Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - Kinh Lạy Cha
(phần 5A)
Nguyễn Cung Thông
Phần này bàn về Kinh Lạy Cha (KLC) qua các dạng ghi
nhận trong văn bản từ thời b́nh minh của chữ quốc ngữ. Phân
tách kỹ hơn KLC sẽ t́m ra các dấu ấn của tiếng Việt cổ, sự
thay đổi cách dùng trong tiếng Việt và ngay cả ảnh hưởng
chính trị và thời cuộc. Cũng vào thời gian soạn phần 5A này,
các vị giám mục Pháp đă quyết định đổi một chữ trong KLC "Ne
nous soumets pas à la tentation" thành "Ne nous laisse pas
entrer en tentation" (so với KLC tiếng Việt 2017 "Xin chớ để
chúng con sa chước cám dỗ", tiếng Anh "lead us not into
temptation"). Điều này đức Giáo Hoàng Francis cũng đề cập
đến trong một buổi phỏng vấn gần đây (BBC News 8/12/2017).
Các động từ soumettre (Pháp) và lead (Anh) đều có thể hàm ư
bị dẫn đến (thể thụ động/passive), hay hàm ư chính Thiên
Chúa dẫn
dụ con người (sa cám dỗ): không đúng theo ư của nguyên bản
Hi Lạp. Tiếng Việt không bị trường hợp tối nghĩa như trên v́
ảnh hưởng phần nào từ tiếng Bồ-Đào-Nha khi dịch (xem các bản
KLC phần dưới). Do đó tùy theo từng giáo hội và ở những thời
kỳ khác nhau mà KLC có thể thay đổi, điều này làm quá tŕnh
t́m hiểu KLC trở nên rất thú vị nhưng không nằm trong phạm
vi bài viết này. Các tương quan ngữ âm ghi nhận trong bài
viết không nhất thiết khẳng định nguồn gốc (Việt, Khme hay
Hán cổ …) của các từ này. Tài liệu tham khảo chính của bài
viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép
Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về
tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển
Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là
VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng
hạn
http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false
. Các chữ viết tắt khác là NCT (Nguyễn Cung Thông), TVGT (Thuyết
Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường
Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ
Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV
(Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615),
VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066),
CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ
Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng
Anh), L (tiếng La Tinh), PG (Phật Giáo), CG (Công Giáo), ĐCT
(Đức Chúa Trời), ĐCGS (Đức Chúa Giê Su), TCTGKM (Thiên Chúa
Thánh Giáo Khải Mông), KNLMPS (Kinh Những Lễ Mùa Phục Sinh),
LM (Linh Mục), VN (Việt Nam), TQ (Trung Quốc), HV (Hán Việt),
Bắc Kinh (BK), ĐCT (Đức Chúa Trời), ĐCGS (Đức Chúa Giê Su).
Trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người
đọc tiện tra cứu thêm. Tiếng Trung (Hoa) gọi KLC là Thiên
Chúa Kinh
天主經
hay Chúa/Chủ Đảo Văn
主禱文,
có lẽ không rơ nghĩa so với các tên gọi kinh này trong tiếng
Việt như Kinh Tại Thiên, Kinh Lạy Cha (KLC) ... KLC tiếng
Anh là "Lord’s Prayer" (Lời cầu của ĐCT) hay "Our Father"
(Cha chúng ta) hay có lúc dùng tiếng La Tinh Oratio Dominica
(lời cầu của ĐCT, Oraison Dominicale tiếng Pháp) hay Pater
Noster (Cha chúng ta, Notre Père tiếng Pháp). Bản La Tinh (Vulgate):"Pater
noster, qui es in caelis, sanctificetur nomen tuum, adveniat
regnum tuum, fiat voluntas tua, sicut in caelo, et in terra.
Panem nostrum supersubstantialem da nobis hodie; et dimitte
nobis debita nostra, sicut et nos dimittimus debitoribus
nostris; et ne inducas nos in tentationem; sed libera nos a
Malo.". Bản này có 49 chữ và dùng vài chữ (khi
dịch từ bản Hi Lạp cổ) đáng chú ư như supersubstantialem (hàng
ngày), debita (nợ). Debita/L (< debitum/L) không hẳn chỉ nợ
về tiền bạc, c̣n có thể chỉ tội lỗi/sai trái dựa vào các
ngôn ngữ cổ (td. tiếng Aramaic). Tiếng Anh có lúc dùng
trespass (vi phạm) so với debt (nợ), tiếng Pháp
dùng chữ offense (xúc phạm): bản KLC 1992 dùng "tội/lỗi",
KLC năm 1925/1934 dùng "phạm tội nghịch" so với bản KLC năm
1891 dùng "mếch ḷng" với nét nghĩa mở rộng
(xem các h́nh chụp lại ở dưới). Bản La Tinh trên sẽ được
dùng để làm bản gốc để so sánh với các bản dịch của bài này
(cũng như các ngôn ngữ khác tiếng Việt).
