|  |  Tản Mạn Về 
		Từ Hán Việt: Sinh Th́ Là Chết? (Phần 11.1) 
		
		Nguyễn Cung Thông February 27, 20140 
		B́nh Luận
 
		
		 
		Tản Mạn 
		Về Từ Hán ViệtSinh 
		Th́ Là Chết? (Phần 
		11.1)
 
		Nguyễn Cung 
		Thông Đầu năm 2014, chúng tôi 
		được đọc một bài viết1 rất thú vị của TS Lă Minh Hằng ” NGUỒN TƯ LIỆU TỪ 
		VỰNG THẾ KỈ 17 – QUA KHẢO SÁT TRUYỆN ÔNG THÁNH INAXU”. Qua những trao 
		đổi sau đó với chị, chúng tôi xin ghi nhận vài nhận xét cá nhân về cách 
		dùng hai chữ sinh th́ (nghĩa là chết), một vấn đề khá hóc búa nhưng cũng 
		là một dấu ấn thâm trầm của thời kỳ giao lưu văn hóa ngôn ngữ của Việt 
		Nam và Tây phương khi tập hợp các giáo sĩ qua Á Đông truyền đạo. Các chữ 
		viết tắt trong bài này là LM (Linh Mục), TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 
		100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), 
		LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận 
		(TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), 
		VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), 
		Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), 
		Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (từ điển Việt Bồ La, 
		Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes/1651). 
		Trong phần này, một số cách viết trong VBL không theo dạng nguyên thuỷ 
		v́ nhận thấy không có khả năng gây nhầm lẫn ngữ âm quan trọng như sinh 
		đáng lẽ phải ghi là \displaystyle \int inh, song phải ghi là saơ, trời 
		phải ghi là blời … Trọng tâm của bài viết này là cách dùng sinh th́ từ 
		góc độ ngôn ngữ chứ không phải tôn giáo hay thần học. Trong Phép Giảng Tám Ngày 
		(Ngày thứ Sáu) có đoạn “mà khi ấy ông già tên là ông Simeon, là người 
		thánh, đă chịu lời Đức Chúa Spiritu Sancto, chưa có sinh th́ mà thấy 
		được Christum Domini”, hay ta hăy xem một câu nói b́nh thường trong 
		tiếng Việt hiện đại như “Khi một đứa bé mới sinh 
		th́ người mẹ phải lo đủ chuyện” Vấn đề là phải hiểu câu 
		trên như sao: (a) khi đứa bé mới sinh (ra) th́ người mẹ phải lo (chăm 
		sóc) đủ thứ công việc, theo đa số người Việt hiện nay – hay (b) khi đứa 
		bé mới chết (sinh th́) th́ người mẹ phải lo đủ điều, theo nghĩa của sinh 
		th́ là chết trong các kinh Công giáo/CG … Bài này ghi nhận các cách nh́n 
		khác nhau về phạm trù nghĩa rất đặc biệt của sinh th́/ST, chú trọng đến 
		các liên hệ ngữ âm. Trong “Các Thánh Truyện” của cha Majorica (1646) có 
		khoảng 30 lần dùng từ ST, ngay cả trong “Truyện Annam Đàng Ngoài Chí 
		Đàng Trong” tác giả (một vị Ḥa Thượng về sau theo đạo CG) cũng đă dùng 
		ST. Nghĩa của ST được ghi khá rơ từ thời Việt-Bồ-La/VBL (1651), trang 
		687 sinh ascendo (lên) #sinh th́ ascensus hora 
		(giờ lên)
 đă sinh th́ iam 
		mortuus est (đă chết)
   # Động từ La-Tinh 
		ascendere nghĩa là lên (gồm tiền tố ad- và ngữ căn scandere là leo): đây 
		là gốc của các động từ ascend (lên, tiếng Anh) hay ascensionner (tiếng 
		Pháp). Danh từ La-Tinh hora nghĩa là giờ, gốc của các từ cùng nghĩa hour 
		(tiếng Anh) hay heure (tiếng Pháp). Mortuus là đă chết (La-Tinh), gốc 
		của danh từ mort (sự/cái chết, tiếng Pháp), mourir (chết, Pháp) hay 
		mortal (chết, tiếng Anh)… Ascension là ngày lễ Thăng Thiên (chúa lên 
		trời) trong lịch CG, ta sẽ gặp lại nhiều lần khái niệm thăng thiên (lên 
		trời) đặc biệt của CG trong phần sau. Trong Phép Giảng Tám 
		Ngày/PGTN, sinh th́ (chết) dùng trong trường hợp giới hạn như khi được 
		rửa tội rồi hay cho các bậc cha mẹ ông bà, so với cách dùng chết tổng 
		quát hơn của thường dân – để ư hai cách dùng này trong cùng một mạch văn “Bởi đấy cho nên trẻ nào 
		dẫu mọn th́ phải chịu phép mà giải tội ấy, cho kẻo phải mất đời đời sự 
		vui vẻ trên trời, nếu t́nh cờ phải chết khi chưa có chủ ư ḿnh, v́ đă 
		phải mất nghĩa cùng Đức Chúa trời. Nếu trẻ mọn nào phải sinh th́ khi đă 
		chịu phép rửa tội cho nên, th́ được chịu vui vẻ đời đời, làm bạn cùng 
		đức thánh thiên thần vậy. V́ vậy th́ phải lo cho nên, mà làm phép ấy, 
		dẫu cha mẹ chưa có đạo mà con trẻ khi ŕnh chết chưa có chủ ư ḿnh” 
		(PGTN, Ngày Thứ Ba) “Lại sao vốn người ta có 
		lẽ trong ḷng, giục lo cho cha mẹ, khi đă sinh th́ đoạn? Sao người Annam 
		mọi năm mọi có giữ ngày cha mẹ, ông bà, ông vải sinh th́, mà làm giỗ 
		chạp hết sức? Sao tốn của bấy nhiêu mà làm cỗ làm mâm, cùng nhiều sự nữa 
		có dọn cho cha mẹ khi đă sinh th́? V́ chưng nếu linh hồn chết với xác, 
		lo cho kẻ chết chẳng có làm chi.” (PGTN, Ngày Thứ Bốn) Các từ điển sau thời VBL 
		do người Công Giáo viết đều ghi nghĩa sinh th́ là chết như Tự Vị Annam 
		La-Tinh (Dictionarium Anamitico Latinum, Pierre Pigneaux de 
		Béhaine/1772), Dictionarium Anamitico Latinum (Jean-Louis Taberd/1838), 
		Dictionnaire annamite francais (J. F. M. Génibrel/1898 – SaiGon), Đại 
		Nam Quấc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của/1895/1896 – SaiGon, 2 quyển) … Trong 
		cuốn Petit Dictionnaire Francais Annamite (Trương Vĩnh Kư/TVK/1884) ông 
		ghi nhận Mourir vn. chết, sanh th́, 
		mất … và các thí dụ như rầu chết, mắt cỡ chết (lắm), nó gần chết (hấp 
		hối) (trang 830) 
		
		 (P 
		G Vallot/1898 – HaNoi) 
		
		 (P 
		G Vallot/1898 – HaNoi) Để ư thứ tự của các động 
		từ TVK và Vallot ghi nhận: luôn luôn chết đứng trước ST và các thí dụ 
		liên hệ; trong Nam, Huỳnh Tịnh Của (1895) ghi “ŕnh chết” (gần chết) 
		cũng như Trương Vĩnh Kư so với ngoài Bắc dùng “kẻ ŕnh sinh th́” 
		(Vallot).Các từ điển Hán Việt 
		và tiếng Việt như của Đào Duy Anh (1932) , Thiều Chửu (1942), Hoàng Thúc 
		Trâm (1950), Trần Văn Chánh (1999/2005), Đại Từ Điển Tiếng Việt (Văn Hoá 
		Thông Tin, 1999) đều không có từ sinh th́ (chết).
