Tôi vốn nhất mực
chủ trương phải viết sử dụng mà không thể viết xử
dụng v́ viết
xử dụng theo tôi là sai, do đó tôi mới được một anh bạn
ở Úc gửi cho đọc tài liệu
“Thư gửi bạn trước khi vào sách“ do Tủ sách TQH chấp bút.
TQH là viết tắt ba chữ Tiếng Quê Hương và tủ sách do nhà
văn Uyên Thao phụ trách.
Nội dung “Thư
gửi bạn trước khi vào sách“
“Thư gửi bạn
trước khi vào sách“ là lời mở đầu của cuốn
Nhân văn Giai phẩm với tác giả là nữ sĩ Thụy Khuê nhưng
tài liệu không giới thiệu mục đích sáng tác, nội dung nghiên
cứu, hoàn cảnh ra đời, tôn chỉ chính luận v.v..của Bà Thụy
Khuê mà lại có phần phân trần về cách viết chữ sử dụng.
NguyênBà Thụy
Khuê viết
sử dụng nhưng Tiếng Quê Hương bác bỏ lối viết này và tự
cho phép sửa lại thành
xử dụng. Sở dĩ có hành động không theo lệ
thường như thế là v́ “Tủ
sách Tiếng Quê Hương phải tự định một chuẩn hướng theo các
chỉ tiêu do cân nhắc chủ quan với mong mỏi không gây hỗn
loạn thêm cho cách viết và cách dùng từ.“
Dựa vào “chuẩn
hướng“ định sẵn, Tiếng Quê Hương tŕnh bày lư do viết “xử
dụng“ thay v́ “sử dụng“ như sau : (Trích) “Như chúng ta đều
biết, đa số từ Việt ngữ là Hán Việt tức có gốc Hán tự. Chẳng
hạn chữ “sử“ hoặc “xử“ của ta là 5 chữ Hán
viết theo các bộ Khẩu, Nhân, Mă, Hô, Mộc. Trước đây, các học
giả Thiều Chửu, Đào Duy Anh đă phiên âm 3 chữ viết theo các
bộ Khẩu, Nhân, Mă là “sử“ và 2 chữ viết theo các bộ
Hô, Mộc là “xử“. (…) Từ viết theo bộ Nhân được phiên
âm là “sử“ có nghĩa “sai khiến“ (…) Riêng từ
viết theo bộ Hô phiên âm là “xử“ bao gồm nhiều nghĩa
như “thuxếp“ (...) Theo cách phân tích này,
chúng tôi thấy không thể viết “sử
dụng“ v́ ở đây không hàm nghĩa “sai khiến“ (…)
Chữ “xử“ ở đây chỉ đơn thuần mang nghĩa “thu xếp“
(…) những thứ ǵ đang có trong tay mà thôi nên phải viết là
“xử dụng“. (Hết trích)
Ai muốn bàn bạc
về bệnh tật với chút ít thẩm quyền th́ phải theo học ngành y
khoa trong bảy năm, sau đó c̣n phải học thêm năm bảy năm nữa
mới có thể góp ư về các vấn đề y khoa v́ y học là một khoa
học. Tay ngang muốn lên tiếng về một vấn đề y học nào đó,
không ai cấm hết nhưng không ai dám đặt tin tưởng hoàn toàn
vào tay ngang. Ngôn ngữ cũng là một khoa học. Nó có những
qui luật, những nguyên tắc. Nó có những phương tiện từ vựng
và các phương tiện ngữ pháp. Người không thành thạo ngôn ngữ
học, người đứng bên đường, người ở ngoài nghề muốn phát biểu
về ngôn ngữ cũng không bị ai cấm đoán nhưng thực rất khó
ḷng thuyết phục được người đọc người nghe.
Phép phiên thiết
Chữ viết tiếng
Hán là loại chữ biểu ư, chữ viết tiếng Việt là loại chữ biểu
âm. Khi nh́n vào mặt chữ mà đọc th́ chữ viết tiếng Việt cung
cấp ngay âm đọc. Nhưng khi nh́n vào mặt chữ Hán th́ không
thể đọc được. Muốn ghi âm chữ Hán, muốn chỉ cách đọc chữ Hán,
phải dùng lối phiên thiết. Nguyên tắc phép phiên
thiết là ghép phụ âm (consonne) hay khung của chữ thứ nhất
với nguyên âm (voyelle) hay khung của chữ thứ hai thành cách
đọc của từ được phiên thiết. Nói chung, có thể xem phiên
thiết là một h́nh thức nói lái.
