/ nhưng đă 
		không c̣n tư cách âm vị học.
 
 Tuy nhiên, nhiều thổ ngữ của phương ngữ Thanh Hóa c̣n giữ lại hệ thống 
		phụ âm cuối với khá nhiều từ cặn có phụ âm cuối -n, trong khi các phương 
		ngữ khác đă biến đổi thành -j:
 cằn cấn/cày cấy, 
		kha cắn/gà gáy, trốc cún/đầu gối… cái vắn/cái váy, 
		ban/vai, cuôn mơn/con muỗi, cấy chũn/cái chổi… Đặc biệt, trong 
		một số trường hợp các âm đầu lưỡi /n/, /t/ khi đi sau các âm chính /i/ 
		và /e/ th́ trở thành các âm mặt lưỡi, ví dụ xin thành xinh (nhưng tin 
		được giữ nguyên mà không trở thành tinh), nít thành ních, quỵt thành 
		quỵch…
 Đôi khi phụ âm cuối được giữ lại trong khi các phương ngữ khác (trừ 
		phương ngữ Nghệ Tĩnh) đă thành âm tiết mở: rẽn/rễ, rui mèn/rui mè, chỉnh 
		khâu/chỉ châu, kiển (kẻn)/ghẻ, quả bính/quả bí, rẽn/rễ, nhẹn/nhẹ…. Riêng 
		các trường hợp chỉnh khâu (phương ngữ Nghệ Tĩnh: chỉn khâu), quả bính 
		(phương ngữ Nghệ Tĩnh: quả bín) là do âm cuối là âm đầu lưỡi trở thành 
		các âm mặt lưỡi.
 Thanh điệu
 
 Thanh điệu, đặc biệt là các thanh hỏi, ngă là một trong những dấu hiệu 
		quan trọng để nhận diện phương ngữ Thanh Hóa. Phương ngữ Thanh Hóa gồm 
		có 5 thanh điệu: sắc, nặng, huyền, ngang, hỏi/ngă. Trừ một số ít vùng 
		phân biệt hai thanh hỏi và ngă, đa số người Thanh Hóa nhập hai thanh 
		điệu này làm một, có nơi nói giống thanh ngă, có nơi nói giống thanh hỏi 
		hay có khi lẫn lộn.
 
 Việc rút gọn chỉ c̣n 5 âm điệu cũng là một đặc điểm làm căn cứ để một số 
		nhà ngôn ngữ học xếp phương ngữ Thanh Hóa vào vùng phương ngữ Trung Bộ. 
		Nhưng trong khi phương ngữ Nghệ Tĩnh không phân biệt thanh ngă với thanh 
		nặng th́ phương ngữ Thanh Hóa cùng với các phương ngữ B́nh Trị Thiên và 
		phương ngữ Nam Bộ lại phát âm không phân biệt thanh hỏi với thanh ngă. 
		Ví dụ: với cụm từ chủ nghĩa xă hội th́ với người Nghệ Tĩnh, cả ba âm 
		tiết cuối đều mang dấu nặng c̣n với hầu hết người Thanh Hóa, cả ba âm 
		tiết đầu mang dấu hỏi.
 
 Tuy nhiên, trong khi phương ngữ Nghệ Tĩnh và phương ngữ B́nh Trị Thiên 
		có điệu tính khá tương đồng và có một hệ thống thanh điệu khác với 
		phương ngữ Bắc do có độ trầm lớn hơn, th́ các thanh điệu (ngoài thanh 
		hỏi/ngă) của phương ngữ Thanh Hóa lại giống với phương ngữ Bắc.
 
 Cũng có một số thổ ngữ nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ ḥa nhập thanh hỏi và 
		thanh ngă làm một, như tại các xă Đông Phong hay Đông Lĩnh, huyện Đông 
		Hưng, Thái B́nh.
 
