| |
THƯỞNG THỨC
CỔ
NHẠC MIỀN NAM
VÀ
VỌNG CỔ
Nguyễn Lưu Viên
|
|
Hồi
xưa trong Nam, lúc " Ba ngày Tết ", th́ tối lại thường thường dân ở làng
hay đi xem một " chầu " Hát Bội, c̣n dân ở tỉnh th́ hay đi xem một " xuất
" Cải Lương.
Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn
tuồng Hát Bội th́ khán thính giả phải biết cốt chuyện của tuồng hát (thường
thường lấy trong truyện Tàu như : tuồng " Kim Thạch Kỳ Duyên ", tuồng "
Ngũ Hổ B́nh Tây ", tuồng " San Hậu " và phải biết sơ sơ những nguyên tắc
căn bản của việc đánh trống chầu. Giáo sư Nguyễn Ngọc An trong bài " Nghệ
Thuật cầm chầu " đă tŕnh bày hết sức rơ rệt nghệ thuật ấy.
Để hiểu và thưởng thức trọn vẹn xuất
cải lương th́ khán thính giả cũng phải biết cốt chuyện của tuồng hát (thường
thường lấy trong truyện Tàu hay trong tiểu thuyết Việt Nam như tuồng "
Phụng Nghi Đ́nh " với cô Bảy Phùng Há, tuồng " Xử Án Bàng Quư Phi " với cô
Năm Phỉ, tuồng " Lan và Điệp " với cô Thanh Nga), và phải biết sơ sơ những
nguyên tắc căn bản của cổ nhạc Việt Nam. Theo gương của giáo sư Nguyễn
Ngọc An, tôi xin cố gắng tŕnh bày sau đây vài nguyên tắc căn bản ấy. V́
thế hệ trẻ Việt Nam sau này đă quen với nhạc Tây Phương, nên tôi xin tŕnh
bày những nguyên tắc căn bản ấy dưới h́nh thức so sánh, bằng những khác
biệt, giữa nhạc Tây phương và nhạc Cổ điển miền Nam để cho được dễ hiểu
hơn.
|
I .
Khác biệt về các Note đàn
Nhạc
Tây phương có bảy (7) nốt đàn (là Do, Ré, Mi, Fa, Sol, La, Si hoặc A, B,
C, D, E, F, G) và các dièse (sharp) hoặc bémol (flat) của mỗi nốt ấy. C̣n
cổ nhạc miền Nam th́ cũng có bảy (7) tên nốt đàn (là : Ḥ, Xự, Xang, Xê,
Cống, Liếu, Ú) nhưng kỳ thực th́ chỉ có năm (5) tiếng nốt đàn (là Ḥ, Xự,
Xang, Xê, Cống, c̣n Liêu, Ú, là " nấc trên " của Ḥ và Xự). Nhưng mỗi nốt
đàn Việt Nam không có dièse hay bémol của nó mà có vô số tiếng " ngân " éo
on của nó, v́ nốt đàn Việt Nam đánh lên thường thường là có " ngân " (nhất
là khi nốt đàn ở vào cuối nhịp hay cuối câu). " Ngân " không phải là
trille v́ trille là đánh thật nhiều lần rất mau và đàn và nốt liền ở trên.
" Ngân " cũng không hẳn là vibrato v́ trong vibrato tuy có sự " rung rung
" của ngón tay trái trên nốt đàn nhưng sự căng thẳng (tension) của sợi dây
đàn không có thay đổi bao nhiêu ; c̣n " ngân " th́ đánh có một lần vào nốt
nào đó trong lúc ngón tay trái vẫn tiếp tục ấn mạnh nhẹ liên hồi vào dây
đàn để cho sự căng thẳng của dây thay đổi hầu phát ra những tiếng " éo on
" của nốt đàn ấy ; thí dụ như đánh nốt Xang (nhất là ở vào cuối nhịp hay
cuối câu) th́ không phải để phát ra một tiếng " Xang " rồi thôi, mà phải
phát ra một tiếng Xang éo on như " Xàng Xaăang (). (Có lẽ chữ Pháp hay chữ
Anh có nghĩa gần nhất với chữ " Ngân " là chữ " Moduler " (Modulate).
Kết quả :
1.