1. KLC dùng làm dụng cụ so sánh ngôn ngữ (đồng đại
và lịch đại)
Trong quá tŕnh truyền đạo CG, dịch KLC là một trong những
công việc chuyển ngữ đầu tiên và cần thiết trước Kinh Thánh
rất lâu. Điều này dễ hiểu v́ KLC tóm tắt hầu như tất cả nội
dung của Kinh Thánh, các yếu tố thần học quan trọng như
tin/xin/giữ/chịu/làm, cũng như là lời cầu nguyện của chính
ĐCGS truyền lại. Từ giữa thế kỷ XVI, KLC đă được xuất bản
qua 22 ngôn ngữ trong cuốn (1555) "Mithridates. De
differentiis linguarum" của học giả Thụy Sĩ Conrad Gessner
(1516-1565). Học giả Đức Hieronymus Megiser (1554-1618) cũng
thu lượm các cách dịch KLC từ các ngôn ngữ khác nhau để ra
sách. Học giả người Anh Dan Brown (1713) viết cuốn "The
Lord’s Prayer in above 100 Languages, Versions and
Characters" (KLC dịch ra hơn 100 thứ tiếng - h́nh b́a chụp
lại ở bên dưới), xem trang này chẳng hạn
http://www.fromoldbooks.org/oratiodominica/
. Ngay cả đến thời buổi bây giờ, ta có thể tra cứu KLC đă
được dịch ra rất nhiều ngôn ngữ trên mạng (Internet) như
http://www.krassotkin.ru/sites/prayer.su/other/all-languages.html
...v.v... Do đó, KLC
có thể được dùng như một dụng cụ đơn giản và tiện lợi để so
sánh các ngôn ngữ cùng thời (đồng đại/synchronic) hay các
thay đổi theo thời gian (lịch đại/diachronic). Một thí dụ
dùng KLC để khảo sát thay đổi theo thời gian trong tiếng Anh
là bài viết (2012) "The Lord's Prayer through the Centuries:
A Case Study" (tạm dịch/NCT: KLC qua bao thế kỷ - trường hợp
tiếng Anh). Có thể đọc toàn bài trang này chẳng hạn
http://devastashasportfolio.blogspot.com.au/2012/03/lords-prayer-through-centuries-case.html
...v.v...
“The Lord’s Prayer in above 100 Languages, Versions and
Characters”
2.1 Kinh Lạy Cha - bản 1632
(trang dưới trích từ “Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời
kỳ đầu của Giáo hội công giáo Việt Nam" Roland Jacques). Vài
nhận xét sơ khởi là cách viết
ciúm ~ chúng
(dùng tám lần trong KLC) cũng giống như cách kí âm trong Bồ
Hán Từ Điển
葡漢辭典
(1579) của các LM Michele Ruggieri/Matteo Ricci - xem h́nh
chụp một trang bên dưới: động
動
kí âm là tum (so với ḍng BK theo pinyin hiện nay) …v.v… Do
đó, ta có thể giải thích được các tương quan bum ~ vâng
(liên hệ b-v vào thời VBL khá rơ nét trong tiếng Việt - xem
thêm chữ bẽi ~ vậy), sam ~ sáng, bum ~ vâng (liên hệ b-v),
bàm ~ bằng (dùng hai lần), cium ~ chưng (dùng bốn lần), tlom
~ trông, hàm ~ hằng/hàng, dum ~ dùng.
Cách viết
cia ~ cha
cũng từ thời LM Ruggieri, LM Ricci đổi ci- thành ch-, xem
h́nh chụp bên dưới. VBL hoàn toàn dùng ch- thay v́ ci-.
Thời VBL vẫn c̣n dùng dạng bl- như
blời ~ trời
(VBL không ghi trời), và cả hai dạng
tlên
và
trên.
