| |
|
Những vị nữ vương công chúa Việt
Trần Thị Hồng Sương
“… Không phải t́nh cờ mà
phụ nữ đă đạt được đến đỉnh cao tri thức để có thể bày tỏ thân phận con
người trong lốc xoáy chiến tranh độc tài xâm chiếm lănh thổ …”
Lịch sử là quá khứ đă chết hẳn song vẫn ghi dấu lên nhân cách và hành
động của con người qua ḍng sinh mệnh của truyền thống, làm nên bản sắc
dân tộc. Nh́n từ góc khác th́ có người cho rằng văn hoá là những ǵ c̣n
lại sau khi đă quên hết. Trải nghiệm của cuộc sống hay qua học hỏi được
tiêu hoá chọn lọc đào thải mất dấu trong ư thức nhưng và ghi dấu trong
tiềm thức, h́nh thành niềm tin và quan điểm rất sâu sắc mạnh mẻ nhiều
hơn chúng ta từng nghĩ. Đă có thống kê kết luận rơ về những đứa trẻ bất
hạnh lớn lên với đ̣n roi nhục mạ, nếu không tự tử chết như năm bé gái
cột tay nhau nhảy xuống sông th́ nhân thân cũng dễ phạm tội hơn nhiều
lần những trẻ có tuổi thơ ít đau khổ hơn.
Đắm ḿnh trong nền văn minh lúa nước “Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”,
trong chiến tranh chống xâm lược phương Bắc là Trung Hoa (“Muốn coi lên
núi mà coi, Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng!”), rồi đến sự đa dạng
văn hoá quốc gia khi Đại Việt có thêm cư dân người Chăm Pa và Khmer.
Gây chiến chính là một trong những “sự đồi trụy của quyền lực đàn ông”,
chủ đề xuyên suốt của các tác phẩm của hai nhà văn nữ: Herta Müller (Đức
gốc Roumania) đoạt giải Nobel 2009 “đă miêu tả phong cảnh của mảnh đất
bị tước quyền sở hữu” gây ra nhiều phận người mang nỗi ḷng tha hương ít
nhiều lạc lơng, và giải Man Booker năm 2009 được trao tặng cho nhà văn
Anh Hilary Mantel, với tác phẩm Wolf
Hall (Đại sảnh sói)...
Không phải t́nh cờ mà phụ nữ đă đạt được đến đỉnh cao tri thức để có thể
bày tỏ thân phận con người trong lốc xoáy chiến tranh độc tài xâm chiếm
lănh thổ.
Từ điểm nh́n này, bài viết muốn xem lại một bức tranh sơ thảo khi t́m
hiểu những phụ nữ Việt Nam từng mang sứ mệnh và ghi dấu ấn vào lịch sử,
và đặt lại một vài câu hỏi cho những nhà sử học.
*
Hai Bà Trưng: Trang sử Việt Nam được mở đầu năm 40-43 bằng chiến
thắng quân xăm lược phương Bắc của Hai Bà Trưng: Trưng Trắc và Trưng Nhị
(40-43) và mẹ là Bà Man Thiện theo cổ sử thời này người Việt chưa có họ
chứ không phải họ Trưng hay họ Man. Nam Man là tiếng Trung Quốc hay gọi
người Việt cổ dần dà chuyển theo đơn âm nên gọi người Việt cổ là “Mán”
kiểu Trung Quốc gọi người Việt cổ lạc hậu man rợ. Trưng Trắc tự lập làm
vua, xưng là Trưng Nữ Vương. Quân Hán sang đánh và Bà Trưng đă kháng cự.
Cuộc kháng chiến chống quân nhà Hán và hai bà đều tử trận song hai bà
vẫn kịp trở thành biểu tượng, sừng sững một tượng đài kháng chiến chống
ngoại xăm phương Bắc làm nên niềm hảnh diện sâu thẫm trong ḷng từng
người dân Việt, trường tồn trong ḍng sinh mệnh dân tộc thành ngọn lửa
truyền thống chống ngoại xâm.
“Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân,
Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng
nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy h́nh thế đất Việt ta đủ
dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ
Ngô, trong khoảng hơn ngh́n năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi
tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn
bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ ḿnh vậy.” (Lê Văn Hưu)
“Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà
quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc
sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết c̣n có thể chống ngăn tai
hoạ. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc ǵ là
không linh ứng. Cả bà Trưng em cũng thế. V́ là đàn bà mà có đức hạnh kẻ
sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không v́ thân chết mà kém
đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực
chính đại ấy ư?”( Ngô sĩ Liên )
“Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi
nghĩa, làm chấn động cả triều đ́nh Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không
gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi ḷng người, lưu danh sử sách.
