|   | 
		 
			
			
			Tặng phẩm của ngôn ngữ: Thói “ăn” nếp “ở” của người Việt qua cách 
			nóiNgô 
			Nguyên Dũng 
			Không biết có phải do 
			hoàn cảnh thiếu ăn thiếu mặc từ xa xưa, mà người Á Đông nói chung, 
			người Việt nói riêng, đặc biệt quan tâm tới miếng ăn. Ăn không phải 
			chỉ để sinh tồn, mà c̣n để hưởng thụ: Ăn đứng đầu tứ khoái. Ăn cho 
			sướng miệng cái đă, mấy chuyện khác tính sau.  
		
			Ở đâu lúc nào, một ḿnh 
			hay nhiều ḿnh, cũng thấy ăn. Thui thủi, trơ trọi ở nhà, lục lọi coi 
			có cái ǵ ăn cho đỡ buồn. Ra đường, đi chơi hay lo việc, trước hay 
			sau ǵ cũng phải kiếm cái ǵ dằn bụng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, 
			ăn tối, ăn khuya. V́ vậy, trong tiếng Việt có vô số động từ đôi đi 
			chung với “ăn”. Điểm này không thấy có trong ngôn ngữ của các dân 
			tộc khác. 
		
			Nhưng “ăn” nhiều khi lại 
			không có nghĩa là “ăn”, mới lạ! 
		
			Tụ họp đ́nh đám, lễ lạt 
			giỗ tết, người ḿnh nói “ăn cưới”, “ăn tết”, “ăn giỗ”, “ăn cúng”, 
			“ăn đám ma”, … Từ “ăn” trong những nhóm chữ này rơ ràng là hành động 
			đưa thực phẩm vào miệng, nhai rồi nuốt, không thoát đi đâu được. 
			Giống như “ăn” trong “ăn khín”, “ăn chực”, cũng là “ăn”, nhưng hàm ư 
			không mấy tốt, tới ăn không ai mời, hoặc có mời nhưng sau đó lại 
			nhiếc móc sau lưng: “Cái thằng đó ưa tới nhà ḿnh nhằm giờ cơm để ăn 
			khín mà không biết mắc cỡ!” Nhưng “ăn chực” trong thành ngữ “ăn chực 
			nằm chờ” lại ngụ ư: kiên nhẫn chờ được giải quyết một vấn đề ǵ đó. 
			Có lẽ bắt nguồn từ xưa: mỗi khi dân chúng từ những nơi xa xôi có 
			việc tới nhà quan ở chợ, ở tỉnh, ở kinh thành, thường đem theo đồ ăn 
			thức uống để lót bụng, v́ biết chắc thế nào cũng phải chờ đợi lâu 
			lắc, lắm khi dăm ba ngày liên tiếp; ăn để chực chờ tới lượt được vô 
			hầu quan lớn. 
		
			Phong cách ăn uống, nói 
			năng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong truyền thống phong tục, 
			lễ giáo của người Việt. Con cái, đặc biệt là con gái (v́ thời xưa 
			không được tới trường), được cha mẹ dạy cho “học ăn, học nói, học 
			gói, học mở”, coi như những chuẩn mực để xử thế và giao tiếp trong 
			gia đ́nh, họ hàng và ngoài xă hội. Nghĩ rộng, thấy bốn món “công, 
			dung, ngôn, hạnh” được gói ghém gần như trọn vẹn trong đó. (Tới đây, 
			người viết xin được mở dấu ngoặc, đặt dấu hỏi lớn về nghĩa đen và 
			nghĩa bóng của cụm từ “học gói, học mở” trong thành ngữ này. Tự điển 
			Việt ngữ có vài cách giải thích khác nhau, không biết thực hư ra 
			sao?). Vậy, “ăn” khi đi chung với “nói” được hiểu là đối đăi, cư xử. 
			Nhưng khi cặp kè với “nhậu”, tuỳ theo cách nói, lại có nghĩa hoàn 
			toàn khác: “Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu ǵ tới ḿnh, ḿnh 
			xía vô đâm ra mất ḷng.” Ở đây, không biết v́ nỗi niềm trắc trở ǵ 
			mà “ăn nhậu” cương quyết chia tay, không c̣n luyến tiếc chút dư vị 
			nào của “ăn uống, nhậu nhẹt” nữa, để cải trang, đổi lớp thành “dính 
			líu, dính dáng”. Lạ, nhưng không lớn! 
		