Cách dùng chữ
ít
khá lạ, theo VBL nghĩa là cũng là (etiam/L). Ít có một dạng
chữ Nôm là
𠃝
dựa vào âm ất
乙
và chữ thiểu/thiếu
少
biểu ư. Không thấy văn bản nào dùng ít theo nghĩa này sau
đó, có thể v́ soạn ở Áo Môn và ảnh hưởng của chữ Hán (như
dùng các chữ quốc, danh) nên có thể ít là một dạng của diệc
HV
亦.
Bồ Hán Từ Điển
葡漢辭典
Bản năm 1632 có
70 chữ.
Tuy không thấy LM de Rhodes đề cập trực tiếp đến nội dung
KLC trong các tác phẩm của ông, nhưng VBL/PGTN lại ghi tất
cả các từ liên hệ đến KLC như cha/chưng/danh/chúng
tôi/kẻ/tai/dữ … nhất là các đoạn quan trọng:
a. Ở trên trời (mục trên/tlên VBL 809)
b. Cha chúng tôi ở trên trời, Lạy Cha chúng tôi ở
trên trời (BBC trang 19)
c. Danh cha cả sáng ("danh ĐCT cả sáng" PGTN trang
319)
d. Hàng ngày dùng đủ (ghi lại hai lần: mục dùng và
mục đủ - VBL)
e. Mà tha nợ chúng tôi (mục nợ VBL trang 564)
f. Ít (nghĩa là cũng như - một cách dùng đặc biệt vào
thời LM de Rhodes - VBL trang 352)
Danh
dùng thay v́ tên trong KLC v́ nét nghĩa rộng hàm ư tiếng
tăm, cách sống/đạo đức ... Chữ danh
名
có các cách đọc (thanh mẫu minh
明
vận mẫu thanh/khai
清開
b́nh thanh
平聲,
khai khẩu tam đẳng
開口三等)
theo phiên thiết:
武幷切
vũ tịnh thiết (TVGT, ĐV, QV),
彌成切
di thành thiết (NT, TTTH),
眉兵切,音詺
mi binh thiết, âm danh (CV, TVi) TVi ghi âm minh
音明,
彌幷切
di tịnh thiết (TV, LT),
彌正切
di chánh thiết (TV, LT)
彌延切,音綿
di diên thiết, âm miên (TVi, KH) TVi ghi âm miên
音眠,
莫陽切
mạc dương thiết (TVi)
音厖
âm mang - CTT ghi âm măng
音莽,
眉病切
mi bịnh/bệnh thiết (TVi),
忙經切
mang kinh thiết (LT),
必仞切,音儐
tất nhận thiết, âm tân/tấn (TVi, KH) - CTT chỉ ghi cách đọc
khác là
音儐
âm tấn/tân,
眉平切,
音明
mi b́nh thiết, âm minh (CTT) ...v.v... Giọng BK bây giờ là
míng so với giọng Quảng Đông ming4 meng4 meng2 và các giọng
Mân Nam
客家话:
[沙头角腔]
miang2 [海陆丰腔]
miang2 [梅县腔]
miang2 [东莞腔]
miang2 [客英字典]
miang2 [台湾四县腔]
miang2 [客语拼音字汇]
miang2 [陆丰腔]
miang3 [宝安腔]
miang2, giọng Mân Nam/Đài Loan beng5, tiếng Nhật mei myou và
tiếng Hàn myeng. Dạng *minh của danh c̣n vết tích trong cách
đọc mính
茗
(trà hái muộn) và là cây dành dành (loài trà) hay
minh
銘
(ghi nhớ). Cách đọc *tân/tấn của chữ danh c̣n có thể là
*tiên, đây cũng chính là một cách kí âm bằng chữ Nôm của
tên: dùng chữ tiên
先
hay tiên hợp với danh
𠸜
cho rơ nghĩa hơn, tiếng Việt không thấy dùng dạng *tến. Hỗ
trợ cho tương quan danh-tân/tấn-*tiên-tên là liên hệ giữa âm
tiễn
箭
(đọc là
作殿切/TVi
tác điện thiết, một biến âm của điện là là đền) - tiếng Việt
c̣n duy tŕ dạng tên. Cả hai dạng danh và
tên đều hiện diện vào thời VBL: ‘tên xấu’ và ‘xấu
danh ~ xấu tiếng’ (VBL trang 158, 730):
"Vấn danh là tiệc hỏi tên" Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa, 44a,
"Đặt tên mới gọi ả Điêu Thuyền"Hồng Đức Quốc Âm Thi
Tập 18a.