Ḱa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác,
chẳng những mặt dày thẹn chết lắm ru!” ( Vua Tự Đức)
Việc những người đàn ông thuộc hàng danh tài sử gia vua chúa đều khen và
học tấm gương của Bà Trưng cũng đă đủ để thấy những trang sử Việt này
đáng trân trọng dường nào và đáng để lấy làm biểu tượng cho nền văn hoá
Việt và xuất hiện chốn công đường. Trong đại sảnh, pḥng khách chốn công
đường như trước 1975 thường không thiếu bức tranh sơn mài truyền thống
cội nguồn dân tộc vẻ cảnh dân quân cùng hai bà Trưng cưỡi voi đi đánh
giặc.
Vậy nên phải đ̣i lại công bằng và trung thực. Hoàng cung Huế, Văn Miếu,
Dinh Độc Lập lẽ ra phải sinh tồn và tiếp nối lịch sử như điện Buckingham
ở Anh, chứ sao lại là di tích, hàm ư xoá bỏ một thời kỳ như thể có đối
kháng không có thể nào t́m ra khớp nối với lịch sử?
Tử cấm thành Trung Quốc ghi dấu 300 năm người Hán phải cạo nửa đầu cúi
mặt khấu lạy ngoại bang Măn Châu thống trị bằng bạo lực kinh hoàng nên
người Hán có lư do biến nơi đó thành di tích. Nhưng cần tách chủ nghĩa
đô hộ, phát xít, Cộng Sản chiến tranh ra khỏi những di chỉ văn hoá không
mang nội hàm đó. Văn hoá nghệ thuật văn chương có thể dùng phục vụ chính
trị và cũng có thể không có nội hàm chính trị nào. Những thứ không liên
quan đến chính trị như một kiến trúc dinh thự lâu đài, một bài nhạc, một
bài văn th́ không thể phá huỷ vất bỏ. Hiện nay, trong Dinh Độc Lập không
c̣n bóng dáng những bức tranh hoành tráng một thời. Tôi là một trong
đoàn sinh viên Dược Khoa dự buổi chiêu đăi của đệ nhất phu nhân VNCH
Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ tại pḥng Đại
Yến Dinh Độc Lập, và bức tranh lớn trong pḥng Đại Yến (nếu tôi nhớ
không lầm, và nếu không do VNCH có thể sử dụng nhiều bức tranh thay đổi)
là bức tranh Hai Bà Trưng đánh đuổi nhà Hán. Bức tranh này ở Dinh Độc
Lập nay không thấy đâu! Hiện nay thay bằng tranh phong cảnh không có
chút ư nghĩa nào. Như vậy mà nói xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân
tộc là dân tộc nào? Một điều chắc chắn nhất là không chốn công đường nào
ngày nay treo tranh cảnh dân quân cùng hai bà Trưng đánh giặc như công
sở VNCH thường treo trước 1975. Với truyền thống và hiểu rơ mưu đồ Trung
Quốc với miền Bắc, ông Dương Văn Minh dứt khoát từ chối lời đề nghị của
đại sứ Pháp Merillon trong biến cố 30.4.1975 là nhờ Trung Quốc áp lực để
Pháp thương lượng buộc CS miền Bắc tuân thủ hiệp định Paris.
Thứ hai là lá cờ VNCH cờ vàng ba sọc đỏ bằng gỗ trên tường ở pḥng Tŕnh
uỷ nhiệm thư trong Dinh Độc Lập . V́ sao phải bôi bỏ? Di tích lịch sử mà
thay đổi th́ c̣n ư nghĩa ǵ về lịch sử? Ta có thể nào viết lại lịch sử
VN mà bỏ đi thời VNCH không? Buồn thay, một lần nữa lá cờ đỏ sao vàng
lại xuất hiện trong phim Nữ
điệp báo nói về phong
trào Cộng Sản trước Mao Trạch Đông (dù thoáng qua hơn phim Vạn
lư trường chinh vài năm
trước đây) đang chiếu trên đài Truyền h́nh VN. Đề nghị, nếu từng v́ bất
cứ lư do ǵ nghiệt ngă đến độ phải copy lá cờ dấy binh CS của Trung Quốc
th́ ngành quân sử, sử học, hoạ sĩ VN lẽ nào tiếp tục yếu kém đến độ
không vẽ nổi một lá cờ riêng? CSVN không sợ bị mang tiếng nô lệ văn hoá
Tàu đến mất thể diện quốc gia vậy sao?