 Ngoài ra, trong một số trường hợp, phương ngữ Thanh Hóa sử dụng các từ 
		cổ với dấu hỏi trong khi phương ngữ Bắc Bộ đă chuyển sang thanh ngă do 
		quá tŕnh hữu thanh hóa xảy ra đồng thời với việc hạ thấp thanh điệu. Ví 
		dụ: khở so với gỡ, khỏ so với gơ, khản so với găi. Các cặp dấu tương tự 
		là thanh sắc/thanh nặng như khót/gọt, thốt/dột hoặc thanh ngang/thanh 
		huyền như kha/gà, chi/ǵ… Hiện tượng này không xảy ra một cách tuyệt đối 
		như trong phương ngữ Nghệ Tĩnh, v́ vẫn có một số từ đă hoàn thành quá 
		tŕnh chuyển hóa như trong phương ngữ Bắc Bộ, ví dụ: vỗ/vổ (không c̣n là 
		phổ), gặp (không c̣n là kháp). Điều này càng khẳng định tính chuyển tiếp 
		của phương ngữ Thanh Hóa.
   Một số từ đặc 
		trưng của phương ngữ Thanh Hóa: trốc (đầu), trượng (mắt), me (con bê), 
		ỉn, ỉ (con lợn), ruốc (moi), con của (vật nuôi), anh đỏ, chị đỏ (trai 
		gái nông dân lấy vợ, lấy chồng chưa có con)..., cắm (sủa).
 Khá nổi bật là nhóm từ thường dùng trong khẩu ngữ hay về mặt từ loại là 
		các đại từ, rất giống với phương ngữ Nghệ Tĩnh như đại từ nghi vấn: mô 
		(đâu), chi (ǵ), răng (sao)…, đại từ chỉ định: ni (này), tê (kia), nớ 
		(ấy), ở ri (thế này)…, đại từ xưng hô: mi (mày), nớ (ấy), tau (tao)…. 
		Một số đại từ nhân xưng trong phương ngữ Thanh Hóa cũng được sử dụng 
		trong một số thổ ngữ thuộc vùng phương ngữ Bắc Bộ như cha (bố, cũng xuất 
		hiện ở Hà Nam), thầy (bố), dượng (chồng của d́, cũng dùng ở Thái B́nh)… 
		… Đặc biệt, từ cha ở Thanh Hóa cũng như ở Hà Nam, được dùng để khóc 
		người cha đă mất, không dùng trong đời sống như ở Nghệ Tĩnh. Đôi khi một 
		số đại từ ngôi thứ ba giống phương ngữ Nam Bộ như cách nói tắt ổng (ông 
		ấy), ảnh (anh ấy), trỏng (trong ấy)… nhưng có nhiều từ không gặp ở các 
		phương ngữ khác như mê (nhiều), mê ra (nhiều lắm), mê man (rất nhiều), 
		cả cả (tất cả)…
 
 Ngoài những từ đồng nghĩa nhưng khác âm với tiếng Việt phổ thông như đă 
		nêu ở trên, phương ngữ Thanh Hóa c̣n có một số từ đồng âm nhưng khác 
		nghĩa với tiếng Việt phổ thông như mê man (rất nhiều), tê (kia, không 
		phải ở trạng thái mất hết cảm giác ở một bộ phận nào đó của cơ thể), cân 
		kè (cây cọ), cấy đài (cái gầu múc nước)…
 
 Trong nhiều trường hợp, phương ngữ Thanh Hóa không thay thế hoàn toàn so 
		với tiếng Việt phổ thông, mà chỉ được sử dụng trong một số ngữ cảnh nhất 
		định. Ví dụ kêu được dùng để thay thế gọi trong các trường hợp:
 
 Gọi để người khác nghe mà đáp lại: Kêu em viền ăn cơm.
 Yêu cầu phải đến nơi nào đó: Kêu hắn về nước.
 Gọi bằng tên gọi: Cô ấy kêu là Hoa.
 
 Nhưng lại dùng gọi trong một số ngữ cảnh khác: Gọi đến cơ quan, Tiếng 
		gọi của trái tim…
 
 Một phương thức cấu tạo từ đa tiết trong phương ngữ Thanh Hóa là kết hợp 
		yếu tố địa phương với yếu tố toàn dân. Về từ láy, có mê man (rất nhiều), 
		lần khân… Về từ ghép có ăn trấm, ăn trẩy, ăn trắt…
 