Chưng
xuất hiện bốn lần trong KLC 1632: VBL giải thích là một phụ
từ làm cho câu thêm đầy đủ (particula expletiva/L), cũng như
giải thích của LM Béhaine/Taberd (particula auxiliaris/L ~
phụ từ).
Chưng có một dạng chữ Nôm là trưng
徵
hay
烝
蒸
(một trong nhiều nét nghĩa của chưng là cất,
hấp/chưng):"Bằng tôi nào thửa ích chưng dân" Nguyễn Trăi, Ức
Trai Thi Tập 15b, "Tôi bỗng một ḿnh lạc đến chưng đây"
Thiên Nam Ngữ Lục 63b
... Kí ức tập thể của dân gian qua câu ca dao sau đây cho
thấy chưng đă từng được dùng thường:
Tôi đi t́m bạn tôi đây
Bạn thấy tôi khó chưng nay chẳng chào
Một từ khác đáng chú ư là quốc (cuốc/VBL) nghĩa là
nước (quốc gia) trong cách dùng "Quốc cha trị đến": cả
hai chữ nước và quốc HV
國
đều hiện diện vào thời VBL, nhưng nước dùng nhiều hơn như
nước Ngô (PGTN trang 12, 111), nước Đại Minh (PGTN trang
104, 112,126), nước Judaea (PGTN trang 164, 144, 125, 173
...), nước Israel (PGTN trang 271). Một số từ HV có thể được
dùng khá tự do như quốc, tiểu, trở, thậm, vô, cùng ...
"giảng tin lành sự quốc trên trời" PGTN trang 182, "quốc
trên trời đă đến gần" PGTN trang 177, "mà chẳng có khi nào
làm việc tiểu ǵ lành" PGTN trang 254, "Thiên Trúc quốc"
PGTN trang 105, 108, 109, 110 ... Nước India (PGTN trang
105, tức là nước Thiên Trúc 天竺,
Ấn Độ - NCT), LM de Rhodes và cộng sự viên có khuynh hướng
giữ nguyên dạng tiếng gốc thay v́ kí âm gần đúng bằng tiếng
Việt (chữ quốc ngữ): LM Maiorica th́ dùng nhiều tiếng Việt
kí âm hơn. Lại có lúc dùng nước và quốc trong cùng một đoạn
văn như "nước Thiên Trúc" PGTN trang 110, so với các bản Nôm
của Maiorica "phần ở miệng kẻ c̣n ở nước Thiên Trúc" CTTr
trang 109, 112, 114 … "Quốc (Cuốc) cha trị đến " TCTGKM
trang 98, 99 - có khi hai cách dùng quốc và nước đều hiện
diện trong cùng một đoạn văn (trang 99).
Từ thời vua Trần Nhân Tông (1208-1358), quốc
國
(quốc gia) đă hiện diện so với nước
渃
(chất lỏng):"
Chơi nước biếc, ẩn non xanh … Thiền ngỏ năm câu, nằm nhăn
cong quê Hà hữu. Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La"
Cư Trần Lạc Đạo hội thứ nhất và thứ năm.
Quân quốc (exercitus/L) là quân lính/quân đội của nước,
thường gặp trong các văn bản chữ Nôm/Quốc Ngữ thời LM de
Rhodes: "có đại thần cả và nước và quân quốc đều cùng thiên
hạ đi cùng" PGTN trang 21, "liền sai những quân quốc giết
các trẻ" CTTr trang 149, "vua và quân quốc nước I Chi Tô"
KNLMPS trang 15. Lại có lúc dùng làm ẩn dụ:"làm dấu Câu-Rút
trên ḿnh cho thiên hạ được biết ta là quân quốc về vua cả
trên hết các vua" TCTGKM trang 23. Quân quốc là cách dùng
Việt hóa của quốc quân HV
國軍,
một cụm từ đă có từ đời Đường và trước đó, như trong Bắc Sử
(soạn năm 659) quyển thập cửu, Ngụy hiến văn lục vương
truyện, Bành Thành vương hiệp truyện:"tích văn quốc quân
hoạch thắng,
mỗi phùng vân vũ, kim phá tân dă, Nam Dương, cập tồi thử
tặc, quả hàng th́ nhuận, thành tai tư ngôn"
北史,
卷十九,
魏獻文六王傳,
彭城王勰傳
:"昔聞國軍獲勝,
每逢雲雨,
今破新野,
南陽,
及摧此賊,
果降時潤,誠哉斯言".