Không thể nào dùng nhạc khí Tây phương nào mà không " ngân " được để diễn
tả cổ nhạc miền Nam. Thí dụ không thể dùng dương cầm (piano) được, v́
không thể " ngân " được, dù cho có giữ ngón tay trên phiếm hay có dùng bàn
đạp (pédale) cũng chỉ kéo dài tiếng đàn chớ không phát ra được những tiếng
" éo on " của ngân. C̣n nếu dùng những nhạc khí có dây của nhạc Tây phương
như đàn Madoline hay đàn guitar th́ trên cán đàn phải " khoét lỏm " ở chỗ
bấm nốt để có thể ấn " mạnh nhẹ, mạnh nhẹ " xuống dây đàn hầu thay đổi sự
căng thẳng của nó để mà ngân ". Chỉ có hawailian-guitar là thích hợp để
diễn tả cổ nhạc miền Nam nhờ sự có thể nhích tới nhích lui cục sắt nằm
trong tay trái để phát ra tiếng " ngân ".
2. Thường thường đàn một bản nhạc
Tây phương th́ các nốt đàn được đánh lên phải nghe cho thật " clean "
nghĩa là không có phụ âm đi kèm ; c̣n đàn một bản cổ nhạc miền Nam th́ các
nốt được đánh lên, nghe có phụ âm đi kèm v́ " ngân ", (thí dụ :
Công-ôố-ống, Xàng-xaă-ang).
|
II.
Khác biệt về quan niệm (conception) một bản đàn
Trong nhạc Tây phương một bản nhạc
là một tác phẩm do một nhạc sĩ sáng tác, viết ra để cho ḿnh chơi, người
khác chơi, một dàn nhạc chơi và sẽ lưu lại cho hậu thế chơi ; và mỗi khi
chơi th́ đánh lên không sai một ly những nốt và những ngừng im (pause,
silence) đă viết ra trong bản nhạc. Cho nên một nhạc sĩ Tây phương, lúc
đàn th́, về mặt kỹ thuật hành sử (exécuter) một nhạc phẩm (có trước mặt
hay thuộc ḷng) của tác giả ; c̣n về mặt t́nh cảm th́ " phiên dịch " (interpréter)
t́nh cảm của tác giả ấy, nghĩa là nghĩ rằng, đoán rằng, lúc sáng tác tác
giả ấy đang nghĩ đến ǵ, th́ ḿnh cố gắng diễn tả tư tưởng, cảm giác ấy
qua bản nhạc của ông ấy mà ḿnh đang đàn. C̣n theo cổ nhạc miền Nam, v́
không có lối viết nhạc (écriture musicale) nên nhạc sĩ không thể có bản
nhạc trước mắt, và v́ quan niệm rằng một bản nhạc là một cái khung, một
cái mẫu theo điệu nào đó để cho nhạc sĩ theo đó mà sáng tác, liền ngay tại
chỗ trong lúc đàn một bản nhạc của ḿnh để diễn tả tư tưởng và cảm giác
hiện tại của ḿnh : cho nên có thể nói rằng một nhạc sĩ cổ nhạc miền Nam
là một " Instant Composer) ngay lúc đàn, sáng tác một bản nhạc theo điệu
nào đó, trong một cái khung hay theo một cái mẫu nào đó (thí dụ : Điệu Bắc,
theo mẫu bản Lưu thủy hay bản Tây thi, hoặc Điệu Nam theo mẫu bản Nam xuân
hay bản Nam ai, hoặc Điệu Oán theo mẫu bản Tứ đại hay bản Văn thiên Tường).
Kết quả : Theo nhạc Tây
phương th́ một bản nhạc của Mozart, của Beethoven của Chopin hay của một
nhạc sĩ trứ danh nào khác sáng tác, th́ một nhạc sĩ ở thế kỷ 18, 19, 20,
21, 22, hay sau nữa, ở Pháp, ở Đức, ở Mỹ, ở Tàu hay ở Nhựt, cũng đă, đang
và sẽ, đánh ra bấy nhiêu nốt, ngừng lại bấy nhiêu lâu, không sai một ly,
chỉ có khác nhau ở lối diễn tả hay " phiên dịch " (interpréter) cảm giác
của tác giả.