Thời VNCH có một cuộc thi rất hào hứng cho giới trẻ, đó là thi viết diễn
từ đọc trong Lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng hàng năm. Tôi đă tham dự và bị giải
nh́ do lời b́nh luận gây tranh luận trong giới chấm thi được cho là mới
mẻ nhưng táo bạo, khó chấp nhận đưa ra công luận đọc trước công chúng!
Hồi đó tôi viết: “Nếu nước Pháp tôn vinh Jeanne d’Arc là bậc thánh và
cho rằng: “Ḷng yêu nước xuất phát từ trái tim phụ nữ!” th́ với công
nghiệp Hai Bà Trưng vừa thắng quân nhà Hán vừa đưa Việt Nam ra khỏi thời
huyền sử mông muội, bước vào thời đại có lịch sử, người Việt có thể kết
luận là “Ḷng yêu nước và nền văn minh Việt Nam xuất phát từ trái tim và
khối óc của những những người phụ nữ!”. Đó là câu đánh giá đến nay ngẫm
lại cũng không sai tuy có vẻ nên thêm vào câu “với sự góp công sức và
trí tuệ toàn dân” cho tṛn ư.
Với Jeanne D’Arc của thế kỷ 15 (1412-1431) khi Pháp nỗ lực t́m bản sắc
của ḿnh sau các cuộc biến động chiến tranh chính trị làm đất nước tan
hoang ḷng người suy sụp, t́m kiếm một anh hùng chân chính, không có tai
tiếng th́ Jeanne d’Arc xuất thân từ một làng quê hẻo lánh, một cô thôn
nữ thất học nhưng đánh thắng quân Anh xâm chiếm mà thành xuất chúng khi
c̣n chưa quá tuổi thiếu niên đă đáp ứng được các tố chất đó và được
phong thánh. Việt Nam đă có anh hùng tài đức vẹn toàn là Hai Bà Trưng từ
thế kỷ thứ nhất là rất đáng tự hào!
Lịch sử Viêt Nam bắt đầu từ Hai Bà Trưng chứ không phải Vua Hùng. Mười
tám Vua Hùng là huyền sử nhuốm màu huyền thoại thần thánh kém tính khoa
học. Ông Nguyễn Tất Thành có lẽ không muốn biết sử lập quốc Việt Nam do
Hai bà Trưng viết những trang sử đầu và công bảo vệ đất nước chống Trung
Quốc vào thế kỷ thứ I, hay v́ sợ mà ngày nay chỉ nói đến vua Hùng? Nhưng
dân VN vốn thông minh và chống xâm lược pghương Bắc ăn sâu tiềm thức nên
nói đến các vua Hùng cũng chỉ nói nhiều đến Trọng Thuỷ-Mỵ Châu!
Nữ vương Lư Chiêu Hoàng cho
thấy Đại Việt xưa không phân biệt Nam nữ so với hoàng gia Nhật Bổn đến
nay 2009 c̣n không đồng thuận việc có nữ vương. Lư Chiêu Hoàng sinh năm
1218 lên ngôi lúc 7 tuổi 1224. Năm 1225 nhường ngôi cho Trần Cảnh và làm
hoàng hậu. Trần Cảnh và Lư Chiêu Hoàng lấy nhau 12 năm không con nên
Trần Cảnh bị ép lập hoàng hậu khác là cũng là chị gái đang có mang với
Trần Liễu. Trần Cảnh không đồng ư nhưng cũng bị ép lập Thuận Thiên làm
hoàng hậu.
Công chúa Mai Hoa là
con của vua Lê Anh Tông (1556-1573) và là chị gái của vua Lê Thế Tông
(1573-1599). Vua cha bị Trịnh Tùng đuổi bắt và giết chết, lúc 42 tuổi
(1573), vua Lê Thế Tông (1573-1599) là con lên ngôi. V́ vua em này lên
ngôi lúc 7 tuổi, nên chị là Mai Hoa được cử làm nhiếp chính. Là người có
nhiều thế lực nhưng công chúa Mai Hoa cũng nổi tiếng đức độ, thuỳ mị và
có ḷng bác ái. Công Chúa Mai Hoa là Mẹ bề trên của Tu viện Đức Mẹ Vô
Nhiễm đầu tiên tại Việt Nam. Công Chúa Mai Hoa c̣n được gọi là công chúa
Chiêm v́ là con bà phi người Chăm Pa, cũng gọi là “Công Chúa Chè” v́ có
công phát triển nghề trồng chè.