 
		
		 1. Lấn cấn từ thời 
		gian đầu
 VBL sắp xếp mục theo 
		các nghĩa khác nhau và theo vần của mẫu tự La Tinh truyền thống. Chữ 
		sinh có 6 mục tất cả
 Sinh, sống … Sinh kí tử 
		qui, sống th́ gưởi, thác th́ về, phục sinhSinh, đẻ … kẻ hậu 
		sinh, sinh sản, sinh nhệt (nhật)
 Sinh, lên … sinh lên: 
		giờ lên, đă sinh th́ (chết)
 Sinh, sênh (thanh gỗ 
		nhịp để chèo thuyền)
 Sinh, sulfur (chất lưu 
		huỳnh) … lửa sinh lửa diêm
 Sinh đồ (học tṛ)
 Tới thời các LM Béhaine 
		(1772), Taberd (1838) th́ vẫn theo vần La Tinh, nhưng kèm thêm các chữ 
		Hán/Nôm; nên các vị này đă xếp lại theo cùng một loại chữ Hán/Nôm thành 
		ra chỉ c̣n 3 mục và thêm một mục với chữ sinh bộ ngưu (hi sinh) 1- 生 Sinh … sinh sản, sinh 
		thành, sinh tử … giáng sinh, lễ sinh nhật, sát sinh, hậu sinh …2- 笙 Sinh (sênh) … 
		sinh tiền
 Cách dùng lửa sinh rất đặc 
		biệt: sinh là sulfur, cách dùng tắt của sinh diêm 生鹽. Thời VBL c̣n dùng 
		từ kép sinh tiêm (Béhaine/Taberd,Huỳnh Tịnh Của dùng thẻ sinh) so với 
		cách dùng cây diêm, que diêm, hộp diêm (hộp quẹt) hiện nay. Như vậy sinh 
		có một phạm trù nghĩa rộng vào thời VBL, điều này có thể ảnh hưởng đến 
		cách dùng sinh th́ của các giáo sĩ trong quá tŕnh kư âm tiếng Việt thời 
		ban đầu.
 1.1 Phạm trù nghĩa của 
		sinh th́ là giờ lên, chết đă có vấn đề ngay từ ban đầu: chính v́ thế mà 
		LM Alexandre de Rhodes đă phải giải thích thêm là “chúng tôi mượn cách 
		nói đó nơi người Lương dân để chỉ ư nghĩa sự chết của người Kitô hữu, 
		như đi lên với chúa” (VBL, trang 688). “cách nói đó nơi người Lương dân” 
		trong câu trên có thể là cách nói dân dă (không theo sách vở hay tài 
		liệu chính thống) hay khẩu ngữ, và đây cũng là một nguyên nhân gây ra 
		nhiều lấn cấn trong việc hiểu sao cho đúng nghĩa của sinh th́. Trong 
		phần mục lục của VBL, trong mục tra chữ chết qua các dạng La Tinh như 
		mori, mortuus … th́ không thấy ghi sinh th́ so với các từ khác như chết, 
		mất, về quê … Điều này cho thấy LM Alexandre de Rhodes không quen dùng 
		sinh th́, hay là một cách dùng rất mới mẻ mà ít người biết đến (ngay cả 
		những người có công chế ra nó?).
 Tới thời LM Pigneaux 
		de Béhaine (Bá Đa Lộc/1741-1799) th́ ông cũng ghi nhận hai nghĩa của 
		sinh th́ (gần như VBL) trong từ điển (1772); từ điển Taberd (1838) sau 
		đó cũng ghi như vậy – cả hai từ điển có kèm thêm chữ Hán
 生時 sinh th́ fato concedere 
		(tuỳ vào số mệnh/an bài) – mục “sinh”…
 生時 sinh th́ mori 
		(chết) – mục “th́” #
 # fato (gốc là danh từ 
		fātum, số phận/vận mạng chỉ định) cũng là gốc của fate (số phận, tiếng 
		Anh), fatality (tai ương, sự chết chóc) và tiếng Pháp fatal, fatalité …Động từ La Tinh 
		concedere (con+ceder) nghĩa là chịu theo, cho phép … Gốc của động từ 
		concede (tiếng Anh, cùng nghĩa), concession (danh từ, sự nhượng bộ) và 
		concéder (tiếng Pháp, cùng nghĩa)…v.v…
 Nghĩa thứ nhất “số 
		phận đă an bài/fato concedere” có thể hiểu là chết, hay vẫn c̣n sống 
		nhưng phải chịu theo hoàn cảnh sống (mà ḿnh không muốn như vậy, và cũng 
		có thể hàm ư chết). Các tài liệu về sau bỏ nghĩa này mà chỉ đơn giản ghi 
		nghĩa của sinh th́ là chết mà thôi.
 1.2 Sinh th́ theo LM 
		Gustave Hue
 LM Gustave Hue (tên 
		Việt là Hương) rất tinh thông chữ Hán và tiếng Việt, lúc đă 67 tuổi ông 
		c̣n học thêm tiếng Mường để giúp sự nghiệp truyền đạo trong giáo phận 
		Hưng Hoá. Cuốn từ điển Việt-Hoa-Pháp (Dictionnaire vietnamien chinois 
		francais, Imprimerie Trung Hoà – 1937) được soạn rất nghiêm túc và dựa 
		vào từ điển của Génibrel/1898, Truyện ông thánh Aocutinh, Truyện bà 
		thánh Monica, Khang Hi Tự Điển, Việt Nam Tự Điển … Trong cuốn này, đặc 
		biệt ông ghi nghĩa của sinh th́ là temps de la vie (lúc sống), một điểm 
		đáng chú ư ở đây là LM Gustave Hue đă có ư không đồng thuận với nét 
		nghĩa chết theo truyền thống CG. Vấn đề hiểu nghĩa chính xác của sinh 
		th́ đă gây không ít bối rối cho các LM trong khi dịch kinh2. Sau đây là 
		vài cách giải thích về nguồn gốc ra đời của cách dùng sinh th́, một cách 
		dùng cổ (nghĩa là chết) trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Hán3.
 2. Sinh th́ là 
		dùng nhầm
 Một cách giải thích 
		nguồn gốc của ST là khi các giáo sĩ lần đầu học tiếng Việt (lẫn với 
		tiếng Hán Việt) th́ hiểu nhầm nghĩa của dân bản xứ. Sau đây là một đoạn 
		trích từ các trao đổi của bác Nd (28/12/2013) trên trang nhà 
		http://xuandienhannom.blogspot.com.au/2013/12/nguon-tu-lieu-tu-vung-ky-17-qua-khao.html
 “- Hai chữ “sinh th́” được 
		chú nghĩa là “chết” xuất hiện lần đầu tiên là trong từ điển A. de Rhode. 
		Từ điển này lại tiếp thu từ điển trước đó của hai giáo sĩ đầu thế kỉ 
		VXII (đă thất truyền).- Với nghĩa là “chết”, 
		hai chữ “sinh th́” chỉ xuất hiện trong các văn bản Thiên chúa giáo chứ 
		không hề xuất hiện trong các văn bản tôn giáo khác.