 Tính chuyển tiếp của phương ngữ Thanh Hóa thể hiện rơ trong hệ thống từ 
		vựng. Trong khi sử dụng cùng thạch sùng, thằn lằn, rèm, màn với phương 
		ngữ Bắc Bộ (tương ứng trong các phương ngữ Trung Bộ và Nam Bộ là thằn 
		lằn, rắn mối, màn, mùng) th́ cũng dùng ḥm, rương như phương ngữ Trung 
		Bộ và Nam Bộ (tương ứng trong phương ngữ Bắc Bộ là áo quan, ḥm).
   Cũng như các 
		phương ngữ khác trong vùng phương ngữ Trung Bộ, phương ngữ Thanh Hóa c̣n 
		bảo lưu được nhiều yếu tố cổ của tiếng Việt.
 Sau khi phân ly khỏi tiếng Việt-Mường cổ, tiếng Việt và tiếng Mường có 
		nhiều thay đổi. Ví dụ vần âu trong tiếng Việt tương ứng với vần u trong 
		tiếng Mường: bâu/bu, trâu/tlu, dâu/du, sâu/su, nâu/nu. Trong trường hợp 
		nêu trên, phương âm Thanh Hóa lại giống với tiếng Mường, nói cách khác 
		tiếng Thanh Hóa c̣n giữ được nhiều chứng tích của tiếng Việt-Mường cổ. 
		Một trường hợp khác, tiếng Việt có nước, lưới, lưỡi, lửa … th́ tiếng 
		Mường có nác, lái, lăi, lả và tiếng Thanh Hóa là nác, lứi, lửi, lả. Ở 
		Thanh Hóa có câu tục ngữ khôn ăn nác, dại ăn xác.
 
 Nhiều nơi ở Thanh Hóa vẫn c̣n đọc ôi là un (chổi/chủn), ai đọc như an 
		(vai/ban), ay đọc như ăn (cày/cằn), ây đọc như ân (cấy/cấn). Những cặp 
		vần này từng vẫn được dùng trong tiếng Việt trung đại qua cách gieo vần 
		trong thơ Nguyễn Trăi.
 
 Trong tiếng Mường, băn có nghĩa là baytrong tiếng Việt và tại một số thổ 
		ngữ ở Thanh Hóa, người ta vẫn nói chim băn (chim bay), đặc biệt là lớp 
		người cao tuổi.
 
 Một số đại từ nhân xưng trong phương ngữ Thanh Hóa rất gần với tiếng 
		Mường: ún (em), cố (cụ), mậu (bà), dá (ḿnh)…
 
 Sự gần gũi giữa phương ngữ Thanh Hóa của tiếng Việt với tiếng Mường cũng 
		tùy thuộc vào tương quan địa lí. So sánh:
 
 Roọc Đồng Pho, chùa Phúc Ấm
 
 Roọc tiếng Mường là cánh đồng sâu, làng Đồng Pho nay thuộc xă Đông Ḥa, 
		huyện Đông Sơn, làng Phúc Ấm trước thuộc xă Đông Yên, huyện Đông Sơn, 
		nay thuộc xă Đồng Tiến, huyện Triệu Sơn.
 
 và:
 
 Rọc Rầu, cầu Lộc Xá
 
 Rọc Rầu = cánh đồng sâu tên Rầu ở gần cầu Lộc Xá, đều thuộc huyện Quảng 
		Xương, là huyện ven biển, khá xa khu vực cư trú của người Mường ở Thanh 
		Hóa.
 
 Một số vùng ở Thanh Hóa sử dụng danh từ tẩng tương ứng với từ nôm cổ là 
		đẳng (theo quy luật chuyển âm đ thành t). Đẳng (chữ Hán: 
		桌, 
		Hán Việt: trác) là chiếc bàn vuông, thấp có thể dùng làm ghế ngồi, thành 
		ngữ có câu: Trứng để đầu đẳng.
 
 Các yếu tố cổ c̣n giữ lại trong phương ngữ Thanh Hóa như:
 
 một số âm đầu đang trong quá tŕnh xát hóa (tại một số thổ ngữ ở Thanh 
		Hóa, đao chưa trở thành dao, bổng/bỗng chưa trở thành vũng, bưa chưa trở 
		thành vừa). Diễn tiến này thể hiện rơ tại một số vùng, nơi người ta dùng 
		cả hai từ (đă xát hóa và chưa xát hóa), như vừa bưa = vừa đủ/vừa đến: 
		Cơm vừa bưa nước = Cơm được cho đủ nước, thậm chí dùng cả vừa bưa đủ;
 
 một số âm đầu đang trong quá tŕnh xát hóa và hữu thanh hóa (cấu chưa 
		trở thành gạo, nhà thốt chưa trở thành nhà dột, khót/khuốt chưa thành 
		gọt);
 
 một số trường hợp âm cuối /n/ được giữ nguyên trong khi ở một số phương 
		ngữ khác đă chuyển thành âm cuối /i/ (củn so với củi) hoặc đă mất âm 
		cuối, trở thành âm tiết mở (nhẹn so với nhẹ)…
 
 ngược lại trong khi một số vần trong phương ngữ Bắc Bộ đă chuyển từ vần 
		mở th́ phương ngữ Thanh Hóa vẫn giữ vần đóng: tru so với trâu, bu so với 
		bâu, su so với sâu.
 