Ngược ḍng cổ sử thời nhà Lư tại vùng thượng du Bắc Việt nhiều nhóm thị
tộc Mán Mường và thiểu số khác chiếm cứ và sinh sống trên những vùng
miền có tính yết hầu chiến lược. Triều Lư có chính sách chiêu dụ và tạo
thêm vây cánh, thắt chặt t́nh thân thiện với các thị tộc này bằng cách
đem gả các công chúa cho các thủ lănh Châu mục. Vào Năm 1029 vua Lư Thái
Tông gả công chúa B́nh Dương cho châu mục Lạng Châu (Lạng Sơn) là Thân
Thiên Thái, 1036 Vua Lư Thái Tông lại gả công chúa Kim Thành cho châu
mục Phong Châu (Phú Thọ, Sơn Tây) là Lê Tông Thuận và gả công chúa
Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lăm. Năm 1082, Lư Nhân
Tông gả công chúa Khâm Thánh cho Châu mục Vị Long (Tuyên Quang) là Hà Di
Khánh, năm 1127 gả công chúa Diên B́nh cho thủ lănh phủ Phú Lương (Thái
Nguyên) là Dương Tự Minh, vào năm 1144 chính Dương Tự Minh lại cưới thêm
một công chúa Thiều Dung. Như vậy trong suốt triều đại nhà Lư đă có sáu
công chúa được gả cho các châu mục có họ Thân, Hà, Dương, Lê. Những họ
này là của người Mường, Mán -tức người Việt Nam trên miền cao, v́ lư do
ǵ đó sống tách biệt trên rừng hùng cứ một phương và có khả năng quân sự
triều đ́nh phải chiêu dụ. Châu mục là Tù trưởng một huyện miền núi.
Chính các Châu mục này đă ngăn chặn trấn thủ biên giới phía Bắc. Giáo sư
Phan Khoang ghi chú thêm như sau: “Việc này, sử ta đều không chép, có
lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp, nên giấu đi chăng?
Nhưng nếu họ quan điểm như vậy th́ không đúng. Hôn nhân chính trị, nhiều
nước đă dùng, c̣n ở nước ta th́ chính sách đă đem lại ích lợi quan
trọng. Đời nhà Lư thường đem công chúa gả cho các tù trưởng các bộ lạc
thượng du Bắc Việt, các bộ lạc ấy là những giống dân rất khó kiếm chế.
Nhờ đó mà các vùng ấy được yên ổn, dân thượng không xuống cướp phá dân
ta, triều đ́nh thu được thuế má, cống phẩm; đất đai ấy, nhân dân ấy lại
là một rào dậu kiên cố ở biên giới Hoa Việt để bảo vệ cho miền Trung
Châu và kinh đô Thăng Long...”.
Những ḍng trên có thể xem là phản biện cho một số quan điểm sử gia thời
trước, v́ sử thần Ngô Sĩ Liên từng bàn về cuộc hôn nhân của Công chúa
Huyền Trân như sau: “Ngày xưa Hán Cao hoàng v́ nước Hung-nô thường
quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho thiền
vu, kết hôn với người không phải giống ṇi, các tiên nho đă từng chê
(...).C̣n như Nhân Tôn đem con gái gả cho vua nước Chiêm-thành là nghĩa
ǵ ? Nói rằng nhân khi đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín, th́ sao
không làm việc đổi mệnh có được không ? Vua giữ ngôi trời mà thượng
hoàng đă xuất gia rồi, vua đổi mệnh th́ có khó ǵ, mà lại đem gả cho
người xa không phải giống ṇi cho đúng lời hẹn ước, rồi lại dùng mưu
gian trá cướp lại về sau, thế th́ tin ở đâu ?”.
Đầu năm Ất Dậu (1265), lúc đầu quân Nguyên Mông đánh tới Gia Lâm vây hăm
Thành Thăng Long, để giảm nhẹ cơn quốc nạn công chúa An
Tư được cống nạp cho Trấn
Nam Vương Thoát Hoan con Hốt Tất Liệt.
Sau đó Đại Việt phản công và thắng trận. Bên cạnh chiến thắng của Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn c̣n có sự hy sinh thầm lặng của Công Chúa An Tư
nhà Trần, em gái út của Trần Thánh Tông. Số phận vị công chúa này ra sao
không rơ. Có tài liệu nói công chúa theo Thoát Hoan về Tàu và có hai
người con.