 Ở đây, có vấn đề sai 
		sót khi các cố đạo phương tây thời xa xưa làm từ điển. Sai sót của họ là 
		khi tiếp xúc với cộng tác viên bản địa, họ nhầm “ngữ dụng” ra “ngữ 
		nghĩa”. Có thể h́nh dung vấn đề như sau:
 Hỏi: Sinh th́ là ǵ?Trả lời: Lúc sống.Chỉ 
		dùng để nói với người đă chết (Trả lời theo cách dùng = ngữ dụng).
 Các cụ cố đạo ta nghe 
		tiếng Việt chỉ rơ đoạn sau: “dùng để nói với người đă chết” và tưởng đó 
		là nghĩa nên chú luôn vào. Họ bị nhầm.
 Thế tại sao các thầy giảng 
		người Việt thạo tiếng Việt vẫn dùng phổ biến?Có nhiều lí do:
 -Họ học và viết theo 
		tinh thần tôn giáo: Cổ mẫu không được thay đổi. Tâm lí tôn giáo nào cũng 
		thế.
 -Họ viết trao đổi với 
		Ṭa Thánh nên dùng nghĩa mà hai bên đều hiểu qua từ điển. (mà tốt nhất 
		là qua Việt – Bồ – La của de Rhodes).
 -Họ dù có băn khoăn 
		nhưng áp lực của từ điển lớn hơn. Tâm lí này đến nay vẫn c̣n ngay cả các 
		nhà nghiên cứu. Cứ thấy từ điển cổ ghi là đưa làm dẫn chứng mà không suy 
		xét điều kiện và tŕnh độ các cụ Cố xưa. Các cách lí giải chữ TẠN, cách 
		hiểu CUỘI là “tiếng vang”, cách dẫn NƯỚC ĐĂ TẠN GỖ v,v, là tâm lí đó … 
		Khi chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu những trường hợp đặc dị trong từ 
		điển liên quan đến tiếng Việt từ XIX trở về trước, đă phát hiện hàng 
		loạt sai sót tương tự.
 Kết luận: Hiểu sinh 
		th́ là “chết” là do từ điển de Rhodes sai dẫn tới các văn bản của các 
		thầy giảng sai, đồng thời, các từ điển sau này học theo cũng sai nốt. Nó 
		không được coi là từ cổ đă chuyển nghĩa so với ngày nay. Nếu chúng ta 
		hiện nay đi làm từ điển tiếng địa phương hoặc từ điển tiếng dân tộc chắc 
		cũng nhiều sai sót như Tây xưa làm từ điển tiếng Việt. Coi mọi cái người 
		ta làm là chân lí th́ đó là tư duy nô lệ” (hết trích).
 3. ‘Kỹ nghệ’ dùng 
		từ chỉ ‘cái chết’ trong ngôn ngữ
 Tiếng Việt cũng như 
		một số ngôn ngữ khác thường có nhiều cách để diễn đạt sự chết: các nhà 
		quyền quư như vua th́ băng hà, thăng hà … cho đến dân thường th́ mất đi, 
		qua đời … Ảnh hưởng của đạo Phật, cao điểm là vào thời Trần (1226-1400), 
		cũng cho ra nhiều cách dùng chỉ sự chết như siêu thoát, siêu sinh, văng 
		sinh … Đây c̣n là cách dùng mỹ từ4 (uyển ngữ, nhă ngữ, khinh từ, nói 
		giảm, nói tránh …) trong ngôn ngữ. Nh́n rộng ra hơn, chúng ta c̣n thấy 
		phần nào tính chất tế nhị và phương cách ứng xử khéo léo của con người 
		(nhất là trong các trường hợp bi thương và dễ gây nhiều va chạm mạnh mẽ 
		như chết chóc) qua ca dao
 Lời nói không mất tiền muaLựa lời mà nói cho vừa 
		ḷng nhau
 Tác giả Bằng Giang trong 
		“Tiếng Việt phong phú” (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1967) c̣n liệt kê hơn 1001 
		cách diễn đạt cái chết…v.v… Vào thời VBL, các từ chỉ sự chết được ghi 
		nhận qua các mục riêng là Chết 
		Mất
 Toi
 Tử
 Xong chân xong tay
 Trút linh hồn ra
 Về quê
 Qua đời
 Sinh th́
 Đức Chúa Trời rước – 
		sinh th́ cùng nghĩa (trang 661/VBL)
 Tắt ngh́, tắt hơi
 (không kể các từ kép 
		như chết lụn, chết lích, chết rũ …)
 LM de Rhodes rất băn khoăn 
		về ḷng tin của người An Nam về sự chết (qua ngày giỗ, tang chế, luân 
		hồi, kiếp sau …), điều này cũng dễ hiểu v́ đó là một tính chất khác biệt 
		rơ ràng nhất so với CG (qua các bí tích như Rửa Tội, Xức Dầu bệnh 
		nhân/người hấp hối …), phản ánh phần nào trong lập luận của ông trong 
		Phép Giảng Tám Ngày/PGTN: “Có lời rằng: “Khi sinh ra 
		chẳng có đem một đồng mà lại; khi chết cũng chẳng có cầm một đông mà 
		đi”. V́ chưng người ta ở thế này chẳng ai khỏi sự ấy, th́ phải học đạo 
		thánh về đời sau, cho ngày sau chúng tôi được sống lâu vô cùng.Cho biết sự ấy tỏ 
		tường, th́ phải nhớ lời đất Annam này nói liên: “Sống th́ gửi, chết th́ 
		về” (nói chữ: sinh là kí dă, tử là quy dă). Song le th́ phải hay đời sau 
		có hai quê: một là quê lành, hai là quê dữ; quê trên, quê dưới, thiên 
		đàng, địa ngục. V́ chưng trên trời th́ có thiên đàng: ai đến được trên 
		ấy th́ chịu hằng hằng vui vẻ vậy. “(PGTN/Ngày thứ Nhất)
 …
 Vậy th́ nó làm linh 
		hồn người ta hay chết, cũng bằng giác hồn hay là sinh hồn, mà làm vậy 
		th́ điều nào nó đă nói trước, đến sau th́ nó lại chối. V́ chưng ví bằng 
		nó ngờ linh hồn người ta hay chết, cũng như hồn muông chim hay là hồn 
		cây cối, mà sao lại rằng có luân hồi cho người ta lại sinh ở xác khác? 
