|
Hát bội – tiết mục đặc sắc trong ngày
lễ hội hàng năm ở Công Thân Miếu, phường 5, thị xă Vĩnh
Long.
Ảnh: BẢO TÀNG VĨNH LONG |
Hàng năm, cứ vào khoảng tháng ba đến
tháng năm âm lịch, hầu hết các đ́nh thần ở Nam bộ đều tổ chức
cúng Kỳ yên mong cho mưa thuận gió ḥa, quốc thới dân an. Đây là
thời gian các gánh hát bội ở các tỉnh thành lại hoạt động.
Theo các cụ cao niên ở xă Phong Ḥa, huyện
Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, từng hoạt động sân khấu: hát bội có
mặt ở Nam bộ cùng thời với việc xây dựng những ngôi đ́nh làng,
hoặc muộn lắm th́ cũng khoảng tương đương với giai đoạn thiết
lập các đơn vị hành chính cấp phủ, huyện, tổng, trấn, làng.
Trước đây, khi ông cha ta đến định cư một nơi
nào trên đất mới, th́ một trong những việc làm đầu tiên là xây
dựng ngôi đ́nh làng, trước là thờ một vị thần linh nào đó theo
tín ngưỡng, sau là có nơi sinh hoạt văn hóa dân gian. Mỗi năm
“đáo lệ Kỳ yên”, sau lễ hội th́ làng tổ chức hát. Hát để “cúng
thần”, nhưng chủ yếu là để giải trí cho dân làng. Thời trước,
những lưu dân đến định cư ở Nam bộ, có nhiều người biết nhạc lễ
và hát bội.
Trong những ngày lễ Tết, hội đ́nh làng, hoặc
sau ngày mùa, những người nông dân tụ tập nhau lại thành nhóm từ
15 đến 20 người có cả đàn ông và phụ nữ. Họ dùng cây đàn c̣ tự
chế, trống, kèn, sáo tự làm để đệm nhạc, tập dượt và biểu diễn
một pho tuồng nào đó theo kiểu “cây nhà lá vườn”. Hết lễ th́
“gánh hát” tự giải thể. Sau mùa hát bội, bầu gánh đem ghe về neo
lại bến sông, tất cả các diễn viên từ chánh cho đến phụ rồi lính,
hậu cần... trở về theo những nghề khác nhau để mưu sinh. Với
nhiều nghề nghiệp, phần nhiều không phải là người khá giả nhưng
trong họ có một điểm chung là sự say mê nghệ thuật hát bội. Dù
đi đâu hay làm ǵ th́ đến mùa hát bộ họ đều tập hợp lại để đi
diễn. Mặc dù không thường xuyên đi hát nhưng khi tập dợt lại th́
lối diễn của họ vẫn c̣n điêu luyện, các làn điệu bi ai vẫn c̣n
năo ruột, khán giả vẫn tán thưởng bằng những tràng vỗ tay nồng
nhiệt. Điều này được minh chứng bằng những tiếng trống chầu
“tùng, tùng” liên tục của các vị cầm chầu đứng tuổi am hiểu
nhiều về nghệ thuật hát bội. ( Người cầm chầu đánh trống “ tùng,
tùng” là khen hát hay c̣n gơ bên thành trống “ cắt, cắt” là đang
hát dở phải sửa lại).
Trong nghề hát bội có hát chầu và hát cúng.
Trong đó hát chầu cúng đ́nh là khó hát nhất. Bởi lẽ, không khí ở
khu vực đ́nh làng rất nghiêm trang, nhang đèn sáng rực từ chính
điện đến vơ ca. Ngoài sân, người ta c̣n che thêm rạp, xếp bàn
ghế có trật tự, những vị chức sắc mặc áo lễ, bịt khăn đóng chỉnh
tề. Gánh hát bội nào được mời về “hát chầu” th́ xem đó là một
vinh dự lớn. Những diễn viên hát chầu phải là những người có tay
nghề cao, kiên nhẫn, chịu đựng trước áp lực nặng nề. Hát cúng
đ́nh thường kéo dài đến ba, bốn giờ sáng. Thông thường các vở
diễn ở dạng này phải có nhiều dũng, ít có bi và cũng không được
đưa hề hát bội ra đùa cợt. Các vở diễn phải kết thúc có hậu.