Công chúa Huyền Trân:
Năm 1306, vua Chiêm là Chế Mân lấy công chúa Huyền Trân và đổi lấy hai
châu Ô Lư làm quà sính lễ. Tuy là dải đất lớn nhưng là vùng nắng bỏng
cháy da, đất cày lên sỏi đá, gió Lào rát mặt khô cằn và mùa mưa th́ hứng
băo nên đến nay cũng vẫn là vùng nghèo nhất. Đây không phải là vùng đất
làm giàu sinh lợi, cần nhận ra sự thật đó.
Công chúa Ngọc Vạn: Vị
vua mới lên ngôi của Chân Lạp là Chey Thettha II cho xây một cung điện
tại Oudong, ở đây ông làm lễ thành hôn với một công chúa con vua An Nam.
Triều đại Chey-Chetta II công nữ Ngọc Vạn, năm 1920 kết hôn với vua Chân
Lạp Chey-Chetta II lên ngôi năm 1623-1657. Sau hai lần giúp vua Chân Lạp
đánh quân Xiêm, Đại Việt được tặng vùng đất nay là Biên Hoà Sài G̣n. Bà
hoàng hậu rất xinh đẹp và có nhiều đức tính được vua Cao Miên cưng quư
vô cùng. Bà đă góp nhiều ư kiến hữu ích vào công việc trị nước của vua
Chey Chettha II. Tước hiệu đầy đủ là Somdach Prea Preaccac Vodey Prea
Voreac Khsattey. Nhờ ảnh hưởng của hoàng hậu mà vua Cao Miên không phản
đối khi bà xin cho nhiều người Việt Nam vào giữ những chức vụ quan trọng
trong triều đ́nh Cao Miên cũng như cho nhiều người Việt Nam lập hăng
xưởng và buôn bán gần kinh đô.
Từ năm 1628 đến 1642, quyền lực tại triều đình Oudong nằm trong
tay Hoàng thân Outey, người Việt Nam đến lập nghiệp ở các vùng Gia
Định, Bà Rịa, Biên Hoà ngày càng đông. Đất rộng người thưa và người Miên
không muốn sống chung với người khác văn hoá nên hễ người Việt đến Người
Miên v́ không muốn sống chung với người khác văn hoá và mạnh hơn nên hễ
người Việt đến sống gần họ th́ họ bán đất lánh đi nơi khác. Khi Chey
Chatta mất, vùng đất từ Prey Kôr trở ra bắc đến biên giới Chiêm Thành
tức là Sài G̣n, Bà Rịa, Biên Hoà ngày nay, đă có nhiều người Việt đến ở
và khai thác đất đai.
Vào năm 1631 Công chúa Ngọc
Khoa lấy vua Chăm Pa Po
Romé, một trong những vị vua được người Chăm hoá thần.
Trong bài ca Chiêm Thành Ni Danak Po Romé có câu: “Vua Po Romé có ba
vợ: hai người giống da sậm và một người Việt Nam, cả ba người đều ghen
nhau, căi vă ồn ào trong cung điện nhà vua”. Theo truyền thuyết
Chiêm Thành, bà Ngọc Khoa hay Bia Ut đă dùng sắc đẹp mê hoặc Pô Ro mê,
khiến ông chặt bỏ cây “kraik”, biểu tượng thiêng liêng của vương quốc
Chiêm Thành, v́ vậy sau đó vương quốc nầy sụp đổ.
Theo gia phả chúa Nguyễn th́ năm 1651 triều đ́nh Chăm Pa nội loạn giết
chết Vua và một Hoàng Hậu. Chúa Nguyễn phải đưa quân trấn áp. Riêng Công
Chúa Ngọc Khoa, đối chiếu nhiều sử liệu th́ có thể bà bị nhóm phản loạn
hành h́nh vu khống có âm mưu gây hại cho Chăm Pa.
Theo tài liệu Chăm Pa, “năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn bị lực
lượng quân sự của ḿnh để tuyên chiến với chúa Nguyễn, thu phục lại khu
vực Phú Yên bị rơi vào tay của Nguyễn vào năm 1611. Trước t́nh thế này,
chúa Nguyễn đă gởi một đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến
đến sông Phan Rang, bắt được vua Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi
trong rọ bằng sắt để đưa về Huế. Không chịu để cho nhà Nguyễn đối xử
khinh bạc, Po Nraop tự huỷ ḿnh để nêu cao tinh thần bất khuất”.