		Ví bằng linh hồn người ta, khi xác chết, cũng chết với, lại sinh lại mà 
		cho xác khác sống làm sao được? Mà lại luân hồi ấy chẳng ưa lẽ ở trong 
		ḷng các người ta, cùng huỷ báng lời thiên hạ, dầu Đại minh, dầu Annam, 
		quen nói liên làm vậy: “Sinh kí dă, tử quư dă”, sống th́ gửi, chết th́ 
		về. Ví bằng có luân hồi, mà chẳng phải dối, th́ linh hồn một ở gửi liên 
		vậy: bây giờ th́ ở gửi trong xác này, đến sau một giây nữa th́ lại ở gửi 
		trong xác khác vậy.” (PGTN/Ngày thứ Bốn)
 …
 Trong VBL, ông cũng 
		nhắc lại câu “sinh kí tử qui” trong mục gưởi, mục qui. Ngoài ra, VBL c̣n 
		ghi nhận các từ liên hệ như kiếp, nghiệp, trầm luân, luân hồi, nát bàn, 
		vô thường, sinh tử bất ḱ, sống chết chẳng hẹn (hàm ư vô thường) … cho 
		thấy ảnh hưởng không nhỏ của PG trong ngôn ngữ hàng ngày vào thời VBL 
		(1651). Một điểm đáng chú ư ở đây là phạm trù nghĩa của vô thường 無常 với 
		các nghĩa như sau
 a) biến hoá không nhất 
		định: nghĩa này đă có từ lâu như trong Kinh Thi 民心無常,惟惠之懷 dân tâm vô 
		thường, duy huệ chi hoài (蔡仲之命 Thái Trọng Chi Mệnh, trong Kinh Thi)亦可以觀萬物之無常,覽時之倏來而忽逝也 
		diệc khả dĩ quan vạn vật chi vô thường, lăm th́ chi thúc lai nhi hốt thệ 
		dă (Tây Khương Truyện Tư, trong Hậu Hán Thư)
 b) vô thường theo PG là 
		không tồn tại lâu dài (qua tứ kiếp: sinh, thành, hoại, trụ). Một trong 
		Tam Pháp Ấn … c) chết (uyển ngữ trong 
		PG) d) một loài quỷ bắt hồn 
		người ta đi: trong các tài liệu Hán trung cổ c̣n dùng như trong truyện 
		Du Thế Minh Ngôn 喻世明言 (hay c̣n gọi là Cổ Kim Tiểu Thuyết) của Phùng Mộng 
		Long (1574-1646), một đại văn hào biên soạn vào cuối đời Minh: 閻君得旨,便差無常小鬼,將重湘勾到地府 diêm 
		quân đắc chỉ, tiện sai vô thường tiểu quỷ, tương trọng tương câu đáo địa 
		phủ Lỗ Tấn (1881-1936) cũng có 
		cách dùng tương tự trong Triêu Hoa Tịch Thập: 至於勾攝生魂的使者的這無常先生,卻似乎於古無徵 
		chí ư câu nhiếp sanh hồn đích sử 
		giả đích giá vô thường 
		tiên sanh, khước tự hồ ư cổ vô trưng
 Điều quan trọng là VBL 
		chép lại nghĩa của vô thường là “tên vị quỷ thần mà những người già sợ 
		hăi. Và bởi đấy trong ba ngày đầu năm mới, người ta phải trốn vào các 
		đền thờ, v́ người ta tưởng chỉ trong thời gian đó quỷ thần mới đến để 
		t́m bắt và giết chết họ, và bởi thế họ nói vô thường, v́ không phải lúc 
		nào quỷ thần cũng ŕnh hại như vậy” (trang 787, VBL). Cách dùng quỷ thần 
		(vô thựng) và tập tục ‘ba ngày đầu năm vào trú trong chùa’ rất xa lạ 
		với người Việt. Dữ kiện này c̣n cho ta một khả năng là LM de Rhodes đă 
		ghi chép phong tục và ngôn ngữ của người TQ (ở Mân Nam/Ma Cao) hay trích 
		trực tiếp các tài liệu Hán, một yếu tố cần phải xem xét thận trọng khi 
		t́m hiểu nguồn gốc “sinh th́”. 4. Nhu cầu cần 
		thiết để chế chữ v́ khoảng cách quá lớn
 Khi các LM truyền đạo 
		đến Á Đông truyền đạo, các vị nhận thức ngay sự khác biệt rất lớn về 
		truyền thống văn hoá của phương Đông và phương Tây, phản ánh qua ngôn 
		ngữ và ḷng tin vào sự chết – qua ảnh hưởng phần nào của Phật giáo – 
		ngày (giỗ) người chết vẫn quan trọng hơn ngày người đó ra đời; nhớ rằng 
		là măi đến năm 1939 đức giáo hoàng Pie XII mới ra lệnh cho thờ cúng tổ 
		tiên ở Á Châu! Để chỉ sự chết, Phật giáo dùng các từ văng sinh, siêu 
		sinh … so với các từ HV khác như tốt 卒, một 沒, vẫn 殞 hay 隕 (rơi, rớt –> 
		chết), tử 死, ế 殪 (giết, chết, hết, ngă/té), tịch 寂 (thị tịch, viên tịch 
		PG), thệ 逝 (đi qua không trở lại –> chết), tồ 殂 徂, vong 亡, tử vong, cố 
		故, thệ 逝 (đi qua), tuẫn 殉 (chết theo), chung 終 (chấm dứt), băng 崩 (vua 
		chết), thăng hà 升遐 (vua chết)… Trong “Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh” 
		có câu
 沒生淨土 một sinh tịnh độ (mất 
		sinh Tịnh Độ, trang 44a) V́ thế mà các LM tiên 
		phong cần phải t́m ra một từ (thuần Công Giáo, hay rất xa lạ so với 
		tiếng Việt) để diễn đạt cái chết, đồng thời giải toả phần nào các sức ép 
		từ cách dùng/ ḷng tin của truyền thống địa phương rất lâu đời cùng với 
		Phật giáo. Trong bối cảnh đó, “sinh th́” đă ra đời, kết quả của giao 
		thoa văn hoá ngôn ngữ của Đông và Tây cũng như tôn giáo trong vùng Đông 
		Nam Á. Hiểu được sinh th́ (chết theo CG) là hiểu được phần nào cốt lơi 
		của kinh Thánh, của cái chết thay cho con người của đức Chúa Trời. Giả 
		sử LM de Rhodes không ghé Ma Cao (LM Matteo Ricci đă từng đến đây năm 
		1582), cũng như không dạy Thần Học ở Học Viện Thần Học (1630-1640) ở 
		đây5 và khi về Rome không mang theo một người thông dịch TQ (ông xin bề 
		trên ba người từ Đàng Trong, Đàng Ngoài và Trung Quốc nhưng chỉ được 
		một) th́ mối liên hệ với tiếng địa phương TQ (Mân Nam) rất khó nhận ra. 
		Một điểm đáng nêu ra ở đây là chữ th́ không nằm trong các định nghĩa của 
		VBL dù rằng tần số dùng của từ này rất cao6 vào thời VBL. Các từ điển 
		của Béhaine, Taberd, Génibrel … về sau đều có mục “th́”. Vào thời VBL, 
		một giờ (th́ HV) bằng hai giờ theo như LM de Rhodes “V́ trong một ngày 
		tự nhiên chỉ được chia ra làm 12 giờ, mỗi giờ tương đương với hai giờ 
		của chúng ta. Đầu ngày khởi sự từ 3 giờ của chúng ta sau nửa đêm”. Đồng 
		hồ máy (cơ khí) đă thịnh hành từ thế kỷ XVI ở Âu Châu, từ các thành phố 
		nổi tiếng về luyện kim như Nuremberg và Augsburg, hay Blois (Pháp); vào 
		thời đó các đồng hồ này đă có khả năng chỉ giây và phút. Vào năm 1627, 
		LM de Rhodes đă tặng5 Trịnh Tráng một đồng hồ cát và một đồng hồ máy báo 
		thức, đây cũng là giai đoạn giao hảo rất tốt giữa hai bên. Điều này cho 
		thấy cách dùng giờ trong “giờ lên” (sinh th́/VBL ascensus hora), theo 
		Tây phương vào thời đó, có nghĩa hẹp hơn so với cách dùng giờ của người 
		An Nam. Một nghi thức thường thấy là (mời cha) đọc kinh cầu nguyện cho 
		người sắp chết trong CG (Last Rites/Extreme Unction), phản ánh tầm quan 
		trọng của “giờ lên” (sinh th́) và nhu cầu sáng tạo ra một thuật ngữ để 
		diễn đạt t́nh huống này; thật là khác với phong tục truyền thống ở Á 
		Đông. Thêm vào đó là cách giải thích “Đức Chúa Trời rước” (VBL) cho 
		“sinh th́” lại càng xa lạ hơn đối với đại đa số quần chúng vào giai đoạn 
		này, một lần nữa cho thấy khoảng cách giữa hai nền văn hoá mà các giáo 
		sĩ CG tiên phong đă nhận ra là một vấn đề cần phải giải quyết (trong quá 
		tŕnh truyền đạt và hội nhập CG). Xem thêm chi tiết về các khái niệm th́ 
		(thời, thời gian tuần hoàn so với thời gian theo đường thẳng) trong bài 
		viết “Tản mạn về từ Hán Việt – thời th́ (phần 6.2)” , cùng tác giả 
		(Nguyễn Cung Thông) trên trang này chẳng hạn 
		http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=4101:tn-mn-v-t-han-vit-thi-thi-phn-62&catid=71:ngon-ng-hc&Itemid=107&lang=vi 
		. Ngoài hai đồng hồ, LM de Rhodes c̣n tặng cho Trịnh Tráng cuốn sách “Kỉ 
		Hà Nguyên Bản” (幾何原本) do cha Matteo Ricci (1552-1610, tên chữ Hán là 利瑪竇 
		Lợi Mă Đậu) và Từ Quang Khải (徐光啓) biên soạn5; điều này cho thấy LM de 
		Rhodes đă tận dụng các tài liệu mà giáo sĩ tiên phong Ricci soạn ra. 