			Chuyện lớn chỉ thực sự 
			xảy ra, khi “ăn”… lỡ chung chạ với “nằm”. Mẹ quát con gái: “Hả, cái 
			ǵ? Bộ đui hay sao mà mày ăn nằm với cái thằng trời đánh thánh đâm, 
			lưu manh láu cá đó? Trời ơi là trời, con ơi là con!” Nhất định là 
			phải có “ăn” vô đây th́ “nằm” mới trọn nghĩa “tằng tịu” của nó, và 
			được dùng để ám chỉ những trường hợp chung đụng xác thịt không chính 
			thức. Vợ chồng với nhau, không ai (hoặc không nên) nói “ăn nằm”, mà 
			nói “ăn ở”. Khi người vợ rưng rưng nước mắt trách cứ: “Vợ chồng ḿnh 
			ăn ở với nhau bảy mặt con, không c̣n t́nh cũng c̣n nghĩa, ḿnh nỡ 
			ḷng nào ăn nằm với con ở. Bây giờ, nó chang bang một bụng, em biết 
			ăn nói sao đây với con cái?” Nghe thương xót biết mấy! Và, “ăn nói” 
			trong t́nh huống này, có thêm nghĩa “giải thích, làm sáng tỏ”, ở đây 
			là lư do tại sao cái bụng chị ở không dưng càng ngày càng ph́nh 1ớn 
			một cách vô cùng khó hiểu. 
		
			Chuyển qua “ăn vụng”. 
			Nghĩa đen ư nói “giải quyết cái đói một cách lén lút”: “Nhà tôi có 
			tật ăn vụng ban đêm, khuya nào cũng thức dậy, xuống bếp lục cơm 
			nguội.” Chuyện không sao cả. Nhưng tới lúc nàng nghiến răng trèo 
			trẹo cảnh cáo: “Tôi nói cho anh biết, anh mà lén tôi đi ăn vụng, tôi 
			biết được, đừng có trách tôi ác!” Và, tới khi bạn gái trề môi nhún 
			mỏ rỉ tai nhau: “Ai kêu, ăn vụng không biết chùi mép, bị vợ đuổi ra 
			khỏi nhà, đáng đời!”, th́ chuyện đă… mọc trăng sao, đang tối thành 
			sáng trưng; hành động “ăn vụng” trở mặt, chỉ c̣n độc nhất một nghĩa 
			bóng: “Đă có gia đ́nh, c̣n đi ngoại t́nh.” 
		
			Trực tiếp hay gián tiếp 
			cùng nghĩa với “ăn”, trong tiếng Việt có “ăn xin”, “ăn mày”: “Xin” 
			người khác để có miếng ăn, để sinh sống (chữ “mày” trong “ăn mày” 
			ngụ ư ǵ, có dính dáng ǵ tới “mày ốc”, “mày ghẻ” hay không, người 
			viết không rơ.) Không riêng ǵ ở Việt nam, mà khắp nơi trên thế 
			giới, đều có người ăn mày. Thậm chí, như ở Việt nam, có cả làng sống 
			bằng nghề ăn mày, từ đời cha tới đời con. “Ăn mày”, v́ vậy, nghiễm 
			nhiên trở thành cái nghề. Để rồi, từ “nghề” chuyển ra “nghiệp”, đâu 
			mấy hồi. Sinh ra, vướng nghiệp “ăn mày”, cuộc đời hẳn nhiên rách, 
			rách lắm. Đâu mấy ai nhờ đó mà “ăn nên làm ra”? 
		
			Ở Pháp, tin mạng có 
			trang “Ăn mày văn chương”, nghe rất “ấn tượng”. Nhưng cá nhân tôi 
			không thấu đáo hai chữ “ăn mày” ở đây hàm ư ǵ. Văn chương chữ nghĩa 
			là tặng phẩm của ngôn ngữ dành cho tất cả chúng ta, nào phải sở hữu 
			riêng ai để ḿnh xin xỏ hay đem bố thí cho người khác! 
		
			Qua tới các động từ “ăn 
			cắp”, “ăn trộm”, “ăn cướp” th́ đột nhiên “ăn” không c̣n ư nghĩa là 
			hành động giải quyết cái đói nữa (hay có, nhưng rất gián tiếp), mà: 
			lấy của người khác làm của riêng. 
		