Phiên thiết chỉ
được sử dụng trong các từ điển, tự điển đơn ngữ Hán-Hán. Cho
nên điều kiện tiên quyết nhưng cần và đủ là phải biết đọc
chữ Hán mới vận dụng được phép phiên thiết (không cần phải
hiểu nghĩa chữ v́ đây chỉ là vấn đề phát âm, không phải vấn
đề lĩnh ư).
Ví dụ tên tôi chữ
Hán viết là
锡. Tra chữ
này trong Khang Hy, bộ
kim, mục tám nét, sẽ thấy ghi như sau : tiên đích
thiết(…)
âm tích
先的切
(…)音裼.
Phụ âm ở đây do chữ thứ nhất cung cấp, đó là chữ t;
nguyên âm do khung của chữ thứ hai cung cấp, đó là ích.
Ghép t vào với ích (t + ích), chúng ta có
cách đọc tên tôi : tích. Ngoài ra, sau khi đă cho
cách phiên thiết, Khang Hy c̣n sử dụng lối chú âm bằng cách
dùng một chữ đồng âm, gọi là phép trực âm. Trong
trường hợp tên tôi, Khang Hy ghi thêm “âm tích
音裼“nhằm
chỉ rơ rằng tên tôi đọc giống như chữ tích bộ y
裼.
Tôi xin nêu một
ví dụ khác hơi rắc rối hơn một chút. Đó là trường hợp chữ
tôn trong tôn giáo. Khang Hy ghi ở phần phiên
thiết là tác đông thiết.Tác + đông = tông
(chứ không phải tôn) và như vậy là do kỵ húy.
Cho nên – vẫn căn cứ theo phép phiên thiết ! – Đào Duy Anh
mới ghi : “Nguyên chữ này trước Nguyễn-triều vẫn đọc là
tông, sau khi kiêng tên húy đời vua Minh-mạng, mới đọc là
tôn.“ Vua Thiệu Trị có đến ba tên khác nhau :
Tuyền, Dung, Tông. V́ vậy đến đời vua Minh Mạng, dân
chúng kỵ huư phát âm chữ chúng ta đang bàn thành tôn,
từ đó Sài g̣n có đường Lê Thánh Tôn ở gần chợ Bến Thành; c̣n
Tuyền th́ biến âm thành Toàn, Dung th́
biến âm thành Dong. Như vậy do tên vua Thiệu Trị là
Tông theo phép phiên thiết nên quần chúng dân gian
tránh tên húy của nhà vua và đọc trại đi thành tôn.
Khi biên soạn các
bộ từ điển, tự điển Hán-Việt, các tác giả như Đào Duy Anh,
Thiều Chửu, Trần Trọng San, Nguyễn Văn Khôn v.v.. đă lấy
cách đọc những từ Hán từ đâu? Chẳng lẽ quí vị ấy đă rút cách
phát âm những từ đó từ trên Trời xuống hay moi chúng từ đất
đen ra? Chư vị đă dùng phép
phiên thiết. Cuốn Thiều Chửu biên soạn rất sát theo qui
cách của cuốn Khang Hy, cũng từng ấy bộ, cũng cùng thứ tự
sắp xếp theo số nét, thậm chí theo cả trật tự các chữ nữa.
Có chữ Khang Hy ghi vào chỗ chót, sau ghi chú với chữ
tăng
增 (thêm)
th́ Thiều Chửu cũng dành cho chữ liên hệ vị trí cuối cùng.
Có thể nói mà không sợ quá đáng là cách phát âm một từ
Hán-Việt như thế nào là do phép phiên thiết muốn thế, bắt
thế, qui định như thế, áp đặt như thế. Và không chỉ riêng
Khang Hy mới có phần phiên thiết, Từ Nguyên cũng tŕnh bày
mục phiên thiết giống Khang Hy; đó là chưa kể đến các bộ
bách khoa đại từ điển chữ Hán như
Hán văn đại Từ điển, Trung văn đại Từ điển.