		Thành ra khi dịch “đức chúa trời” th́ LM de Rhodes cũng dùng Thiên Chủ 
		(Thiên Chúa) từng được cha Ricci lựa chọn để dịch khái niệm “Thượng đế” 
		(god) theo Công giáo. Thành ra khi dịch “đức chúa trời” th́ LM de Rhodes 
		cũng dùng Thiên Chủ (Thiên Chúa) từng được cha Ricci lựa chọn để dịch 
		khái niệm “Thượng đế” (Deus tiếng La Tinh), với hàm ư là chỉ có một Chúa 
		(tạo ra tất cả) theo kinh Thánh; và khi dịch Thiên đường7 (nhà trời) th́ 
		LM de Rhodes ghi thêm ” nên nói là Thiên Chúa đàng, nhà Chúa Trời” 
		(trang 763/VBL). Để ư cách dùng “Thiên Chủ (Chúa) Đường (Đàng)” 天主堂 với 
		nghĩa là giáo đường trong tiếng Hán. 5. Sinh trong sinh 
		th́ là cách đọc dân gian (khẩu ngữ)
 5.1 Miền Nam Trung 
		Quốc
 Một cách khác t́m hiểu 
		liên hệ giữa sinh và lên (nghĩa của sinh trong sinh th́ theo VBL) là 
		phục nguyên âm Hán trung cổ của từ HV thăng (nghĩa là lên, cũng theo 
		VBL). Chữ thăng 升 (thanh mẫu thư 書 vận mẫu chưng 蒸 b́nh thanh, khai khẩu 
		tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
 識蒸切 thức chưng thiết 
		(TVGT, ĐV, QV)書蒸切,音陞 thư chưng 
		thiết, âm thăng (TV, VH)
 舒丞切 thư chưng thiết 
		(NT, TTTH)
 式呈切,音聲 thức tŕnh 
		thiết, âm thanh/thinh (TVi)
 尸羊切,音商 thi dương 
		thiết, âm thương (TVi)
 方中切,音風 phương trung 
		thiết, âm phong/phúng (TVi, CTT)
 審征切,音聲 thẩm chinh 
		thiết, âm thanh/thinh (CTT)
 …v.v…
 Giọng Bắc Kinh bây giờ là 
		shēng so với giọng Quảng Đông sing1 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] shin1 
		[海陆丰腔] shin1 [客英字典] shin1 [东莞腔] sin1 [客语拼音字汇] sin1 [宝安腔] sin1 [沙头角腔] 
		sin1 [台湾四县腔] siin1 [陆丰腔] shin1 潮州话:sêng1 (seng).Dựa vào cách phiên 
		thiết của TVi (Tự Vị/1615) và CTT (Chánh Tự Thông/1670) và các phương 
		ngữ miền Nam TQ, ta có thể phục nguyên một dạng âm trung cổ của thăng là 
		*sinh (b́nh thanh). Điều này cho thấy khả năng lẫn lộn giữa phụ âm đầu 
		lưỡi xát s và phụ âm đầu lưỡi tắc th- vẫn c̣n hiện diện vào thời VBL dù 
		rằng hiếm hoi. Thật ra hiện tượng lẫn lộn s/x và th trong các từ Hán 
		Việt vẫn c̣n thấy trong tiếng Việt hiện đại như cách dùng xâm bổ 
		lượng/lương (thanh bố lương 清補涼 một món giải khát phổ thông ở Quảng 
		Đông, Quảng Tây, Hương Cảng, Áo Môn, Hải Nam và Việt Nam) – thanh HV đọc 
		là xanh hay *xâm v́ đứng trước âm môi b- bổ trong khẩu ngữ – cũng như 
		trường hợp *khán bệnh 看病 > khám bệnh. Trường hợp bài xập xám thay v́ đọc 
		là thập tam (bài 13 lá, thập tam trương HV – sap sam chương hay Chinese 
		poker) cũng cho thấy khẩu ngữ gần âm Hán (giọng Quảng Đông) so với âm HV 
		v́ môi trường tiếp xúc trực tiếp với người TQ (vd. Quảng Đông). Cách 
		dùng xí ngầu lác (tứ ngũ lục 四五六, một loại cờ bạc dùng 3 con 
		lúc-lắc/súc-sắc có sáu mặt) hay hột xí ngầu cũng cho thấy cách đọc dân 
		dă gần với tiếng TQ (giọng Mân Nam), thay v́ theo âm Hán Việt. Do đó ta 
		có cơ sở để liên hệ cách đọc sinh trong sinh th́ và thăng vào giai đoạn 
		VBL, dựa vào khả năng mượn cách đọc trực tiếp của âm Hán trung cổ *sinh 
		của các giáo sĩ Tây phương thời đó qua khẩu ngữ. Điều này cũng không khó 
		giải thích v́ các giáo sĩ này thường qua lại Ma Cao, và cũng có thông 
		dịch người địa phương (rất có thể là người địa phương này là dân Mân 
		Nam) khi đến VN giảng đạo. Tương quan giữa phụ âm đầu s- và th- c̣n hiện 
		diện trong các chữ phiên âm8 tiếng Việt của các giáo sĩ tiên phong
 Sinunua (Thuận Hoá – 
		Christoforo Borris 1618/1621)Sinoa (Thuận/Thanh Hoá 
		– Joan Roig 20/11/1621)
 Sinua (Thuận Hoá – 
		Antonio de Fontes 1/1/1626)
 Sinóa (Thuận Hoá – 
		Antonio de Fontes 1/1/1626)
 Xán tí (thượng đế – 
		Francesco Buzomi 13/7/1626)
 Thiên chu xán tí 
		(thiên chủ thượng đế – Francesco Buzomi 13/7/1626)
 Sinoa (Thuận Hoá – 
		Alexandre de Rhodes 1631)
 …
 Hoá, Kẻ Hoá, Thuận 
		Hoá: kinh đô sứ Cô-sinh mà người Bồ Đào gọi là sinuà: kẻ hoé (VBL/1651 – 
		trang 329)
 Hoa, thinh hoa: một 
		tỉnh trong vương quốc Đông Kinh mà người Bồ Đào gọi là sinufà, Thinh hoê 
		cùng một nghĩa (VBL/1651 – trang 328)
 …v.v…
 Nguyên âm ă (thăng) 
		với độ mở miệng lớn tương ứng với nguyên âm có độ mở miệng nhỏ như ư hay 
		i như các trường hợp phiên thiết bên trên: thăng có vận mẫu là chưng, âm 
		đọc là thinh/thanh. Các cách đọc HV sinh/sanh, thinh/thanh, đinh/đanh, 
		chính/chánh, tính/tánh … đều cho thấy biến âm này. Tóm lại, ta có cơ sở 
		để liên hệ âm sinh và thăng theo nét nghĩa sinh th́ (giờ lên/VBL).