			Ca dao có câu: 
		Con ơi học 
		lấy nghề cha, 
		Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
		 
		
			Th́ ra, không phải chỉ 
			có nghề “ăn mày”, có cả nghề “ăn trộm” nữa kia. Và, cái nghề này hứa 
			hẹn một tương lai sáng sủa hơn nhiều. “Ăn trộm” trúng mẻ, trời ạ, 
			“thu nhập” ngang ngửa tới ba năm làm. Nghe bắt ham! 
		
			Dĩ nhiên, đă là nghề th́ 
			phải có trường ốc đào tạo, để học viên rành rẽ bài bản sáu câu mùi 
			mẫn sau khi tốt nghiệp học đường “ăn xin”, và có chiến thuật tiến 
			thoái gọn gàng, êm thắm, không để lại dấu vết khi thành tài “ăn 
			trộm”. Theo học trường ốc ở đây, học viên không cần ghi danh, đóng 
			lệ phí, cũng không nên hy vọng sẽ có ngày được… bảng vàng ghi tên. 
			Tất cả mánh mung được “sư phụ” chỉ giáo cho “đệ tử”, và hẳn là… lén 
			lút theo truyền thống dân gian truyền khẩu, cha truyền con nối. V́ 
			vậy, không thấy lưu lại sách vở, tài liệu ǵ, để hậu bối đưa lên tin 
			mạng cho người viết… tiện việc tra cứu. 
		
			Trong văn chương, nữ sĩ 
			Trúc Giang tự thú trong hồi kư “T́nh yêu nuôi tôi lớn”, đă “ăn cắp 
			th́ giờ của con, của chồng để viết truyện, để làm thơ”. Động từ “ăn 
			cắp” được chị biểu tượng hoá, sử dụng ẩn dụ rất khéo, đọc nghe ái 
			ngại, không biết rồi chị có… bị sao không, có bị chồng con thưa ra 
			toà phạt vạ hay tù tội ǵ không? 
		
			Trong khi “ăn cắp” và 
			“ăn trộm” mang nghĩa lén lút, lặng lẽ, lấm lét lấy “cắp” và lấy 
			“trộm” của người khác làm của riêng, th́ “ăn cướp” là dùng vơ lực 
			lấy công khai, nhiều khi sử dụng cả dao găm, súng đạn để tước đoạt 
			cho bằng được. 
		Con ơi nhớ 
		lấy câu này, 
		Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
		 
		
			Khổ cho dân ḿnh quá! 
			Nhưng không phải chỉ có khổ không đâu, cũng có trường hợp dân chúng 
			nhờ cướp mà sướng. Thời xưa, ở Tây có anh hùng Robin Hood, ở Tàu có 
			“108 anh hùng Lương Sơn Bạc”. Rủi thay, chỉ sướng… ảo, v́ các vị anh 
			hùng thảo khấu nêu trên toàn là những nhân vật huyền thoại. Thời 
			nay, tin mạng loan tin, ở Mỹ có anh quản lư ngân hàng “vừa bị tuyên 
			án 41 tháng tù giam v́ tội đă lấy tiền ở một số tài khoản của ‘người 
			giàu’ bù vào tài khoản của ‘người nghèo’ tại ngân hàng nơi anh ta 
			làm việc.” Khi bị phát giác, anh được các nhà tâm lư học chẩn bệnh, 
			rằng anh mắc phải “hội chứng Robin Hood”. Dù vậy luật sư vẫn không 
			cứu văn cho anh được trắng án. Ấy, ngoài “hội chứng ăn cắp”, c̣n có 
			thêm “hội chứng ăn cướp” nữa kia! Biết đâu chừng, dám có cả “hội 
			chứng ăn chực, ăn khín” nữa, mà khoa tâm lư học chưa t́m ra! 
		
			Đàn bà, con gái khi 
			không có ǵ ăn, tối tối ra đường ăn… sương, riết thành chuyên 
			nghiệp: mang danh “gái ăn sương”, không được ai thương hại, mà c̣n 
			bêu rếu. Thời đại bây giờ, đàn bà, con gái không c̣n độc quyền hành 
			nghề này nữa, cả nam giới và, buồn thay, ngay cả thiếu niên nam nữ 
			cũng nhảy vô cạnh tranh. C̣n động từ “ăn đêm”, tôi nghĩ, không hẳn 
			đồng nghĩa với “ăn sương”, mà gần với “ăn khuya” hơn. Ngoài ra, c̣n 
			được dùng để chỉ “hành động đi kiếm mồi trong đêm tối” của muông 
			thú, như trong bài đồng dao ru con: 
		Con c̣ mày 
		đi ăn đêm, 
		Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao…
		 
		
			Ỷ mạnh hoặc vai vế lớn, 
			người miền Bắc nói “bắt nạt”, người miền Nam dùng động từ “ăn hiếp”, 
			thường nghe trẻ con hài tội lẫn nhau: “Thưa cô, tṛ A ăn hiếp con, 
			mượn con cục gôm, con đ̣i không chịu trả, c̣n kí đầu con nữa!” 
		