Chữ Hán gia nhập
vào tiếng ta không phải chỉ từ đời Đường. Sau khi Triệu Đà
xưng đế, sau khi Mă Viện thắng Hai Bà th́ tiếng Hán đă có cơ
hội và thời gian để “chiếm lĩnh“ phần nào ngôn ngữ ṇi Việt.
Nhưng tiếng Hán thuở bấy giờ chỉ len lén vào, qua h́nh thức
khẩu ngữ. Đó là chữ Hán cổ. Đến thời Bắc thuộc lần thứ hai,
Trung văn, Trung ngôn chính thức gia nhập gia đ́nh ngôn ngữ
Việt, qua chữ viết, qua thi cử. Đó là chữ Hán đời Đường.
Cuối cùng, có một số chữ Hán đă Việt hoá. Như vậy, những từ
Hán vào tiếng Việt thuộc ba loại.
1)
Chuông là âm cổ của
chung; kim hay
ghim là chữ châm đọc theo âm cổ.
2) Từ gốc Hán
mượn của đời Đường chính là những từ mà nay ta gọi là từ
Hán-Việt. Hệ thống vần Hán-Việt là hệ thống vần tiếng Hán
đời Đường-Tống biến đổi theo qui luật ngữ âm tiếng Việt, kể
cả và nhất là thay đổi về thanh điệu. Chẳng hạn trong y học,
chúng ta có
thương tích, thương hàn, chướng khí, tiêm nhiễm v.v..
Trong ngôn ngữ gốc (tiếng Hán), chúng được biểu thị bằng chữ
khối vuông, khi chuyển sang ngôn ngữ đích (tiếng Việt), hiện
nay chúng được ghi chép bằng hệ thống chữ cái la-tinh. Sự
chuyển dịch đó dựa theo, tuân theo, phục tùng, vâng lệnh
phép phiên thiết.Chính v́
thế mà nếu Khang Hy ghi nhiều vận luật (Quảng
vận, Tập vận, Vận hội, Chính vận) bên cạnh
Đường vận th́ các từ điển, tự điển Đào Duy Anh, Thiều
Chửu, Trần Trọng San, Nguyễn Văn Khôn v.v..hầu như chỉ chọn
Đường vận để phiên thiết, tức là để đọc lên, để
phát âm các từ Hán-Việt.
3) Nhóm các từ
Hán đă Việt hoá khá đông, chúng ta không c̣n nhớ gốc gác của
chúng nữa. Xin thử liệt kê làm bằng : đại - đời,
kính – gương, các – gác, bổn - vốn, long - rồng, thanh –
xanh v.v..
Âm tiếng ta nhiều
khi vốn rất gần âm tiếng Tàu. Phiên âm Hán-Việt tương ứng
với chú âm Trung văn lắm lúc rất gần gụi, có khi giống nhau
như hai giọt nước :
ai : ai, ái, ải; ban : ban, bản, bán, bạn, biện etc…Xem
các từ điển Hán-Hán có phần pin yin rồi đối chiếu với
các từ điển Hán-Việt sẽ thấy. Cho nên phiên thiết
không hề thuộc lĩnh vực hàn lâm, không hề là món trang sức.
Phiên thiết là hơi thở, là mạch sống của một thành phần
tiếng nước ta.
Sử dụng hay xử
dụng?
Muốn biết
sử dụng đúng hay
xử dụng đúng th́, như đă tŕnh bày, phải dùng phép phiên
thiết chứ không có cách nào khác, lại càng không thể dùng
lối lư luận theo kiểu của nhóm Tủ sách Tiếng Quê Hương.
Từ
điển Từ Hải phiên thiết hai chữ “sử“ trong “sử dụng“ và “xử“
trong “xử sự“ như sau :
sử, 使: sảng sĩ thiết;
sư chỉ thiết tinh âm sử 史(phiên thiết là sư + sĩ =
sĩ; hoặc phiên thiết là sư + chỉ = sỉ, âm giống như sử).