 5.2 Miền duyên hải Bắc bộ
 Tương quan giữa sinh 
		và thăng c̣n có thể giải thích qua phương ngữ ở VN như từ khu vực Nam 
		Định/Thái B́nh như đă nói trên. Trong VBL (1651) ghi vị sang 味瘡 là loại 
		thuốc độc regalzar, aconitum (khoáng sản có chất độc arsenic). Một điểm 
		đáng chú ư là chỉ có VBL mới ghi một cách đọc khác của vị sang là vị 
		thang – các tài liệu sau đó như Béhaine (1772), Taberd (1838) … cho đến 
		nay đều ghi cách đọc vị sang. Để ư thêm là các giọng khu vực Nam Định và 
		Thái B́nh9 vẫn lẫn lộn giữa s và th (VBL c̣n ghi sóc tlán là sói tlán, 
		sóc chính là một dạng của thốc 秃, sặp là một dạng biến âm của tháp 榻). 
		Xem lại chữ sang 瘡 (thanh mẫu sơ 初 vận mẫu dương 陽 b́nh thanh, khai khẩu 
		tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết
 初良切 sơ lương thiết (QV, 
		TV, VH, LT)楚羊切 sở dương thiết 
		(NT, TTTH)
 楚莊反 sở trang phản 
		(LKTG)
 初亮切 sơ lượng thiết 
		(QV)
 磢霜切 sưởng/sang sương 
		thiết (TV, LT)
 刅良切 sang lương thiết 
		(LTCN)
 初莊切, 音窻 sơ trang 
		thiết, âm song (TVi)- song 窗 đọc là chuāng (giọng BK bây giờ) cũng như 
		sang 瘡 đọc là chuāng
 楚莊切, 音窗 sở trang 
		thiết, âm song (CTT)
 …v.v…
 Giọng BK bây giờ là chuāng 
		(theo pinyin) so với giọng Quảng Đông cong1 và các giọng Mân Nam 
		客家话:[台湾四县腔] cong1 [客英字典] cong1 [陆丰腔] cong1 [梅县腔] cong1 [沙头角腔] cong1 
		[宝安腔] cong1 [海陆丰腔] cong1 [客语拼音字汇] cong1 [东莞腔] cong1. Do đó sang là âm HV 
		rất chuẩn theo phiên thiết, tuy nhiên dạng thang (theo VBL, vị thang) có 
		thể là âm địa phương không phân biệt rơ ràng các phụ âm đầu s- và th-. 
		Trong VBL c̣n ghi cây thâu đâu, so với các từ điển sau đó đều ghi là cây 
		sầu đâu (Béhaine/1772, Taberd/1838, HTC/1895, Génibrel/1898-SaiGon, 
		Vallot/1898-HaNoi). Hiện tượng này c̣n để vài vết tích trong chữ Nôm như 
		sượng (thẹn) dùng chữ thượng 尚 hay những cách dùng đồng đại như 
		sẹo/thẹo, xuổng/thuổng, sụt/thụt, xoa/thoa, xùng x́nh – thùng th́nh … 
		Một số trường hợp cho thấy sự khác biệt giữa giọng Nam bộ và Bắc bộ 
		(Tonkin) như các tác giả ghi nhận sau đây Cicatrice: thẹo (sẹo – 
		Tonkin) – Trương Vĩnh Kư (Petit Dictionnaire francais annamité/1884) 
		
		  (Béhaine/1898 – SaiGon) – 
		Tonkin (Đông Kinh) viết tắt là T trong các tài liệu trên. 5.3 Tương quan ngữ âm s-th 
		(lịch đại)
 Vào thời VBL (1651), 
		một số từ HV đă phân biệt rơ hai phụ âm đầu s/x- và th- như xanh và 
		thanh, xích và thước … Các dạng này phản ánh giao lưu ngôn ngữ ở các 
		thời kỳ khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hán. Trường hợp chữ thăng 
		(lên) là âm HV trong VBL phù hợp với khuynh hướng biến đổi từ âm Hán cổ 
		*sjing/sjong trở thành *thâng (thưng, thăng) trong hệ thống10 âm HV. 
		Điều này c̣n thấy trong các tương quan giữa tiếng TQ hiện đại (theo 
		pinyin) và HV như shí 時 th́ (thời), shuǐ 水 thủy, sḥu 受 thụ, sh́ 受 thế, 
		shēng 聲 thanh … Dựa vào các dạng âm cổ của các từ trên, ta có thể suy 
		đoán là phụ âm đầu lưỡi tắt th- hiện diện không lâu đời như phụ âm đầu 
		lưỡi xát s-. Vào khoảng thế kỷ XV, ta thấy An Nam Dịch Ngữ được người 
		Minh phiên âm bằng 8 phụ âm th- cho phụ âm đầu th-, và 17 từ phiên bằng 
		âm xát hay tắt xát11. Tuy không thấy cách dùng sinh để chỉ lên trong 
		tiếng Việt như sinh th́, nhưng các dạng śnh (to lên, śnh bụng), sỉnh 
		(lớn dần lên12) có thể liên hệ đến âm cổ *sinh (thăng lên) chăng? Các 
		tương quan này cần được tra cứu để thêm phần chính xác.
 6. Chữ nghĩa thay 
		đổi theo thời gian
 Một tính chất của ngôn 
		ngữ là hiện tượng thay đổi nghĩa theo ḍng thời gian (lịch đại). Tiếng 
		Pháp dùng động từ trépasser nghĩa gốc là đi qua, vượt qua (một cách vô 
		phép hay bất hợp pháp), nhập vào tiếng Anh cũng mang nghĩa này chứ không 
		có nghĩa mở rộng là qua đời (chết) trong tiếng Pháp. Trépasser lại có 
		gốc La Tinh là tiền tố trans- (qua) và ngữ căn passus (bước) cho thấy 
		nghĩa nguyên thuỷ rất cụ thể. Tiếng La Tinh có động từ decedere thành 
		lập do tiền tố de- (ra khỏi) và ngữ căn cedere (đi), do đó decedere 
		nghĩa là đi qua (rời khỏi) và nghĩa mở rộng là qua đời (chết, một h́nh 
		thức uyển ngữ); nhập vào tiếng Pháp cho ra các dạng décéder (chết), 
		décés (sự chết) cũng như các dạng tiếng Anh decease (chết) … Có những 
		trường hợp mà nghĩa có thể thay đổi đến mức có thể là hoàn toàn ngược 
		lại (phản nghĩa) với nghĩa nguyên thuỷ, dù rằng khá hiếm v́ nếu không 
		ngôn ngữ con người sẽ trở nên hỗn loạn và khó hiểu! Khuynh hướng này 
		thật ra cũng hiện diện trong VBL qua các cách dùng nồng nàn : thời VBL 
		nghĩa rất tiêu cực (hỗn láo, không tôn kính), nhưng bây giờ hàm ư tích 
		cực (t́nh yêu nồng nàn)
 …
 non dạ: thời VBL nghĩa 
		là muốn mửa ra (nausea) cũng như buồn dạ, bây giờ non dạ nghĩa rất khác 
		(không kinh nghiệm, dễ bị dụ) – có thể VBL ghi nhầm nôn thành non?