			Khi có kẻ thừa cơ “chôm” 
			của, hoặc đợi anh hùng hảo hán ra tay trước, rồi hùa theo lấy, người 
			Việt ḿnh nói “ăn hôi”. “Ăn tàn” trong thành ngữ “theo đóm, ăn tàn” 
			cũng có nghĩa tương tự như vậy: “Cái thằng đó là hạng người ‘theo 
			đóm ăn tàn’, không hiểu sao mầy ăn ở với nó tới sáu mặt con!” Nghe 
			hèn lắm. C̣n “ăn mót” nghe lại thấy tội: “Vợ chồng nó chuyên môn ăn 
			mót lúa của người ta mà sống”, và chẳng có ǵ đáng hănh diện, vậy mà 
			tục ngữ có câu: 
		
			
				Muốn 
				ăn cơm ngon, lấy con nhà đi mót. 
				Muốn ăn canh ngọt, lấy con nhà bắt cua. 
			 
		 
		
			Câu đầu, tôi không biết 
			phải hiểu sao cho đúng. Có lẽ ở đây không hẳn chỉ nói chuyện đi mót 
			lúa đem về nấu cơm? Và cả hai câu hàm ư bóng gió, khuyên người đời 
			nên biết chọn ư trung nhân cho đúng… tâm nguyện “ăn uống” chăng? 
		
			C̣n “ăn” trong “ăn quịt” 
			nguyên thuỷ hẳn có nguồn gốc “ăn xong, lỉnh mất, không trả tiền”. Về 
			sau được dùng chung cho mọi trường hợp, khi tiền bạc không được 
			thanh toán ṣng phẳng. Hai bà chủ nợ khuyên nhủ nhau: “Chị coi chừng 
			cái thằng cha X, bản mặt nó bảnh bao vậy chớ chuyên môn mượn tiền 
			rồi ăn quịt.” Nhưng khi “ăn” cặp kè với “vạ”, ngộ nghĩnh thay, “ăn” 
			bay mất nghĩa gốc. “Ăn vạ” là tiểu xảo thường thấy ở tâm lư ĺ lợm 
			của trẻ con và… cầu thủ đá banh. Nhiều bà mẹ thường than phiền: 
			“Thằng út nhà tôi, mỗi lần đ̣i ǵ không được là lăn ra ăn vạ, khóc 
			lóc thảm thiết, thấy ghê lắm!” Hoặc: “Cầu thủ Y cố t́nh ăn vạ, thay 
			v́ được quả phạt đền, lại bị trọng tài phạt vạ thẻ vàng.” “Ăn” trong 
			trường hợp này, có lẽ gián tiếp ngụ ư “cầu thắng, để đạt được mục 
			đích” chăng? 
		
			Tương tự như trong 
			chuyện bài bạc. Vợ chồng Năm Chuột sống bằng nghề “bài ba lá”. Ngày 
			nào đi làm về, anh Năm cũng bị vợ vặn hỏi: “Bữa nay ăn thua sao 
			rồi?” Không chạy đi đâu, “ăn” ở đây đồng nghĩa với “thắng”. Giống 
			như trong thành ngữ “ăn thua đủ”, có nghĩa “so tài đọ sức cho tới 
			lúc thắng thua minh bạch mới thôi”: “Tư Lùn là tay anh chị thuộc 
			hạng dế ốc tiêu, vậy mà gan cùng ḿnh, dám ăn thua đủ với dế cơm Hai 
			Búa, không sợ sứt càng găy gọng sao ta!” Hoặc trong “ăn gian”: Gian 
			lận để thắng. Nhưng nhiều khi c̣n được sử dụng thay cho “gian dối”: 
			“Cô hoa hậu ăn gian chiều cao, cao có 1 thước 55 thôi mà dám nói cao 
			tới 1 thước 72. Thiệt, xạo hết ư!” Chuyện nhỏ. C̣n có người “ăn 
			gian” trí thức nữa kia! Hăy nghe chị em bạn gái tâm sự với nhau: 
			“Chị lấy nó về làm chồng, mới biết nó là đứa ăn gian bằng cấp, đi du 
			học Liên-xô chỉ được bằng phó tiến sĩ thôi, mà dám khoe ḿnh là tiến 
			sĩ, nghe có tức không?” 
		