C̣n
theo cổ nhạc miền Nam th́ một bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của ông
Chín Kỳ đàn, nếu được " thu băng " rồi đem ra phân tách kỹ từng nốt đàn và
từng lúc im, th́ thấy nó sẽ khác với bản Tứ đại, Nam xuân hay vọng cổ của
một nhạc sĩ khác đàn (cùng một thứ đàn). Và ngay cùng một người đàn, nếu
thu băng rồi phân tích kỹ lại từng nốt đàn th́ bản Tứ đại, Nam xuân hay
vọng cổ của ông Chín Kỳ đàn ngày hôm nay, có khác với bản Tứ đại, Nam xuân
hay vọng cổ mà cũng chính ông Chín Kỳ này đàn ngày hôm trước, hoặc tuần lễ
trước, hay ngày hôm sau, hoặc tuần lễ sau, bởi v́ theo quan niệm của cổ
nhạc miền Nam th́ người nhạc sĩ khi đàn là một " Instant Composer " sáng
tác ngay tại chỗ một bản đàn theo điệu nào đó, trong khung hay theo mẫu
nào đó, để diễn tả tâm hồn hiện tại của ḿnh, tuỳ ư, tuỳ hứng, tuỳ lúc mà
tư tưởng và cảm giác của ḿnh th́ thay đổi hằng ngày nên bản nhạc đánh ra
nghe có khác, mặc dù chung chung biết nó theo điệu ǵ, mẫu nào. Có lẽ nhạc
cổ điển Tàu cũng theo cùng một nguyên tắc cho nên mới có cái tích " Bá Nha,
Tử Kỳ ", người này đàn, người kia nghe được, th́ " đọc trong ruột " của
người ấy mà biết đượcđang nghĩ đến cái ǵ.
|
III.
Khác biệt về các điệu đàn (mode)
Nhạc Tây phương có nhiều " Điệu "
(mode) nhưng thông thường nhứt là hai điệu Mode Majeur và Mode Mineur ;
mỗi điệu có nhiều (12) gammes, mỗi gamme được quy định bằng những âm luật
chặt chẽ, rơ ràng và khoa học ; cũng như việc chuyển từ điệu này sang điệu
kia cũng được quy định bằng những âm luật chặt chẽ, rơ ràng, và khoa học
mà không phải sửa đổi sự căng thẳng (tension) của dây đàn.
C̣n cổ nhạc miền Nam th́ có " ba (3)
điệu ", mỗi điệu có một tính chất riêng biệt và một số bài căn bản :
1.
" Điệu Bắc " th́ nghe vui tai, có vẻ liến xáo, đàn nhanh, nhịp lẹ,
ngân ít.
2. " Điệu Nam " th́ đàn thong
thả hơn, ngân vừa, nhịp khi chặt khi thưa, và phải gây ra một cảm tưởng
trầm ngâm, b́nh thản, nghiêm trang ;
3. " Điệu oán " th́ đàn thong
thả hơn nữa, ngân nhiều, nhịp thưa, và phải gây ra một cảm tưởng buồn rầu,
oán hận, thở than.
Thường thường khi chuyển từ " Điệu
Bắc " qua " Điệu Nam " hay " Điệu Oán " th́ nhạc sĩ phải vặn cái trục của
cây đàn (ḱm, c̣ hay sến) hoặc " nới con nhạn " của đàn tranh để sửa sự
căng thẳng (tension) của dây đàn (cho tiếng " xuống " lối demi-ton).
Hồi
xưa khi học đàn cổ nhạc miền Nam th́ " Thầy đàn " thông thường bắt đầu dạy
" Sáu (6) Bài Bắc " là những bài : B́nh bán, Phú lục, Tây thi, Cổ bản, Lưu
thủy, Hành vân. Mục đích là để cho " quen ngón ", đánh nốt nào bấm cho
đúng chỗ, đàn mau, không ngân nhiều, nhịp cho đúng nhịp. (c̣n có một số "
Bài điệu Bắc " nữa, rất hay, là những bài : Kim tiền, Khổng Minh tọa lầu,
Xàng xê, Tây thi quảng ...)
Học cho thật thuần Sáu Bài Bắc xong
th́ " Thầy " cho " qua Nam " hay là " qua Oán ".
Nếu " qua Nam " th́ học " ba (3) Bài
Nam " là những bài : Đảo ngũ cung, Nam Xuân và Nam Ai (thường đàn Nam Xuân
rồi qua Nam Ai). (H́nh như có bài Nam B́nh nữa mà ít ai biết và ít nói đến).