 …v.v…
 Với quán tính rất lớn của 
		hệ thống từ Hán Việt, sinh th́3 (xem lại phạm trù nghĩa HV) cũng có thể 
		mang những nét nghĩa mâu thuẫn với nhau khi ta so sánh nghĩa ở các thời 
		kỳ khác nhau. Trong trường hợp của các dạng HV đồng âm dị nghĩa, ta c̣n 
		thấy những chữ như Minh là sáng (bộ nhật 明)Minh là tối (bộ miên 
		冥)
 Mẫu là mẹ, giống cái (bộ 
		vô 母)Mẫu là giống đực (bộ 
		ngưu 牡)
 Âm là tiếng, thanh (音)Âm là câm, không ra 
		tiếng/ mất tiếng (bộ khẩu 喑)
 Thiển là nông, cạn (bộ 
		thuỷ 淺)Thiển là nhiều, đầy 
		(bộ nhục 淺)
 Du là vui (bộ tâm bên trái 
		愉)Du là buồn, âu sầu (bộ 
		tâm ở dưới 悠)
 Nam là (con) trai (bộ điền 
		男)Nam là bé gái (bộ vi 
		囡)
 …v.v…
 Qua các phân tích bên 
		trên, ta có thể thấy nhu cầu cấp bách để dùng một thuật ngữ tôn giáo 
		(CG) giải thích hiện tượng chết của một cá nhân để giải thoát cho mọi 
		người khác, để được lên nước Chúa … Các giáo sĩ đă dùng tiếng địa phương 
		(dựa vào Lương dân), nhưng tiếng địa phương nào th́ cần phải t́m hiểu 
		thêm hệ thống âm thanh của thế kỷ XVII ở Đông Nam Á để thêm phần chính 
		xác: có thể từ Mân Nam (tổng hành dinh của tập hợp các LM, trung tâm đầu 
		năo của các đoàn truyền giáo ở Đông Á) hay từ vùng duyên hải Bắc bộ (nơi 
		đă từng có các hoạt động truyền đạo đầu tiên ở Việt Nam). Ngoài ra, các 
		tác phẩm/tài liệu trước thời VBL như của LM Francisco de Pina, Gasparo 
		d’Amiral, Antonio Barbosa hay Matteo Ricci13 cần được coi lại xem các 
		cách dùng chữ Hán/Nôm như thế nào để thêm phần chính xác trong quá tŕnh 
		t́m hiểu nguồn gốc hai chữ sinh th́.
 7. Phụ chú và phê 
		b́nh thêm
 Phần này không hoàn 
		toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA v́ bao 
		gồm các phê b́nh thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể 
		tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Các bạn thấy thích thú th́ nên đọc 
		thêm các bài viết và tài liệu liên hệ đến bài này như “Khảo cứu văn bản 
		Nôm Kinh những lễ mùa phục sinh của Maiorica” tác giả Nguyễn Văn Ngoạn, 
		có thể đọc toàn bài trang này 
		http://www.sugia.vn/portfolio/detail/1106/nhung-hinh-anh-quy-gia-ve-viet-nam-130-nam-truoc.html/bien-dao-viet-nam.html 
		hay luận án “Chữ Nôm và tiếng Việt thế kỉ XVII qua Thiên chúa Thánh giáo 
		khải mông của Jeronimo Maiorica” tác giả Nguyễn Thị Tú Mai, có thể t́m 
		thấy ở trang này 
		http://luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTcFlGvQtlwu2012.1.6 , “Về cuốn 
		sách chữ Nôm THIÊN CHÚA THẬP NGŨ KHỔ NẠN KINH VĂN” trong Thông Báo Hán 
		Nôm Học 2001, tác giả Vơ Phương Lan – có thể đọc từ trang này 
		http://hannom.vass.gov.vn/noidung/thongbao/Pages/baiviet.aspx?ItemID=1450 
		…v.v…
 Hai bài viết quan 
		trọng đặc biệt có liên hệ đến chủ đề phần này là “Về hai chữ SINH TH̀” 
		của cố GS Nguyễn Tài Cẩn (2002), có thể đọc toàn bài trang này 
		http://ttvnol.com/threads/ve-hai-chu-sinh-thi.66261/ , và bài “Góp phần 
		giải thích từ Sinh Th́ trong kinh sách Công Giáo” của TG Nguyễn Long 
		Thao (2008), có thể đọc toàn bài trang này 
		http://www.vietcatholic.net/News/Html/60716.htm . Hài bài trên cũng đề 
		nghị khả năng sinh trong sinh th́ là cách đọc thăng của TQ (shēng giọng 
		Bắc Kinh). Một điểm cần phải lưu ư là chúng ta phải rất thận trọng khi 
		dùng âm hiện đại (như thăng đọc là shēng theo giọng Bắc Kinh bây 
		giờ/pinyin) để gán ghép cho âm đọc vào thế kỷ XVII. Chúng ta có thể phục 
		nguyên (reconstruct) một dạng âm Hán trung cổ dựa vào các cách đọc địa 
		phương (bảo lưu phần nào âm cổ) và các dữ kiện kí âm (như phiên thiết), 
		c̣n âm đọc chính xác hơn nữa th́ phải có dụng cụ/máy móc ghi lại âm 
		thanh thời đó!
 1) Lă Minh Hằng, 2013 ” 
		NGUỒN TƯ LIỆU TỪ VỰNG THẾ KỈ 17 – QUA KHẢO SÁT TRUYỆN ÔNG THÁNH INAXU” – 
		bài viết cho Hội Nghị thông báo Hán Nôm Học năm 2013 – có thể xem toàn 
		bài trang này 
		http://xuandienhannom.blogspot.com.au/2013/12/nguon-tu-lieu-tu-vung-ky-17-qua-khao.html 2) GS Nguyễn Tài Cẩn cũng 
		đưa ra nhận xét “Không phải ngẫu nhiên mà trong bản in lại Phép Giảng 
		Tám Ngày năm 1961, ở chú thích 49t, khi dẫn lại sự giải thích của từ 
		điển VBL, ban biên tập cũng rất kinh ngạc và phải đặt thêm dấu chấm than 
		ở cuối:‘… Trong từ điển của 
		tác giả có giải thích hai chữ SINH TH̀ một cách đáng chú ư: SINH nghĩa 
		là “lên”, TH̀ là “giờ”. Người ngoại giáo, tác giả nói, quen dùng thành 
		ngữ SINH TH̀ để chỉ “giờ lên” (!)’ – hết trích từ bài viết “Về hai chữ 
		SINH TH̀” của Nguyễn Tài Cẩn.