Một điểm nên nhắc ở đây là vào thời VBL/PGTN và TCTGKM chưa
thấy dùng tên Kinh Lạy Cha, nhưng có những cách gọi khác như
a.
Kinh Chúa
(per Orationem Dominicam/L - PGTN trang 306):"mà quỳ gối
nguyện một kinh Chúa. Lại nguyện một kinh Ave, xin cùng rất
thánh đồng thân Maria" PGTN trang 306. Xem cách dùng
Chúa/Chủ Kinh
主經
của bản chữ Hán năm 1713 bên dưới (h́nh chụp).
b.
Kinh ĐCGS
(est Orationis Dominica/L - PGTN trang 133):"V́ vậy th́ nên
trao kinh ĐCGS và kinh đức Chúa Bà Maria, cùng kinh mười hai
đầy tớ cả, cho học thuộc ḷng" PGTN trang 133
c.
Kinh Tại Thiên
dùng 7 lần trong TCTGKM:"Khi ấy dạy tôi Kinh Tại Thiên, A-Ve
cùng Kinh Tin Đức Yếu Đoan" trang 18.
2.2 KLC từ cuốn "Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông"/TCTGKM
LM Maiorica dành một số trang để giải thích căn kẽ từng câu
và chữ quan trọng trong KLC: từ trang 96 đến trang 107 trong
TCTGKM. Từ các phần này, KLC thời LM Maiorica có thể được
phục hồi như sau (dịch từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ hiện
đại/NCT). Các chữ in đậm là trích từ TCTGKM, các chữ khác là
thêm vào cho rơ nghĩa dựa vào bản 1632 (NCT).
Trong văn bản Nôm, LM Maiorica thường viết là Kinh Tại Thiên
經在天,
có thể do ảnh hưởng tài liệu của các giáo sĩ ḍng Tên tiên
phong như LM Matteo Ricci (1552-1610) chẳng hạn. KLC được LM
Ricci dịch ra như sau
在天我等父者
Tại thiên ngă đẳng phụ giả
我等願爾名見聖
Ngă đẳng nguyện nhĩ danh kiến thánh...
Thành ra, khi đọc kinh này, ta thường nhớ mấy chữ đầu (tại
thiên ~ ở trên trời) và kết quả là gọi tên kinh này là
Kinh Tại Thiên (nghĩa đen là kinh ở trên trời). Hai câu trên
của KLC theo tiếng Trung (Hoa) thời này là
我們的天父
Ngă môn đích thiên phụ
願祢的名受顯揚
Nguyện nể đích danh thụ hiển dương...
2.3 KLC vào khoảng 1700-1750
(có tất cả 79 chữ)
Bản KLC bằng chữ Hán (1713) trích từ cuốn "The Lord’s Prayer
in above 100 Languages, Versions and Characters" của Dan
Brown. Để ư cách dùng "Chúa Kinh" (主經
~ Kinh Chúa/Chủ như trong PGTN) và các chữ
在天我等父者
tại thiên ngă đẳng phụ giả (chép lại rất đơn giản/thiếu nét)
...v.v...
2.4 KLC vào khoảng giữa thế kỷ XVIII
KLC
vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, NCT chép lại theo nguyên bản
chữ La Tinh - Nôm - quốc ngữ (xuất hiện 2 lần trong Sách Các
Phép - LM Halario de Jesu). Trong bản văn dưới, dấu hiệu ($)
sau chữ khỏi nghĩa là có lúc không ghi chữ khỏi
này (Sách Các Phép - trang 58),
có tất cả
79 chữ.
2.5 KLC vào năm 1787
H́nh bên dưới là kinh Lạy Cha trích từ tác phẩm (1787)
"Saggio practicco delle Lingue con prolegomeni e una
raccolta di orazioni dominicali in più di trecento lingue e
dialetti" (Giới thiệu kinh Lạy Cha qua hơn 300 các ngôn ngữ
và phương ngữ trên thế giới - NCT): trang 134 ghi lại phần
tiếng Việt và các tiếng TQ vào khoảng giữa thế kỷ 18. Để ư
hai chữ đầu của bản phiên âm bằng tiếng TQ là cai tien (Tại
Thiên). Tác giả là LM ḍng Tên Lorenzo Hervás y Panduro
(1735-1809), một nhà ngôn ngữ nổi tiếng với nhiều tác phẩm
có giá trị. Bản này rất giống bản KLC 1870 (xem phần dưới)
và có tất cả
77 chữ.