Nếu
" qua Oán " th́ họa " Ba (3) Bài Oán " là những bài : Tứ đại oán (khác với
Tứ đại cảnh), Văn thiên tường, và Trường tương tư. C̣n có một bài Oán cổ
điển rất hay nữa là bài " B́nh sa lạc nhạn " (nghe tiếng đàn, con chim
nhạn đang bay phải rớt té xuống băi cát). Vọng cổ được sắp theo điệu oán
Oán, nhưng không được kể như " classique ". Học đàn cổ nhạc v́ không có
lối viết nhạc, nên phải nhớ bằng tai nghe (lúc ấy lại chưa có máy thu băng)
thuộc ḷng, mà " thầy " dạy không có phương pháp lại mỗi lúc đánh cùng một
bản nhạc th́ có hơi khác nhau (v́ lư do nói ở đoạn trên) nên phải nhiều cố
gắng công phu lắm. Tôi c̣n nhớ lúc nhỏ hay chế diễu việc học đàn bằng câu
hát : " Liêu Tồn Liêu Xáng U, cú trên đầu ba bữa c̣n u " (v́ ở Việt Nam
trẻ con học cái ǵ cũng bị đ̣n).
|
IV.
Khác biệt về lối kiến trúc các cơ cấu (structure) của bản nhạc
Cũng như một bản nhạc Tây phương,
một bản cổ nhạc miền Nam cũng được chia ra làm nhiều đoạn hay nhiều lớp (Tứ
đại có lớp Xự, và lớp Xang) mỗi lớp có một số câu, mỗi câu có một số nhịp
(mesure).
Và
từ đây là bắt đầu có một sự khác biệt căn bản giữa hai âm nhạc :
Trong một bản nhạc Tây phương mỗi
nhịp (mesure) được chia ra làm nhiều " Th́ " (temps) như 2/4, 4/4 hay C,
hoặc 3/8, 6/8, 9/8 ... để rồi, tuỳ theo cái " th́ " đó mà mỗi nhịp bắt
buộc phải có và chỉ có bao nhiêu nốt loại nào (tṛn, trắng, đen, một nóc,
hai nóc ...) cùng với bao nhiêu ngừng im (pause, silence).
C̣n trong cổ nhạc miền Nam th́ có
nhịp (mesure) chớ không có " th́ " (temps), cho nên nhạc sĩ đă là "
Instant Composer " th́ tuỳ ư, tuỳ hứng, tùy " yên sĩ phi lư thuần "
(inspiration) mà đánh bao nhiêu nốt trong một nhịp, nghỉ bao nhiêu lần bao
nhiêu lâu cũng được, miễn là, " canh nhịp " cho đúng, để mà ở những chỗ có
nhịp chính của bản đàn th́ đánh cho đúng cái nốt bắt buộc ở đó, (gọi là "
xuống nhịp " cho đúng) ; bởi lẽ mỗi bản nhạc là một cái khung cái mẫu theo
một số điệu nào đó th́ luôn luôn có một số nhịp chính, ở đó bắt buộc phải
đánh nốt nào đó. Thí dụ trong bản nhạc vọng cổ, ở câu 1, th́ nhịp đầu là "
Ḥ ", nhịp thứ tư là " Ḥ ", nhịp thứ 8 là " Xang ", nhịp thứ 12 là " Cống
", th́ nhạc sĩ chỉ cần canh nhịp cho đúng để đến nhịp 1 th́ đánh Ḥ, gọi
là " xuống Ḥ ", nhịp 4 th́ " xuống Ḥ ", nhịp 8 th́ " xuống Xang ", và
nhịp 12 th́ " xuống Cống ", c̣n ở những chỗ khác th́ tha hồ, tuỳ ư, tuỳ
hứng miễn là canh nhịp sao cho đúng để " xuống nhịp " cho đúng.
|
V.
Khác biệt trong lối " hành sử " (exécuter) bản nhạc
Một nhạc sĩ tŕnh diễn nhạc Tây
phương th́ bắt đầu là vào ngay bản nhạc (có trước mắt hay thuộc ḷng) mà
ḿnh phải chơi.