 3) Sinh th́ trong các tài 
		liệu Hán cổ (bây giờ rất ít dùng trong tiếng Trung/Quốc) có các nghĩa là 
		ngày-tháng-năm sinh hay lúc c̣n sống (như sinh tiền): 1.出生的年、月、日、時。 宋 秦觀 
		《望海潮》詞之四:“但恐生時註著,合有分於飛。” 許地山《凶手》第一幕:“上面寫的是大哥底生時本命。”2.活著的時候;生前。元 武漢臣 
		《老生兒》第三折:“他今死了,也道的個生時了了,死後為神。”《廿載繁華夢》第三回:“大人生時,曾説過有三十來萬帶回京去。”
 1. Xuất sinh đích 
		niên、 nguyệt、 nhật、 th́。 Tống Tần Quan 《 Vọng hải triều》từ chi tứ:“ đăn 
		khủng sinh th́ chú trứ, hợp hữu phân vu phi。” Hứa địa san 《 hung thủ》 đệ 
		nhất mạc: “ thượng diện tả đích thị đại ca để sinh th́ bổn mệnh。”
 2. Hoạt trứ đích th́ 
		hậu;sinh tiền。 Nguyên Vũ Hán Thần 《 Lăo sinh nhân》 đệ tam chiết:“ tha 
		kim tử liễu, dă đạo đích cá sanh th́ liễu liễu, tử hậu vi thần。”《 Nhập 
		tái phồn hoa mộng》đệ tam hồi:“ đại nhân sinh th́ , tằng thuyết quá hữu 
		tam thập lai vạn đái hồi kinh khứ。”
 4) Đoàn Tiến Lực, 2013 “Sự 
		tri nhận về cái chết của người Việt qua uyển ngữ” đăng trong Tạp Chí Văn 
		Hoá, số 1, tháng 9 năm 1012. Có thể đọc toàn bài trang này 
		http://filc.huc.edu.vn/ngon-ngu-van-hoa/item/126-su-tri-nhan-ve-cai-chet-cua-nguoi-viet-qua-uyen-ngu. 5) Nguyễn Khắc Xuyên, 2005 
		“Giáo sĩ Đắc Lộ và việc h́nh thành chữ quốc ngữ” – đăng trên 
		VietCatholic News ngày 22/5/2005 phần III trong loạt bài về giáo sĩ Đắc 
		Lộ. Có thể đọc toàn bài trang này 
		http://www.erct.com/4-ChiaSe/SuuTam/DacLo-Quocngu.htm 6) Tần số dùng của th́ 
		trong PGTN là 1046/52256 so với các từ chết, sinh th́, tử là 184/52256, 
		12/52256, 3/52256 7) Các khái niệm Thiên Chủ 
		(Thiên Chúa) và Thiên Đàng đă hiện diện trong văn hoá ngôn ngữ Á Đông từ 
		lâu: như Thiên Chủ 天主 là tên Thần thứ nhất trong tám vị Thần được thờ 
		cúng (Sử Kí, Phong Thiện Thư). Thiên đàng 天堂 theo PG là chỗ tiên thánh 
		(từ thế gian lên) ở, so với các thế giới khác (Lục đạo) như Địa ngục, 
		Ngă quỉ, Súc sinh, A-tu-la và nhân gian (thế giới ta đang ở). Các danh 
		từ này đều có nghĩa theo CG khác với nghĩa đa số dân thường hiểu vào 
		thời VBL. 8) Huỳnh Ái Tông, 2010 
		“Nguồn gốc chữ quốc ngữ” – có thể đọc toàn bài trang này 
		http://elib.tic.edu.vn:8080/dspace/handle/123456789/12686 hay http://vietsciences.free.fr/vietnam/tiengviet/nguongocchuquocngu1.htm 
		…v.v… 9) Miền duyên hải Bắc bộ 
		như Nam Định, Thái B́nh thường phát âm lẫn lộn s- và th- như thưa ông 
		thành sưa ông … Không phải ngẫu nhiên mà Khâm Định Việt Sử Thông Giám 
		Cương Mục ghi lại chỉ dụ cấm đạo tại Nam Định vào năm 1533: “Gia-tô, dă lục, Lê Trang 
		Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân I-nê-khu tiềm 
		lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thủy chi Trà Lũ âm dĩ Gia-tô 
		tả đạo truyền giáo”. Tạm dịch: “Đạo Gia-tô, theo ghi chép của tư nhân, 
		tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533) đời Lê Trang Tông, có người Tây 
		dương tên I-nê-khu, lén đến truyền đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường và Quần 
		Anh, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thụy (A)”.(A) các làng này thuộc 
		các huyện Trực Ninh, Hải Hậu và Xuân Trường, tỉnh Nam Định bây giờ.
 10) Nguyễn Tài Cẩn, 2004 
		“Nguồn gốc và quá tŕnh h́nh thành cách đọc Hán Việt” NXB Đại Học Quốc 
		Gia Hà Nội – trang 189-193._____________ , “Giáo 
		tŕnh lịch sử ngữ âm tiếng Việt” NXB Giáo Dục (Hà Nội) – trang 82-89.
 11) Nguyễn Ngọc San, 
		2003 “T́m hiểu tiếng Việt lịch sử” NXB Đại Học Sư Phạm, Hà Nội – trang 
		72-74.
 12) Béhaine (1772) và 
		Taberd (1838) đều ghi hai dạng śnh và th́nh (th́nh lên), thấng (lên). 
		Sỉnh là lớn dần lên như trong câu nói “Đứa bé nuôi măi không thấy sỉnh 
		tí nào” (Việt Nam Tự Điển, Hội Khai Trí Tiến Đức/1932/1954), “Làm sỉnh” 
		(lên mặt) theo Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của/1895). 13) LM Gasparo d’Amiral 
		sau khi rời Đàng Ngoài đă về làm Viện trưởng viên Thần Học ở Áo Môn 
		(1638-1645), ông cũng như LM Antonio Barbosa đă soạn ra từ điển An Nam – 
		Bồ Đào Nha và Bồ Đào Nha – An Nam (các tài liệu này không c̣n nữa?) như 
		từng được LM de Rhodes nhắc đến trong lời giới thiệu cuốn VBL. LM Matteo 
		Ricci đă viết nhiều tài liệu bằng chữ Hán như Thiên Chủ Thực Lục, Thiên 
		Chủ Thực Nghĩa, Thiên Học Thực Lục, Thiên Học Thực Nghĩa, Kỉ Hà Nguyên 
		Bổn, Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ (LM Ricci từng làm cho các bậc danh sĩ TQ 
		ngạc nhiên và thán phục khi cho thấy bản đồ thế giới người Âu Châu vẽ; 
		khác hẳn với bản đồ TQ vẽ – trong đó các nước chung quanh TQ nhỏ tí và 
		nếu hợp lại th́ không bằng một tỉnh TQ thời bấy giờ), Tây Tự Ḱ Tích, 
		Nhị Thập Ngũ Ngôn, Giao Hữu Luận, Tây Quốc Kí Pháp, Biện Học Di Độc (xuất 
		bản năm 1635, ghi nhận các trao đổi giữa CG và Tịnh Độ Tông), Đồng Văn 
		Toán Chỉ, Thật Dụng Toán Thuật Khái Luận, Trắc Lượng Pháp Nghĩa, Viên 
		Dung Giác Nghĩa …v.v… Nhà Thần Học LM Peter C. Phan (Phan Đ́nh Cho) c̣n 
		đề nghị là LM de Rhodes đă dựa vào “Thiên Chủ Thật Nghĩa” để soạn “Phép 
		Giảng Tám Ngày” (bài viết “Alexandre de Rhodes and Inculturation in 
		Seventeenth-Century VietNam” trang 135-140, trong cuốn “Mission and 
		Catechesis” Maryknoll, N.Y. Orbis Books 1998). 
		Nguyễn Cung 
		Thông Post ngày: 
		12/08/18    |