			Có ai muốn dằn mặt, cảnh 
			cáo kẻ khác, chỉ cần đeo vũ khí, đạn dược cho “ăn” là đủ: “Nói cho 
			mầy biết, chớ có đụng vô con nhỏ đó, chồng nó cho mầy ăn dao tức 
			th́!” Hoặc khi đi chung với những hành động không mấy nhẹ nhàng như 
			“tát”, “đấm”, “đá”, v.v… th́ “ăn” có nghĩa “nhận lănh, lănh lấy hậu 
			quả” không mấy êm đẹp. “Con bé coi vậy mà dữ, tao chỉ mới khều mông 
			một cái nhẹ hều, đă bị nó cho ăn tát.” Đối với trẻ con, ăn ǵ cũng 
			thích, chỉ không hảo mấy món “ăn đ̣n”, “ăn roi”, “ăn chổi lông gà”, 
			v.v… mà thôi. 
		
			Gặp trường hợp bà mai 
			đưa ảnh cho anh chàng kiếm vợ coi mặt, tḥng theo câu nói: “Tại con 
			nhỏ chụp h́nh không ăn ảnh, chớ ngoài đời cổ ngó coi đẹp gái lắm, 
			chú à!”; hoặc có ai đó chặc lưỡi xuưt xoa: “Cô đào X lúc nhỏ té 
			thùng đinh, mặt rỗ như tổ ong, vậy mà phấn son lên sân khấu, ăn đèn 
			dễ sợ!”; từ “ăn” mất bén nghĩa gốc, mà có nghĩa “thích hợp, hoà hợp” 
			với kỹ thuật chụp ảnh, trong “ăn ảnh”, cũng như với ánh đèn sân 
			khấu, trong “ăn đèn”. 
		
			Nghĩa cũng gần như vậy, 
			người Việt nói “ăn nhịp”, thường được sử dụng khi đàn ca hát xướng, 
			và “ăn khớp” để chỉ trường hợp nói năng, hành động sao cho hợp lư, 
			không mâu thuẫn nhau. Anh dẫn em đi quán bia ôm, trước khi về nhà, 
			dặn ḍ thằng em: “Má hỏi, mày nhớ nói là ḿnh đi ăn sinh nhật cho ăn 
			khớp, không thôi bả đánh cho nát đít!”… Cùng nghĩa như vậy, nhưng đi 
			đôi với tiếng… nước ngoài, Việt ngữ có động từ “ăn rơ”, với “rơ” 
			được phiên âm từ jeu (tṛ chơi, cuộc chơi) của tiếng Pháp mà ra. 
			“Trời ơi, chị em nhà Williams chơi quần vợt đôi ăn rơ với nhau hết 
			sức.” Lẽ đương nhiên, cách nói này chỉ bắt đầu thông dụng từ khi có 
			mặt người Pháp, ở thành thị, cũng như trong giới có… ăn học. 
		
			Phần trên có nhắc tới 
			động từ kép “ăn ở”, ngoài ư nghĩa “đời sống vợ chồng” c̣n hàm ư chỉ 
			“cách xử thế, đối đăi” với nhau, như trong trường hợp vợ Năm Chuột 
			than thở cùng chồng: “Lúc nào vợ chồng ḿnh cũng ăn ở hiền lành, 
			phước đức, mà sao nghèo hoài hổng biết!”, nhưng khi người mẹ xẳng 
			giọng với anh con trai đă ngoài năm mươi mà vẫn c̣n độc thân: “Mầy 
			cứ ăn ở keo kiết như vậy, có chó nó lấy mầy làm chồng.” Hoặc khi cô 
			con gái lắc đầu nguây nguẩy: “Con không ưng anh ấy đâu, người ǵ mà 
			ăn ở dơ dáy như heo!”, nghĩ kỹ, thấy ra “ăn ở” đổi nghĩa hoá thành 
			“thói ăn nếp ở” hoàn toàn có tính cách cá nhân, không đụng chạm ǵ 
			tới người khác. 
		