Cách đối xử với vua Chăm Pa như thế là khinh bạc như thời đất trời con
người c̣n mông muội. Thật ra sự khinh bạc với Vua tù binh này có lư do
đặc biệt, nếu thật sự Công chúa Ngọc Khoa bị nhục h́nh bức tử của kẻ
cướp ngôi phản loạn Po Nraop đă giết chết Vua và một bà hoàng hậu người
Êđê sau đó giết công chúa Ngọc Khoa. Nếu thật sự có âm mưu, Công chúa
Ngọc Khoa đă lấy vua Po Romé từ năm 1631. Vua Po Romé chết năm 1651,
không có việc phải chờ đến 20 năm sau, rồi sau khi chồng bà chết 2 năm
Chúa Nguyễn mới tiến đánh Chăm Pa khi Chăm Pa đă lọt vào tay vua phản
loạn Po Nraop. Thời công chúa Ngọc Khoa hai nước không có chiến tranh
không dính dáng ǵ về việc Chăm Pa tự ư hay bị buộc nhượng đất đai chuộc
mạng 20 năm trước 1611.
Lịch sử cho thấy hai năm sau vua cướp ngôi, lấy cớ đ̣i lại đất đai có
thể Po Nraop đă giết và triều đ́nh Chăm Pa Po Nraop vu khống cho Công
chúa Ngọc Khoa để che giấu tội phản loạn. Po Nraop chủ động chuẩn bị tấn
công Phú Yên Đại Việt năm 1653 nên chúa Nguyễn mới đem quân tấn công,
bắt bỏ rọ là hành động không thích hợp với tù binh là một vị vua nhưng
có thể hiểu ḷng người cha xót con, ḷng các quân tướng người Việt xót
thương vị công nương nước Việt bị bức tử nhục h́nh! Đối chiếu với trường
hợp trước kia, công chúa Chiêm là Mai Hoa có mẹ người Chăm Pa được giáo
dục theo người Việt và đă làm đến chức vị Nhiếp chính vương. Điều này
cho thấy tŕnh độ văn hoá và tính nhân văn của Đại Việt quả là có khoảng
cách h́nh thành lối tư duy khác xa nhau hành xử khác nhau.
Nhà truyền giáo Jésuite Joseph Tissanier, theo như Nguyễn Đố dẫn lời, có
thể viết sai v́ ông không phải sử gia cũng có thể không biết rơ, nhưng
Nguyễn Đố nhất thiết phải biết và đính chính nếu có ḷng trong thực. Nếu
biết mà c̣n dựa trên sai lầm tán rộng thành hiềm khích là bôi lọ người
khác.
Tôi hoàn toàn thông cảm nỗi niềm thương tiếc của người Chăm Pa nh́n lại
giai đoạn lịch sử đất nước luôn bị chiến tranh dồn ép bởi v́ Đại Việt
cũng là một nạn nhân của Trung Hoa bị xâm chiếm nhưng cũng thật bàng
hoàng khó chấp nhận việc bóp méo lịch sử chỉ để thoá mạ gây ra hiểu lầm
nguy hại. Cần hiểu về các vị công nương Việt Nam từng góp sức kiến tạo
hoà b́nh và vào thời đất rộng người thưa nhiều hoang địa, đă mang về cho
Việt Nam những vùng đất hoang để khai khẩn lập nghiệp sinh sống trong
hoà b́nh để tôn vinh những người phụ nữ có công với đất nước và kiến tạo
hoà b́nh khu vực.
Không nên trách Vua nước Việt v́ các cuộc hôn nhân chính trị đều mang
nhiều nguy cơ trở thành nạn nhân của các tranh chấp luôn luôn xảy ra
trong chế độ quân chủ. Đại Việt xưa có thể viện dẫn nhiều lư do không
thật để bảo đảm an toàn cho các công nương bị rơi vào thế không c̣n ai
bảo vệ. Theo lịch sử th́ công chúa Huyền Trân sau đó vào chùa tu hành
làm sư nữ chứ không có cuộc sống nào khác đang chê trách! Có thể do việc
Công chúa Huyền Trân về Đại Việt gây bất b́nh nên đến khi vua Po Romé
chết Chúa Nguyễn không đưa Công Chúa Ngọc Khoa về nước và số phận bi
thảm đă đổ lên đời nàng Công chúa Việt Nam.