 tổng hợp của các yếu tố trên, như đướn so với dưới, trốc cún so với đầu 
		gối, khản so với găi, rau chênh so với rau giền...
 
 một số phụ ẩm cổ như bl, tl, ml vẫn c̣n dấu vết như lanh/nhanh, ruồi 
		lằng/nhặng, lúa lổ/lúa trổ…
 
 Năm 1471, nhiều người Thanh Hóa, Nghệ An theo vua Lê Thánh Tông nam 
		tiến, khai phá đất đai, lập làng mới, góp phần tạo nên phương ngữ Nam 
		Trung Bộ, đặc biệt là phương ngữ Quảng Nam đặc sắc. Một số làng xă có 
		địa h́nh hiểm trở, cho đến nay vẫn giữ giọng Thanh Hóa, ví dụ bên kia 
		đèo Le của Quế Sơn, nơi có những làng mà tổ phụ là người Thanh Hóa. Do 
		ít có sự giao lưu ngôn ngữ nên có những âm rặt của người Thanh c̣n được 
		giữ lại dù bà con đă sống giữa ḷng Quảng Nam trên 500 năm.
 Trong các thế kỉ tiếp theo, dân Thanh Hóa theo chúa Nguyễn vào Nam Trung 
		Bộ, góp phần tạo nên tiếng nói đặc trưng của vùng này.
 
 Một ví dụ về liên hệ giữa phương ngữ Thanh Hóa với vùng phương ngữ Nam 
		Bộ: Quả dứa trong vùng phương ngữ Bắc Bộ tương ứng với trấy thơm trong 
		vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ và trái gai trong vùng phương ngữ Nam Bộ, 
		c̣n ở phương ngữ Thanh Hóa, nó là trấy gai, trấy dứa gai.
 
 Thổ ngữ ở xă Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch ở phía bắc Quảng B́nh có 
		nhiều điểm giống các thổ ngữ ở Thanh Hóa và bắc Nghệ An.
 
 
 Cũng như phương ngữ Nghệ Tĩnh, phương ngữ Thanh Hóa được coi là một hệ 
		thống biến thể khá hoàn chỉnh của tiếng Việt, với những biến âm tương 
		đối đều đặn và một hệ thống đại từ cũng khá hoàn chỉnh. Tính hệ thống và 
		có quy luật giúp cho phương ngữ Thanh Hóa tồn tại trong suốt thời gian 
		vừa qua giữa các vùng phương ngữ lớn phía Bắc và phía Nam địa dư của nó.
 
 Tuy vậy, ngày nay, cùng với xu thế ḥa nhập chung, sự giao lưu về văn 
		hóa và kinh tế giữa các vùng miền đă dẫn đến hai xu hướng. Xu hướng thứ 
		nhất là các thổ ngữ nhỏ đang dần bị giải thể để h́nh thành một phương 
		ngữ Thanh Hóa ngày càng đồng nhất hơn. Xu hướng thứ hai là phương ngữ 
		Thanh Hóa ngày càng xích lại gần tiếng Việt phổ thông, hay nói chính xác 
		hơn là gần với phương ngữ Hà Nội. Ví dụ hiện nay có xu hướng ḥa nhập 
		các phụ quặt lưỡi và không quặt lưỡi (ví dụ tr với ch) như phương ngữ 
		Bắc tại các vùng như Nga Sơn, Quảng Xương, Tĩnh Gia, nơi trước đây phân 
		biệt rơ hai loại phụ âm này.
 
 Đặc biệt, ở các đô thị như thành phố Thanh Hóa, thị xă Bỉm Sơn và các 
		thị trấn, các đặc thù địa phương trong ngôn ngữ càng giảm đi trên con 
		đường h́nh thành các bán phương ngữ. Trên thực tế, thanh niên, học sinh 
		và trí thức ở Thanh Hóa cũng như ở Vinh nói một ngôn ngữ gần với Hà Nội 
		cả về vần lẫn thanh điệu.
 
 theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
 Post ngày: 
		12/08/18    |