C̣n một nhạc sĩ tŕnh diễn cổ nhạc
miền Nam th́ bắt đầu bằng một hồi " Rao ". Rao nghĩa là đàn theo một điệu
nào đó (điệu Bắc, điệu Nam, hay điệu Oán) mà không phải theo khung mẫu
của bản nào hết, nên hoàn toàn tuỳ ư, tuỳ hứng. Tức nhiên là lối " Rao
Bắc " (đàn nhanh, vui nhộn, liến xắc) có lối " Rao Nam " (đàn ung dung,
trầm ngâm, b́nh thản) và lối " Rao Oán " (đàn chậm, ngân nhiều, cho ra
những tiếng buồn rầu, oán hận). " Rao lên " th́ người nghe nhạc biết rằng
nhạc sĩ sẽ đàn điệu ǵ (Bắc, Nam hay Oán).
Một tác dụng khác của " Rao ", khi
có nhiều người đàn, là để " so dây ". Đàn tây phương lấy nốt La (A) làm
căn bản, có định nghĩa khoa học rơ ràng là tiếng phát ra của một sợi dây
căng thẳng được rung với một tần số (fréquence) 438 rung động trong một
giây đồng hồ (438 vibrations par seconde) (hồi trước là 435) ; có dụng cụ
(diapason) để so dây và lên giây các thứ đàn cho đúng.
C̣n đàn cổ nhạc miền Nam th́ lấy nốt
Ḥ làm căn bản, nhưng không có định nghĩa khoa học rơ rệt nốt Ḥ là ǵ, có
bao nhiêu rung động trong một giây đồng hồ, và không có dụng cụ để đo, và
so dây các thứ đàn, mà chỉ lấy tai nghe. Mà tai người này với người kia
khác nhau nên lúc rao là thời gian để các nhạc sĩ sửa dây đàn của ḿnh cho
" ăn " với nhau, hoặc " ăn " với giọng của ca sĩ, nếu có ca.
Tác dụng thứ ba của Rao là để biểu
diễn. V́ đàn một điệu mà không bị ràng buộc bởi cái khung mẫu của bản nào
hết, th́ nhạc sĩ có thể tha hồ cho " ra những ngón đàn " đặc biệt của ḿnh
để tỏ ra là ḿnh có khả năng đàn mau (" sầm sập như trời đổ mưa "), (" đàn
khoan thai như gió thoảng ngoài "), đàn riếu ron (" như tiếng hạc bay qua
") hoặc đàn lâm ly (" như nước suối mới sa nửa vời "). Người sành nhạc,
chỉ nghe rao thôi, cũng có thể đánh giá và sắp hạng nhạc sĩ (ưu hay b́nh,
thứ) được. Cho nên nhạc sĩ lúc rao thích " trỗ tài " và " biểu diễn ".
Rao xong th́ vào bài, tức là bắt đầu
bản nhạc. Thường thường để đánh dấu bắt đầu vào bản nhạc, nhất là khi có
nhiều người cùng hoà tấu, th́ người nhạc sĩ " cầm canh " hay là " giữ nhịp
", gơ vào nhịp cụ nghe một tiếng " cóc ", tức là bắt đầu, th́ mọi người
đàn. Trong suốt thời gian đàn, thỉnh thoảng nghe nhịp " cóc "? " cóc "? "
cóc ", mau hay khoan tuỳ theo điệu (điệu Bắc th́ mau, điệu Nam th́ khoan
thai hơn, điệu Oán th́ chậm hơn nữa). Không phải nhịp nào cũng gơ, mà
thường thường là nhịp để chấm câu (như nhịp thứ 16 là để chấm câu trong
bản vọng cổ) hoặc để đánh dấu một vài nhịp chính trong câu (như nhịp thứ
12 trong câu vọng cổ). Có khi, nhất là trong các bản đàn điệu Nam hay điệu
Oán xưa ; th́ có lối " nhịp song loan " như để xuống ḍng trong một bản
văn viết ; th́ người ta nghe như sau : tiếng đang đàn, nghe nhịp một cái "
cóc " th́ im, đếm thầm một, hai, ba, nghe nhịp một cái " cóc " nữa, th́
đàn lại, hoặc như sau : tiếng đang đàn, th́ im và nghe gơ nhịp " cóc " - "
cóc ", " cóc " - " cóc " th́ đàn lại.
|
IV.