(Phép phiên thiết
chỉ cho cách đọc và cách viết nhưng khi chuyển từ Hán sang
Việt-Hán th́ có thể thay đổi âm từ i sang ư hoặc thay đổi
hai dấu hỏi, ngă).
Những người không
thông thạo ngôn ngữ học nhưng thích chủ trương viết “xử
dụng“ thay v́ “sửdụng“ đưa ra các kiến
giải sau đây nhằm biện minh cho chủ trương của ḿnh :
Có người nại cớ
rằng phép phiên thiết là dành cho chữ Hán, sao lại có thể áp
dụng cho tiếng Việt được? Họ cố t́nh quên rằng chẳng có ai
mang phép phiên thiết áp dụng cho chữ nôm, cho các từ Việt
thuần túy; phép phiên thiết chỉ có hiệu lực đối với các từ
Hán-Việt v́ lẽ giản dị các từ nôm na, các từ thuần Việt
không thể nào được các tự điển, từ điển đơn ngữ chữ Hán ghi
nhận. Không ai t́m cách phiên thiết hai chữ
trùm chăn chẳng hạn v́ các tài liệu tham khảo chữ Hán
không ghi từ trùm cũng như từ chăn. Có
người lại hồn nhiên bảo tôi nói sao th́ tôi viết vậy, tôi
nói “xử
dụng“ th́ tôi viết “xử
dụng“. Họ quên rằng khi họ phát âm “xử
dụng“ là họ đă phát âm sai! Có người Việt Nam gốc Hànội
đọc là riệu nên phát âm không đúng nhưng đương sự ư
thức được là ḿnh sai và tự giác viết thành rượu.
Trên internet, cách đây vài ba năm c̣n xảy ra chuyện rất
khôi hài liên quan đến một nhà ngôn ngữ học tài tử. Anh ta
thuộc thế hệ thứ hai trong cộng đồng người Việt tỵ nạn ở Hoa
Kỳ và phụ trách dạy tiếng Việt cho một lớp Việt ngữ ở bậc
đại học. Anh ta không biết viết “sử
dụng“ là đúng hay viết “xử
dụng“ mới đúng. Một số người không chuyên nghiệp về ngôn
ngữ học hăng hái góp ư với anh bạn trẻ; người th́ bảo “sửdụng“ là đúng, kẻ lại cho rằng “xử dụng“ mới
đúng. Tôi chỉ bảo cho anh bạn này biết rằng “sử
dụng“ mới đúng chính tả tiếng Việt. Tôi không đá động
đến phép phiên thiết v́ biết rằng anh bạn không đủ tŕnh độ
để hiểu tôi muốn nói ǵ. Sau một thời gian thu góp ư kiến,
anh bạn bèn tổng kết; kết quả số người bảo “xử dụng“
là đúng nhiều hơn số người bảo “sử dụng“ mới đúng.
Người thầy giáo dạy tiếng Việt bất đắc dĩ bèn quyết định dạy
cho học tṛ viết “xử dụng“ theo như đa số quyết định!
Tôi chỉ biết thở dài và tự dưng nhớ đến chuyện cán ngố dạy
tiếng Pháp. Trong một buổi sinh hoạt tập thể, “nhân dân“ băn
khoăn không biết tiếng Pháp gọi cái bàn là la table hay le
table. Tranh luận măi, cuối cùng cán ngố lấy biểu quyết và
số người bảo cái bàn là le table đông hơn! Thế là cái bàn
biến thành giống đực trong Pháp ngữ!
*
Tủ sách Tiếng Quê
Hương c̣n tŕnh bày suy tư về cách viết nhiều chữ Việt khác
như ḍng/gịng, dấu/giấu, dây/giây v.v.. Nhóm chủ trương c̣n
bác bỏ từ “toàn trị“ của nữ tác giả Thụy Khuê.
Nhóm nại lư do nhóm phải theo đuổi và tôn trọng “chủ hướng“
riêng, nhóm phải dựa vào những “chỉ tiêu“ riêng. (Chữ “chỉ
tiêu“ dùng không đúng, lẽ ra phải là “tiêu chuẩn“. “Chỉ
tiêu“ là một mức định ra để đạt tới, thường được biểu hiệu
bằng con số).