Cần hiểu ra sao, v́ sao một người ít nhiều mang tính chuyên gia lại có
cách viết quá sai, gán cho vua Chăm phản loạn tự tử Po Nraop thành Po
Romé là chồng Công Chúa Ngọc Khoa để từ đó ám chỉ xa gần đến gán tội
giết chồng và đặt cả dấu hỏi lên công chúa Huyền Trân về cái chết của
Chế Mân dù sính lễ chỉ là vùng đất cày lên sỏi đá miền Trung đến nay vẫn
nghèo và khó sống. Dominique Nguyen, tức là Nguyễn Đố, dân tộc Chăm gốc
làng Minh Mỳ, B́nh Thuận, cựu sinh viên Sorbonne (Paris), cộng tác viên
thuộc Trung Tâm Lịch Sử và Nền Văn Minh Bán Đảo Đông Dương. Dominique
Nguyen, viết đăng trên tạp chí Champaka như
sau: “Sau ngày kết hôn với vua Po Romé, bà ta đă tiếp tay với vua cha
ở Phú Xuân hầu cung cấp tin tức liên quan đến chiến lược quân sự của
chồng ḿnh. Nhờ tin này, Chúa Nguyễn xua quân chinh phạt Champa bắt được
vua Po Romé và nhốt trong rọ sắt. V́ quá hổ thẹn, Po Romé quyết định
chấm dứt cuộc đời của ḿnh bằng cách tự tử mà một người truyền giáo tây
phương Jésuite Joseph Tissanier đă kể lại.
Sau ngày chết của Po Romé, hoàng cung Champa đưa Bia Ut (Ngọc Khoa) ra
pháp lư và kết tội tử h́nh v́ tội phản bội tổ quốc bằng cách đạp đầu bà
ta vào bùn lầy cho đến khi tắt thở. Sau đó, cung đ́nh Champa ra lệnh tạc
tượng bà ta với tư thế đầu chúi xuống đất để hậu thế không quên vụ án
này. Theo Nghiêm Thẩm, tượng Bia Ut vẫn c̣n vào năm 1960 toạ lạc ở cánh
đồng Hamu Biuh (Phan Rang) cách đền Po Romé vào khoảng 8 cây số. Bia Ut,
tức là Ngọc Khoa, con của Chúa Săi Vương bị hoàng cung Champa lên án tử
h́nh v́ tội làm gián điệp.
Có chăng Huyền Trân cũng mang thân phận như công chúa Ngọc Khoa, tức là
bị Champa lên án v́ đă nhận sứ mệnh của triều đ́nh Đại Việt nhằm ám hại
Chế Mân để rồi vua Trân Anh Tôn phải t́m mưu kế đưa Huyền Trân về Thăng
Long. Đây chỉ là giả thuyết của chúng tôi mà thôi...” (Dominique
Nguyen, “700
năm cuộc t́nh Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa : 1306-2006”, Champaka,
06/06/2007)
Người Chăm Pa giải thích là chỉ có các vị hoàng hậu người Chăm Pa mới
được phép lên dàn thiêu với chồng và là sự tự nguyện nên trách việc Vua
nước Đại Việt đem công chúa Huyền Trân về lại Việt Nam với lư do là sợ
phải lên dàn thiêu sau khi Chế Mân chết. Cho nên thời vua Po Romé bà
hoàng hậu người Chăm lại không lên dàn hoả, không được thờ với vua Po
Romé mà Vua Poromé được thờ cùng người vợ sắc tộc Êđê th́ chắc hẳn bà
hoàng Êđê này bị vua phản loạn cướp ngôi Po Nraop giết chứ không có thể
là tự nguyện lên dàn thiêu v́ trái với luật hoàng gia Chăm Pa, đúng như
tư liệu c̣n lại ở Việt Nam. Ông vua cướp ngôi giết vua và hai hoàng hậu
xứng đáng vào rọ sát v́ là tử tội của hoàng gia, chứ không phải tư cách
vua thất trận.
Các nhà sử học ăn lương nhà nước Việt Nam của chế độ hiện nay nghĩ thế
nào về những nghi án lịch sử như thế?
*
Việt Nam chia cắt Bắc Nam cả một thế hệ (20-25 năm có thể xem là một thế
hệ VN), và miền Bắc trong nền lịch sử chính trị chủ trương chiến tranh
bức tử truyền thống chứ không phải là một qua tŕnh xem xét chọn lựa.