Vọng cổ
Đàn và ca vọng cổ là điệu phổ thông
nhất và được thưởng thức nhất ở miền Nam sau này cho đến nổi mà đối với
một số người Bắc mới vào Nam và có một số người Nam trong thế hệ trẻ, cổ
nhạc miền Nam là vọng cổ và chỉ có vọng cổ. Kỳ thực th́ cổ nhạc miền Nam
có nhiều bài cùng điệu vọng cổ (điệu oán) mà hay hơn vọng cổ rất nhiều như
các bài Tứ đại, Văn thiên Tường, hay là Trường tương tư, nhưng các bài ấy
v́ khó đàn khó ca nên sau này bị lăng quên mà chỉ c̣n có vọng cổ được tồn
tại phổ thông v́ dễ đàn và dễ ca.
1. Lịch sử :
Một
số người Nam cho rằng vọng cổ phát xuất từ người Chàm ở miền Nam Trung
phần (nhớ tiếc thuở xa xưa). Nhưng thuyết ấy không có chứng minh. Dù sao,
đến cuối thập niên 1920, hồi thời " máy hát quay tay hiệu con chó có cái
loa " (La voix de son maitre), thời dĩa hát hiệu " con gà " của hăng "
Pathé ", hồi đời " Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho ", đời mà khi diễn xong một
tuồng hát, th́ toàn ban ra trước sân khấu hát bài " Ma-Đờ-Long " (Madelon)
để từ giă, th́ trong Nam đă có bản nhạc " vọng cổ hoài lang ", 20 câu, mỗi
câu có 4 nhịp ; đến đầu thập niên 30, lối năm 1935, 36, th́ có nhóm nhạc
sĩ ở Bạc Liêu đàn bản vọng cổ này mà kéo dài ra mỗi câu có lẽ 16 nhịp, nên
lúc ấy trong Nam gọi là " vọng cổ Bạc Liêu " (hay là vọng cổ nhịp 16 ").
Kể từ đó và suốt hết thập niên 40 là " thời kỳ vàng son " của vọng cổ với
trọn 20 câu, mỗi câu có 16 nhịp, với các nghệ sĩ lừng danh trong cả Nam kỳ
như các nhạc sĩ Sáu Tửng (đàn ḱm), Chín Kỳ (đàn tranh), Hai Phát (đàn c̣),
các nam ca sĩ Năm Châu và Bảy Nhiêu, các nữ ca sĩ Cô Hai Đá, cô Ba Bến Tre,
cô Tư Sạng, và nhất là cô Năm Phỉ (trong tuồng cải lương " Xử Án Bàng Quư
Phi "). Các nhạc sĩ và ca sĩ trên c̣n đàn và ca được những bài Oán khác
như Tứ Đại, Văn Thiên Tường, và trường Tương Tư).
Đến
những thập niên 1950, 1960, tân nhạc Việt Nam theo lối nhạc Tây phương
tràn ngập vào miền Nam và cổ nhạc miền Nam, nhất là những bản nhạc khó đàn
và khó ca, bị lu mờ dần rồi bị lăng quên hẳn, chỉ c̣n có vọng cổ, rút ngắn
lại c̣n có sáu (6) câu đầu, với nam ca sĩ " ăn khách " nhất là ông Út Trà
Ôn, và nữ ca sĩ " ăn khách " nhất là cô Thanh Nga.
2. Nghe đàn và ca sáu (6) câu
vọng cổ.
Khởi đầu cuộc tŕnh diễn th́ các
nhạc sĩ " Rao " (rao điệu Oán : xem ở đoạn trước). Rao một lúc th́ ca sĩ
bắt đầu " nói lối " trong lúc nhạc sĩ vẫn rao ; khi nói lối gần xong th́
nhạc sĩ ngừng rao, chờ cho ca sĩ xuống giọng để vô nhịp Ḥ đầu (của câu 1)
th́ nhạc sĩ " bắt " nốt Ḥ đó để vào bản nhạc và tiếp tục đàn luôn. (Thường
thường nếu ca sĩ xuống giọng để " vào nhịp Ḥ " ấy mà nghe êm tai, mùi mẫn
lại ăn khớp với tiếng đàn " bắt " nốt Ḥ đó th́ khán giả vỗ tay rầm rầm).
Ca
đến hết câu 1 th́ " xuống nhịp Cống ", cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối
cùng của câu 1 cũng là một chữ có dấu sắc, hoặc có khi dấu hỏi hay dấu ngă,
mới " ăn " với nốt " Côôống)
Cuối câu 2 th́ " xuống nhịp Xang ",
cho nên bài ca vọng cổ nào chữ cuối cùng của câu 2 cũng là một chữ không
dấu mới " ăn " với nốt Xàăang. (miễn cưỡng lắm mới dùng chữ có dấu huyền
th́ phải đọc lờ đờ như là không dấu).