Ngày xưa, học làm diễn viên hát bội – dù
nghiệp dư - cũng rất “lao tâm khổ tứ”, không kém việc học chữ
Hán Việt (chữ Nho) của các nho sinh. Mỗi ngày, học viên thường
học hai buổi. Sáng, sau khi cúng tổ học ít nhất 5 giờ đến khi
mệt th́ nghỉ. Buổi tối cũng học, nhưng tùy vào sức khỏe và giờ
rảnh rỗi của thầy dạy. Những người làm thầy chỉ là những người
am hiểu nhiều về nghệ thuật hát bội dạy lại cho những người mới.
Ngoài ra, khi đoàn diễn ở đâu đến lúc nào, học viên phải thức
xem để học hỏi, rút kinh nghiệm. Đến khi hát trả bài, học tṛ
phải thực hiện: miệng hát tay giữ nhịp. Nếu nhịp sai, tay bắt
trật, thầy dạy bắt tṛ x̣e hai bàn tay ra, đánh rất mạnh bằng
một cây thước dẹp. Nhiều lúc, các học tṛ tay tấy đỏ, rát rạt,
ứa nước mắt mà không dám khóc. Người thầy c̣n chú ư dạy cả lối
sống, đạo đức cho học tṛ. Mặc dù, học không chính quy, không
trường lớp, không cấp bằng nhưng sự “đào tạo” rất bài bản, học
tṛ tiến bộ rất nhanh.
Tính nghệ thuật của hát bội c̣n được thể hiện
ở tuồng tích và bài bản ca. Các kịch bản hát bội được xem là một
tác phẩm văn học. Hầu hết các kịch bản đều được chuyển thể từ
các tác phẩm văn chương tiêu biểu như các kịch bản nổi tiếng một
thời như: San Hậu, Tam nữ đồ vương, Diễn Vơ Đ́nh , Ngoại tổ dâng
đầu , Phụng Nghi Đ́nh, Thần Nữ dâng ngũ linh kỳ, Lưu Kim Đính
giải giá Thọ Châu, Hồ Nguyệt Cô... Bài bản ca cho thấy hát bội
là nghệ thuật tŕnh diễn ước lệ, văn chương đối đáp thanh tao,
nói lối cách điệu, nhiều kiểu, ca hát giàu khúc điệu: Nam xuân,
Nam ai, Nam dựng, Nam tẩu, Nam thoàn, Nam biệt và mươi lối “Hát
khách” rồi “Thán”, “Bạch”, “Xướng”... để diễn tả mọi t́nh huống
của cốt truyện.
Có thể cho rằng hát bội ở Nam bộ do không
chuyên nên thường bị thua thiệt nhiều mặt, từ việc thu nhập đến
đất diễn. Hát bội chỉ theo mùa rồi chia tay nhau trong suốt
nhiều tháng trời nên rất khó cho công tác quản lư cũng như đào
tạo. Các nghệ nhân chỉ v́ ḷng say mê nghệ thuật truyền thống mà
tự phát tập hợp lại đi diễn nhằm lưu giữ một nét sinh hoạt văn
hóa nghệ thuật của cha ông.
Ngày nay đă có nhiều loại h́nh nghệ thuật
xuất hiện thu hút công chúng nên hát bội ít được chú ư – đặc
biệt là lớp trẻ. Đáng nói là hát bội đă bị pha tạp nhiều. Nhiều
người lớn tuổi đi xem hát bội ở đ́nh làng, thèm những tiếng “ ứ,
ứ, ừ, ư..” mà không nghe được. Có những “gánh” hát bội tŕnh
diễn cải lương không ra cải lương, hồ quảng không phải hồ quảng.
Hát bội nói chung, hát bội ở Nam bộ nói
riêng, là một loại h́nh nghệ thuật gắn bó với sự phát triển của
văn hóa dân tộc; văn hóa phương Nam cần được quan tâm bảo tồn
như một vốn quư.
LÊ VĂN DŨNG |