Nhiều phụ nữ miền Bắc lớn tuổi c̣n lưu giữ phần nào truyền thống gia
đ́nh trước 1945. Phụ nữ mang danh cách mạng giai cấp có sự đột biến
thành dị thường, hảnh tiến, tự tin mù quáng, tự hào lầm lạc qua h́nh ảnh
các nữ quan toà không biết chữ, thản nhiên chứng kiến giết người để chờ
được chia “quả thực“ là giường tủ bàn ghế chén nồi trong CCRĐ. Những phụ
nữ này rất khác với tính cách người phụ nữ thường dân Nam bộ và cũng
khác phụ nữ miền Nam có danh phận mà điển h́nh là Nam Phương hoàng hậu
khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan và bà Nguyễn Thị Mai Anh phu nhân Tổng
thống Thiệu, hai vị một là hoàng hậu và một là đệ nhất phu nhân đều trí
tuệ khiêm cung nhân hậu. Riêng bà Ngô Đ́nh Nhu là người phụ nữ thông
minh Tây học dám phá lệ, mang tính cách tự tin của phụ nữ Châu Âu hiện
đại, át quyền nam giới không e dè, thành thiếu cẩn trọng giữa xă hội c̣n
nặng nam quyền và trong chính trường miền Nam phức tạp luôn bị bóp méo.
Bà Nhu bị ghét nhưng khó thể bị chê nếu quy chiếu với tiêu chí của những
người phụ nữ hiện đại, dù chưa sánh bằng nhưng giống tính cách tự tin
dấn thân vào chính trường của một Hillary Clinton! Thời gian chứng minh
những ǵ mà chính trị gia báo chí miền Nam và phong trào phản chiến
trong ngoài nước trước 1975 nói về bà mới là thiển cận và nhiều việc là
vu khống.
Ngày nay khi người dân miền Bắc có khuynh hướng t́m về truyền thống xưa
nhưng gắn kết vào khớp nối lịch sử văn hoá xa xưa c̣n thấm đẫm sắc màu
dị đoan hủ tục chứ không phải là tính hiện đại của thế kỷ công dân trong
khoa học và luật pháp nên cũng không có tác dụng tích cực qua các lễ hội
màu mè loè loẹt đồng bóng. Tuy nhiên việc hiện nay có quan tâm bảo tồn
khôi phục trùng tu đền các danh nhân là việc làm đáng hoan nghênh, ví
như đền Hai Bà Trưng ở tương truyền có từ thế kỷ XII [1].
Việt Nam mơ ước tiếp cận văn minh qua phong trào Đông Du và Tây học. May
mắn thay sau 1955-1975 đă từ quân chủ chuyển sang dân chủ là chế độ
VNCH. Mỹ giúp nhẹ nhàng gỡ tay đô hộ Pháp không tốn một chút máu xương.
Ông hoàng Bảo Đại với tầm cao tri thức và cùng hoàng gia giàu ḷng yêu
nước đă giúp Việt Nam một bước chuyển biến rơ nét.
Nhiều người nhận ra vai tṛ khá lớn của phụ nữ trong gia đ́nh Việt Nam
hiện tại đă nói đùa: “Ở Việt Nam c̣n chế độ mẫu hệ ngoại trừ việc con
không theo họ mẹ!”. [2] Thật ra phụ nữ miền Nam đă từng ít bị phong kiến
hủ tục bủa vây so với miền Bắc miền Trung là thủ đô của chế độ phong
kiến và so với Trung Quốc mà thôi. Ở VN đến nay tuy không bạc đăi con
gái song không muốn gia đ́nh thiếu con trai. Con trai vẫn được hưởng gia
tài nhiều hơn và có trách nhiệm thờ tự trong gia đ́nh.
Chính bạo lực chiến tranh h́nh thành chế độ phong kiến mà tâm lư phụ nữ
không tương thích nên bị đẩy xuống hàng thứ yếu mở ra lối sống trọng nam
khinh nữ. Nhưng không có nước nào mà phụ nữ luôn có vai tṛ trong chiến
tranh như suốt dọc dài lịch sử đất nước Việt Nam.
Trần Thị Hồng Sương
16.10.2009
© Thông Luận 2009
[1] Nhân vớt được tượng Hai Bà, vua Lư Anh Tông cho lập đền thờ Hai Bà ở
băi Đồng Nhân, trên bờ sông Hồng, khi đó thuộc phường Bố Cái.
[2] So sánh với một câu nhận định tinh tế hơn câu nói đùa nhuốm mùi cay
đắng về thang ưu tiên trong xă hội Mỹ: “Thứ nhất trẻ con, thứ hai người
già thứ ba phụ nữ thứ tư chó mèo, thứ năm đàn ông!” |
|