Cuối câu 3 và cuối câu 4 đều " xuống
nhịp Ḥ " th́ bài ca thường thường cuối câu 3 và cuối câu 4 là một chữ có
dấu huyền mới " ăn " với nốt Ḥ (miễn cưỡng lắm mới dùng một chữ không dấu).
Cuối câu 5 th́ " xuống nhịp Xề " nên
trong bài ca chữ cuối của câu 5 nhất định phải là một chữ có dấu huyền, mà
đọc phải gằng giọng và kéo dài để cho " ăn " với nốt " Xềêê ".
Cuối
câu 6 th́ xuống nhịp Ḥ (như 3 và 4) mà phải đọc nhẹ để chấm dứt bài ca
cho êm tai.
Hồi xưa nếu c̣n tiếp tục ca nữa th́
đặc biệt đến câu 9, xuống nhịp " Xự ", th́ trong bài ca chữ cuối cùng của
câu 9 phải là một chữ có dấu nặng mới " ăn " với nốt " Xưựư ".
Trong suốt thời gian đàn và ca th́
có một nhạc sĩ vừa đàn vừa " cầm canh " nghĩa là giữ nhịp cụ để " chấm
nhịp " th́ phải gơ nhịp nghe một tiếng " cóc " ở nhịp thứ 12 và nhịp thứ
16 của mỗi câu (trừ câu 1 thường thường chỉ có 12 nhịp, v́ cho rằng " Rao
" đă mất hết 4 nhịp, nên phải gơ nhịp ở nhịp 8 và 12).
Đến câu 6, ở nhịp thứ 12 th́ phải gơ
vào nhịp cụ hai lần (nghe cóc cóc) để báo hiệu rằng c̣n 4 nhịp nữa hết câu
th́ sẽ stop, ngưng đàn và ca. Th́ nhạc sĩ bắt đầu đàn lơi lơi và chậm lại
dần (theo nhạc Tây phương là Rall hay Rallentando) và ca cũng hơi chậm
chậm lại cho đến cuối câu nghe nhịp một cái " cóc " nữa là ngưng đàn và
ca. Hồi xưa khi c̣n đàn và ca vọng cổ đủ cả 20 câu, th́ đến đây không nghe
nhịp hai cái cóc cóc th́ nhạc sĩ và ca sĩ không đàn và ca chậm lại và hết
câu 6 th́ đi luôn qua câu 7.
Sau này c̣n có cái lối không đàn và
ca luôn hết sáu câu, mà đến hết câu 3 th́ :
- Hoặc ngừng rồi rao, nói lối, rồi
xuống giọng để trở vô nhịp Ḥ đầu của câu 4, rồi đàn và ca luôn đến hết
câu 6 ;
- Hoặc ngừng rồi rao, ca đệm vài câu
của bản " Xuân T́nh " hay bản " Chuồn Chuồn " rồi nói lối và xuống giọng
để vô nhịp Ḥ đầu của câu 4 rồi đàn và ca luôn đến hết câu 6.
Trên
đây tôi đă cố gắng tŕnh bày vài nguyên tắc căn bản của cổ nhạc miền Nam,
khác biệt với nhạc Tây phương để hiểu thêm phần nào và thưởng thức hơn
nhạc cổ điển của chúng ta. Và tôi nghĩ rằng thế hệ già này của Việt kiều
di cư, tuy không c̣n được thưởng thức tiếng đàn và lời ca của những bài cổ
nhạc miền Nam độc đáo nữa như các bản Tây thi, Xàng xê, Nam xuân, Nam ai,
hoặc Tứ đại, Văn thiên Tường, hay Trường Tương Tư, nhưng vẫn c̣n thấy xúc
động khi được nghe đàn và ca sáu câu vọng cổ ; chứ đến thế hệ tương lai
sau này của Việt kiều di cư, th́ chắc chắn không biết tới tên của những
bản cổ nhạc ấy nữa, và không biết sẽ c̣n xúc động khi nghe đàn và ca sáu
câu vọng cổ hay không, hay là sẽ dửng dừng dưng như nghe nhạc A-rab hay
nhạc Ấn độ, một sự dửng dừng dưng ṭ ṃ của người ngoại quốc ?
***
|
|