			Thành ngữ Việt nam có vô 
			số câu liên quan tới “ăn”. “Ăn không”, tiếng miền Nam, cùng nghĩa 
			với “ăn vă”, tiếng miền Bắc, ư nói, chỉ ăn món chính, không kèm theo 
			cơm, cháo, v.v… Khi đi chung với “ngồi rồi”, thành “ăn không ngồi 
			rồi”, có nghĩa “rỗi việc”, nhưng không mấy tốt, gần như “vô tích 
			sự”: “Từ khi anh ấy bị muỗi voi chích tới giờ, suốt ngày ảnh ăn 
			không ngồi rồi, bí rị một chỗ, thấy chán lắm!” 
		
			“Ăn xổi”, với trạng từ 
			“xổi” (”qua loa, tàm tạm”, thí dụ: cà pháo muối xổi), thuần tiếng 
			Bắc, đi chung với “ở th́” (”ở ngắn hạn, nhất thời, có giai đoạn”), 
			thành “ăn xổi ở th́”: nghĩa đen ư nói kẻ nào ăn ở với ai đó một thời 
			gian ngắn để trục lợi, nghĩa bóng ám chỉ hạng người chỉ biết lợi 
			dụng, bạc t́nh bạc nghĩa. Truyện Kiều có đoạn, khi chàng Kim lơi lả 
			buông lời ong bướm (ngôn ngữ hiện đại nói là “thả dê”) đ̣i… ăn nằm, 
			nàng Kiều bèn thỏ thẻ xổ… Nho và thành ngữ cảnh giác: 
		Phải điều 
		ăn xổi ở th́, 
		Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày!
		 
		
			Rơ là nàng Kiều được 
			Vương ông Vương bà dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở” khéo 
			th́ thôi! 
		
			Khi đứng trơ trọi một 
			ḿnh, “ở” có nhiều nghĩa, và không phải chỉ giữ vai tṛ động từ: 
			“Anh ở lại đây với em tối nay nghe! Ở một ḿnh, em sợ ma quá hà!”, 
			mà cũng có thể là giới từ chỉ định xuất xứ, vị trí: “Cô ấy ở quê mới 
			lên, nên ưa đi chân không ở trong nhà.” 
		
			Khi “ở” kết bạn với “đậu”, 
			có nghĩa “sống nhờ, sống cậy” vào người khác. Với “đợ”, hoặc với 
			“người” thành “người ở”: “tới sống chung để giúp việc nhà có lănh 
			lương”. “Con nhỏ đó ở dưới quê lên Sài g̣n ở đậu nhà bà con, chờ 
			kiếm ra chỗ ở đợ.” Với “vậy”, theo tôi, có hai nghĩa: “ở vá”: độc 
			thân, không lập gia đ́nh” (có tự điển ghi thêm, “vá” cũng c̣n có 
			nghĩa như “goá”). Hoặc, “ở goá: sau khi vợ hoặc chồng chết, không 
			lấy người nào khác.” V.v… và v.v… Tựu trung, trong tất cả những 
			trường hợp nêu trên, “ở” có nghĩa “hoàn cảnh gia đ́nh”. 
		
			Ở trên có nhắc tới “ăn 
			không”, với “ở” ta có “ở không”: rảnh rỗi, không làm ǵ cả. “Nhân 
			lúc vợ ở cữ, thi sĩ ở không, bèn lấy giấy viết tí toáy làm thơ t́nh 
			gởi đăng nhật tŕnh.” Tới đây, ta có thêm “ở cữ”: hoàn cảnh, thời 
			gian sau khi sinh nở, cần kiêng cữ. 
		
			Thời trước, thi sĩ trào 
			phúng Tú Mỡ có làm bài thơ tựa đề: “Sư cô ở cữ”. 
		
			
				
					… Nhưng rồi một 
					sáng mùa thu, 
					Người ta thấy vị ni cô sượng sùng. 
					Bụng đeo cái trống cà rùng, 
					Đến nhà thương để t́m pḥng khai hoa … 
			 
		 
		
			“Ăn” với “ở”, tóm lại, 
			thường đi đôi với nhau như h́nh với bóng, như đũa có đôi, như môi 
			răng, miệng lưỡi đặc thù hương vị ngôn ngữ của người Việt. Người 
			viết xin được kết thúc bài tiểu luận ở đây với câu ca dao “hậu hiện 
			đại” tự biên tự chế: 
		Ăn có đũa, 
		ở có đôi. 
		Bậu ơi, khéo giữ trọn đời có nhau.
		 
		
			(tháng 10.2009) 
		   |