Rất tiếc trong
ngôn ngữ học, người chuyên môn nghiên cứu theo khoa này phải
chấp nhận những qui tắc, những nguyên tắc khách quan, khoa
học chứ không thể tùy tiện, tùy hứng đưa ra những “chủ
hướng“, những “chỉ tiêu“ chủ quan, cá biệt.
Tủ sách Tiếng Quê
Hương dường như c̣n có một khuyết điểm khác : nhóm không để
ư đến cách viết từ sử dụng trong nhiều tài liệu tham
khảo phổ thông và phổ biến – trong số các tài liệu này có
tài liệu mang tính quan phương. Đó là các từ điển, tự điển,
tự vị đơn ngữ Việt-Việt và song ngữ Hán-Việt, Pháp-Việt,
Anh-Việt, Đức-Việt, Việt-Đức. Các tài liệu sau đây đều viết
sử dụng, nghĩa là viết với chữ s (“ét“) :
Đại Nam Quốc âm
Tự vị, Huỳnh Tịnh Paulus
Của, Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1896, Saigon, mục từ
sử dụng.
Pháp-Việt Tự-điển,
Đào Duy Anh, Nhà Xuất bản Trường Thi, 1957, Sàig̣n, mục từ
emploi.
Việt-ngữ Chánh-tả
Tự vị, Lê Ngọc Trụ, Nhà
Xuất bản Trường Thi, 1960, mục từ sử, số 2.
Anh-Việt Từ điển,
Nguyễn Văn Khôn, Nhà sách Khai Trí, 1968, Sàig̣n, mục từ
employ.
Việt-Nam Tự-điển,
Lê Văn Đức và Lê
Ngọc Trụ, Nhà sách Khai Trí, 1970, Sàig̣n, mục từ
sử-dụng.
Hán Việt Từ-điển,
Nguyễn Văn Khôn, Nhà sách Khai Trí, 1960, Sàig̣n, mục từ
sử dụng.
Vietnamesisch-Deutsches Wörterbuch,
Otto Karow, Otto Harrassowitz, 1972, Wiesbaden, mục từ
sử dụng.
Từ điển tiếng
Việt, Văn Tân chủ biên,
Nhà Xuất bản Khoa học Xă hội, 1977, Hànội, mục từ
sử dụng.
Sổ tay từ Hán
Việt,
Phan Văn Các, Nhà Xuất bản Giáo dục, 1989, Hànội, mục từ
sử dụng.
Từ điển Tiếng
Việt, Nguyễn Văn Đạm,
Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, 1993, Hànội, mục từ
sứ dụng.
Từ điển Hán-Việt,
Hầu
Hàn Giang chủ biên, Thương vụ Ấn thư quán, 1994, Thượng Hải,
mục từ
sử dụng.
Từ điển Hán-Việt
Hiện đại,
Nguyễn Kim Thản chủ biên, Nhà Xuất bản Thế giới, 1994, TPHCM,
mục từ shiyè và
shiỵng.
Từ điển Tiếng
Việt,
Hoàng Phê chủ biên, Nhà Xuất bản Khoa học Xă hội, 1994,
TPHCM, mục từ sử dụng.
Hán Việt Từ điển,
Trần Trọng San, Bắc đẩu, 1997, Canada, mục từ sử.
Từ điển Đức-Việt,
Nguyễn Văn Tuế, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin, TPHCM, 2000,
mục từ
benutzen, Benutzer, Benutzung.
Chữ nho trong
đời sống mới,
Nguyễn Ngọc Phách, Tác giả xuất bản, 2004, Melbourne, mục từ
sử dụng quyền tiên măi.
Trong tủ sách cá
nhân, tôi hiện có hai từ điển viết
xử dụng, nghĩa là viết với chữ x (“ích-x́“) :
Pháp-Việt Tân Từ
điển,
Thanh Nghị, Nhà Xuất bản Thời Thế, 1961, Sàig̣n, mục từ
emploi, employer.
Anh-Việt Từ điển,
Nguyễn Văn Khôn, Nhà sách Khai Trí, 1968, Sàig̣n, mục từ
usage. Tuy nhiên ở hai mục từ employ và
employable th́ cũng cùng chính từ điển này lại viết
sử dụng!