2.6 KLC vào khoảng cuối thế kỷ XVIII
Trích từ cuốn "Thánh Giáo Yếu Lư Quốc Ngữ"/TGYLQN của LM
Pigneau de Béhaine (Bá-
Đa-Lộc), xuất bản năm 1774 (Quảng Đông) và tái bản (Đàng
Trong, 1837): có 70 chữ
kể cả 2 chữ A men ở cuối kinh.
LM Philiphê Bỉnh cũng đề cập đến "kinh thiên Chúa" trong
"Sách Sổ Sang chép các việc" (1822) cho thấy cách gọi Kinh
Lạy Cha không phổ thông vào đầu thế kỷ XIX. Đây có thể cách
dùng đặc biệt ở
Đàng Ngoài
- xem định nghĩa Oraison Domicale của tác giả P. G. Vallot
(Hà Nội, 1898). Ở
Đàng Trong,
LM Béhaine đă ghi Kinh Lạy Cha trong văn bản (Thánh Giáo Yếu
Lư Quốc Ngữ, 1774
→
1837).
Đây là bản chữ Nôm trong bài viết "Notice sur le langue
annamique", tác giả Léon de Rosny (1855), chuyển qua chữ
quốc ngữ hiện đại/NCT. Chữ hay dấu hiệu o chỉ cách ngắt câu
vào thời bấy giờ. Để ư là có tất cả
49 chữ
trong bài KLC này. Năm xuất bản KLC này (1855) là thời kỳ
bang giao giữa Pháp và Đại Nam rất căng thẳng. Từ "Thập Điều
Giáo Huấn" (1834) của vua Minh Mạng (1820-1841), trong đó
bàn về CG:"Trai gái chung đụng hỗn tạp, việc làm này giống
như cầm thú … Đó là làm cho bại hoại luân lư, hư hỏng giáo
hóa, không thể tin được. Nếu người nào đó bị dỗ dành th́ nên
mau chóng bỏ đi. Phần các việc quan, hôn, tang, tế đều phải
theo lễ tục nước nhà ..." trích "Mục lục Châu bản triều
Nguyễn" Triều Minh Mạng, bản thảo viết tay, Tập 68, tờ
152-154. Thời vua Thiệu Trị (1841-1847), việc cấm đạo giảm
đi nhưng triều đ́nh vẫn không có cảm t́nh ǵ với CG, cho đến
thời vua Tự Đức (1847-1883) th́ các dụ cấm đạo CG càng ngày
càng khắc khe hơn với nhiều giáo sĩ và giáo dân bị hành
quyết. Đến năm 1856 khi chiến thuyền Catinat vào Đà Nẵng đem
thư chánh phủ Pháp trách cứ triều đ́nh về việc cấm và ngược
đăi CG, cũng bắt đầu những hoạt động quân sự xâm chiếm Đại
Nam về sau. Trong bối cảnh cấm đạo nghiêm ngặt như vậy, KLC
đă phải thu gọn lại và đoạn rất nhạy cảm "quốc Cha trị đến"
có lẽ đă bị cắt bỏ chăng? Số chữ KLC đă giảm đi khoảng 30%
(chỉ c̣n 49 chữ).
Kinh Lạy Cha (chữ Nôm
1855)
Quá tŕnh cắt bỏ câu "Quốc Cha trị đến" trong KLC c̣n có thể
giải thích như theo kinh của giáo hội Mormon (the
Book of Mormon) bên Mỹ. Trong kinh sách trên (1829), tác giả
Joseph Smith thuật lại chuyện nhà tiên tri Lehi đóng tàu ở
Bountiful trước khi cả đoàn lên đường sang Mỹ châu. Cũng
theo kinh sách trên th́ sau khi sống lại, ĐCGS đă đến nhà
thờ ở Bountiful để gặp và truyền dạy dân chúng địa phương về
giáo lư CG, thành ra không cần phải nhắc lại chuyện "Quốc
Cha trị đến".
2.8 KLC năm 1870
Trích từ cuốn "The Lord's Prayer in 250 Languages and 180
Forms of Writing" Chủ biên Pietro Marietti, Wendell Jordan
S. Krieg - NXB Brain Books (1870). Có tất cả
77 chữ.
2.9 KLC năm 1891
(có tất cả 63 chữ)
KLC in năm 1891 trong cuốn "The Lord'S Prayer in Five
Hundred Languages" (KLC dịch ra 500 ngôn ngữ/NCT) của nhà
Đông phương học Reinhold Rost (1822-1896).
Có tất cả
71 chữ
hay
72 chữ
nếu kể chữ mọi (không có 2 chữ A men).
Tóm lại, Kinh Lạy Cha là cánh cửa sổ hé mở cho ta xem lại
quá tŕnh h́nh thành của chữ quốc ngữ, từ cách viết thời sơ
khai cho đến bây giờ, cũng như cách dùng (phạm trù nghĩa)
của tiếng Việt theo trục thời gian và không gian (tiếng địa
phương). Trước đây ba thế kỷ, không ai hiểu Kinh Lạy Cha là
kinh ǵ, cũng như không ai dùng phụ từ chưng trong tiếng
Việt hiện đại. Tuy vỏn vẹn chỉ có vài chục chữ, mà một số
lại là lặp lại (như cách dùng chúng tôi, chưng), nhưng KLC
không thiếu chiều sâu lịch sử cũng như tư tưởng. Ngoài ra,
các bản KLC khác nhau c̣n cho ta những thông tin về thời
cuộc, không những chỉ giới hạn ở nước Việt Nam. Bài này
(phần 5A) trong loạt bài "Tiếng Việt vào thế kỷ XVII", là
những bước đầu xem lại các tín hiệu/thông tin tàng ẩn trong
văn bản KLC c̣n lưu truyền đến ngày nay.
3. Tài liệu tham khảo chính và ghi chú thêm
1) Pigneau de Béhaine (1772/1773) - Bá Đa Lộc Bỉ Nhu
"Dictionarium Annamitico-Latinum" Dịch và giới thiệu bởi
Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ (Thành Phố HCM - 1999).
(1774/Quảng Đông
→
Địa phận Đàng Trong tái bản năm 1837) "Thánh Giáo Yếu Lư
Quốc Ngữ"
聖教要理國語
viết bằng chữ Nôm theo dạng Hỏi-Thưa. Y Doăn Ninh/Lê Bảo
Tịnh phiên âm và chú giải, La Vang Tùng Thư xuất bản (Mỹ).
2) Đỗ Quang Chính (1972) “Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659”
NXB Đuốc Sáng (Sài G̣n).
3) Nguyễn Hồng (1959) "Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam -
Quyển 1 - Các Thừa Sai ḍng Tên 1615 - 1665" NXB Hiện Tại
(Sài G̣n).
4) Roland Jacques (2004) « Les missionnaires portugais et
les débuts de l’Église catholique au Viêt-nam » (Các nhà
truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo
Việt Nam) - NXB Đinh Hướng Tùng Thư (Pháp). Có thể đọc các
bài viết của LM Roland Jacques trên mạng như
http://www.dunglac.info/index.php?m=home&v=detail&ia=11502
5) Halario de Jesu (thế kỷ XVIII) "Sách Các Phép" bằng 3 thứ
chữ Nôm, La Tinh và quốc ngữ. Sách lưu hành nội bộ (1997).
6) Giêrônimô Maiorica (thế kỷ XVII) "Mùa Ăn Chay Cả", "Thiên
Chúa Thánh Mẫu - Quyển thượng", "Thiên Chúa Thánh Mẫu -
Quyển trung", "Đức Chúa Giê-Su - Quyển chi cửu & Quyển chi
thập", "Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội Kinh", “Thiên Chúa
Thánh Giáo Khải Mông”, "Kinh Những Ngày Lễ Phục Sinh - Quyển
thứ ba", “Các Thánh Truyện”. Sách lưu hành nội bộ (năm xuất
bản 2002/2003).
7) Alexandre de Rhodes (1651) "Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ
Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 - Sài G̣n)
với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.
(1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et
Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của
Thanh Lăng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học
Xă Hội, Thành Phố HCM (1991).
“Tường Tŕnh về Đàng Trong 1645” bản dịch của
Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido
(California/Mỹ, 1994?).
"Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm
1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên - Tủ sách Đại Kết, Thành
phố HCM (1994).
8) Jean Louis Taberd (1838) - tên Việt là cố Từ -
"Dictionarium Annamitico-Latinum" Serampore (Bengale).