|
Áo Dài Việt
Nam
Trần Thị Lai Hồng
“Có t́m hiểu dĩ văng của chính ḿnh th́ mới quư nó được, và
có quư trọng dĩ văng th́ mới t́m được hướng đi cho tương lai”. Đó là lời của cố
học giả Nguyễn Hiến Lê mà người viết bài này muốn gửi đến các bạn trẻ và nhưng
ai quan tâm đến việc bảo vệ kho tàng văn hóa dân tộc.
Khi t́m đọc Văn học sử Việt Nam, chiếc áo dài quả đă ghi lại rất nhiều nét đan
thanh không những qua ca dao tục ngữ mà c̣n qua điêu khắc, hội họa, kịch nghệ,
văn chương và âm nhạc.
Ngược ḍng thời gian t́m về nguồn cội, chiếc áo dài Việt Nam đầu tiên với hai tà
áo thướt tha bay lượn đă được tiền nhân ghi khắc trên cổ vật, như trống đồng
Ngọc Lũ, Ḥa B́nh, Hoàng Hạ... từ trên ba ngàn năm trước.
bấm vào đây xem Nghệ Thuật Sắc Lụa của Trần Thị Laihồng
Áo dài Việt Nam quả đă có một quá tŕnh đi sát với lịch sử dân tộc để lắm phen
khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. Trải qua cả mười thế kỷ bị Trung Hoa đô hộ -
một Trung Hoa vĩ đại về mọi phương diện - rồi ngót một thế kỷ dưới ách thống trị
của Pháp - quốc gia đứng hàng đầu về thời trang quốc tế - tà áo dài Việt Nam vẫn
uyển chuyển tung bay, biểu dương tinh thần bất khuất, đặc tính thích nghi với
hoàn cảnh, và khiếu thẩm mỹ của người Việt.
Dưới thời kỳ bị Trung Hoa đô hộ, dân ta đă bao phen bị người Tàu ra lệnh đồng
hóa: Đàn ông phải dóc tóc bím đuôi sam, đàn bà phải cắt tóc ngắn và mặc quần
thay v́ mặc váy, mọi người đều phải để răng trắng không được nhuộm... Nhưng
những cổ vật tiền nhân để lại cho thấy người Việt xưa vẫn búi tóc, vẫn mặc áo
dài và váy.
Chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lănh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc th́
hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ
đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn
quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn,
đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày.
V́ phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lănh được thu gọn lại
thành kiểu áo tứ thân với váy xắn quai cồng để tiện việc gồng gánh, nhưng vẫn
không làm giảm nét đẹp của người nữ.
Vẻ yêu kiều, nét duyên dáng, nết đoan trang của phụ nữ thời áo tứ thân được mô
tả rơ rệt qua bài ca dao Mười Thương:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thương quai tua dịu dàng
Bẩy thương nết ở đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một ḿnh
Mười thương con mắt hữu t́nh với ai?
Ngoài đồng ruộng hay trong những buổi chợ, chiếc áo tứ thân có mầu nâu non, nâu
già hoặc đen, mặc với váy vải thô nhuộm bùn, nhưng trong những dịp hội hè đ́nh
đám cưới hỏi, áo được may bằng hàng the, nhiễu, thao, lụa, khoác bên ngoài chiếc
yếm đỏ thắm hay hồng đào và phủ lên chiếc váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có
thắt lưng mầu lá mạ hay mầu cánh chả bay lượn trong gió. Các bà các cô vấn tóc
trong khăn nhung hoặc vấn trần có một lọn để đuôi gà làm duyên, đội nón thương
quai thao, lưng đeo bộ xà tích bằng bạc, tay đeo ṿng hay xuyến, cổ đeo chuỗi
hạt vàng, chân mang giày dừa, dép cong.
Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm
y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ c̣n xuất hiện trong cung điện hoặc trong
những nhà quyền quư. Đến thế kỷ thứ ba sau Tây lịch th́ đàn bà Trung Hoa bỏ váy
để mặc quần, khi chiếc quần xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ
Ba Tư rồi vào đất Tàu. Phụ nữ Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Vơ Vương
nhà Thanh năm 1774, mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó,
truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đă ghi
trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc
lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống
từ xưa đến nay đă có tục cũ...”
Tuy nhiên, thời trang Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành
chế biến kiểu áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng hơn.
Áo ngũ thân cũng cắt may giống như áo tứ thân nhưng vạt trước là một vạt lớn như
vạt sau, c̣n vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân nay trở thành vạt con. Áo ngũ
thân che kín thân h́nh không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng
trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước là thân thứ năm tượng
trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép
kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo quan niệm Nho giáo:
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áo ngũ thân không những tôn vinh giá trị cao quư của
người nữ trong gia đ́nh cũng như xă hội, mà c̣n gói ghém nhân sinh quan của dân
tộc: Con người nhờ cha sinh mẹ dưỡng, khi thành thân có cha mẹ người bạn đời
cùng che chở bao bọc là tứ thân phụ mẫu, luôn tôn trọng đạo làm người và giữ
ḷng nhân ái, ăn ở có nhân nghĩa trên kính dưới nhường, biết nơi trọng chỗ khinh,
biết suy luận tính toán và giữ vững niềm tin nơi người.
Áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là Quốc phục của phái
nam.
Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu
đen, trắng, hoặc lam thẫm.
Một kiểu thời trang mới đưa ra bao giờ cũng xuất phát từ thành thị và phải mất
cả chục năm - nếu không bị đào thải - mới được phổ biến sâu rộng về thôn quê. Do
đó, có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long
(1802-1819) nhà Nguyễn Phúc. Sở dĩ có sự ước đoán này, v́ mặc áo dài th́ phải
mặc quần chớ không thể mặc váy. Và 163 năm sau khi vua Lê Huyền Tông bắt đàn bà
mặc váy, th́ vào năm Minh Mạng thứ 9 tức là năm 1828, triều đ́nh Huế ra chiếu
chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần. Hồi ấy dân gian có câu ca dao than
văn:
Chiếu Vua mồng sáu tháng ba
Cấm quần không đáy, người ta hăi hùng!
Không đi th́ chợ không đông
Mà đi th́... lột quần chồng sao đang!
Có quần ra đứng bán hàng
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan!
Trước sự than văn và chống đối của giới nữ, phe đàn ông con trai an ủi vỗ về:
Trúc xinh trúc mọc ngoài sân
Em xinh th́ váy hay quần vẫn xinh!
Từ chiếc áo ngũ thân, vạt con nấp sau vạt trước được cắt ngắn bớt cho gọn, và đó
là h́nh dáng chiếc áo dài Việt Nam, c̣n giữ lại cho đến bây giờ.
Thời đó, các bà các cô giới thượng lưu hoặc nhà giàu, có những cách phô trương
áo quần như mặc áo mớ ba mớ bảy tức là nhiều lớp áo mặc chồng lên nhau, nhất là
về mùa Đông. Mùa hè, họ mặc áo the mỏng phủ ngoài áo dài trắng bên trong. Các
kiểu trang sức th́ đeo chuỗi hạt trai, hạt ngọc, hạt cườm, hoa tai, ṿng, xuyến,
nhẫn... Tóc vẫn c̣n để dài. Khi trẻ th́ xơa rồi cặp rồi búi sau gáy hoặc vấn
khăn nhung, trời lạnh th́ trùm khăn nhung khăn nỉ.
Từ đôi guốc gỗ thô sơ, các bà các cô có những đôi hài nhung thêu cườm hoặc chỉ
ngũ sắc, hoặc những đôi dép da bóng.
Tuy nhiên, quá tŕnh chiếc áo dài chưa chịu ngưng ở kiểu áo ngũ thân. Nhật nhật
tân, hựu nhật tân, nhất là trang phục.
Sau Đông phương, áo dài Việt Nam một lần nữa chịu ảnh hưởng Tây phương, bởi thời
trang cũng đi liền với lịch sử. Nhưng cũng một lần nữa, tinh thần bất khuất của
dân tộc Việt lại được biểu lộ qua chiếc áo dài.
Việt Nam thoát ách đô hộ của người Tàu không bao lâu th́ lại rơi vào tay người
Pháp. Khi văn hóa Lang-sa tràn vào nước ta th́ chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nôm và
Hán, và cách ăn lối ở của ta cũng lần lần thay đổi và cố nhiên áo quần cũng chịu
ảnh hưởng.
Một nhân vật có tên là Cát Tường -có người cho biết đó là một họa sĩ tên là
Nguyễn Cát Tường- tung ra kiểu áo dài mới mệnh danh áo Lemur. Chữ Lemur viết
trại theo danh từ Pháp le mur có nghĩa là cái tường viết trại tên họa sĩ Cát
Tường.
Áo Lemur ra đời vào năm 1930 lúc nhóm Tự Lực Văn Đoàn cổ xúy cải cách xă hội, và
được cổ động mạnh mẽ trên báo Phong Hóa, gây chấn động tại các đô thị, nhất là
tại Hà Nội, nơi từng được mệnh danh là đất ngàn năm văn vật.
Áo Lemur cắt may hoàn toàn theo lối Tây phương nối vai ráp tay phồng, cổ bồng,
cổ lá sen, cổ nhún tai bèo hoặc táo bạo hơn được khoét rộng để hở cổ. Vạt áo
không nối sống nữa v́ hàng vải mới sản xuất hoặc nhập cảng từ Pháp có khổ rộng
hơn hàng nội hóa thời đó, nhưng vẫn giữ nguyên hai tà dài với gấu áo viền tṛn
nên tà áo không được mềm mại, được các cô tân thời dùng khăn ”san” bằng ”voan”
mỏng quấn lơi quanh cổ để níu kéo nét dịu dàng yểu điệu. Áo mặc với quần dài
trắng, chân mang giày cao gót, vai đeo bóp đầm, che dù tránh nắng. Phụ nữ thời
đại cải cách này không nhuộm răng đen nữa mà để trắng, tóc vấn trần hoặc búi
lỏng, rẽ ngôi lệch.
Hồi đó, ngay tại thủ đô Huế nơi có triều đ́nh Việt Nam và Ṭa Khâm Sứ Pháp, một
số các cô tân thời a dua mặc ”mốt” Lemur, và dân Huế có bài vè như sau:
Vè vẻ vè ve
Nghe vè ”mốt” áo
Bận áo lơ-muya
Đi giày cao gót
Xách bóp-tờ-phơi
Che dù cánh dơi
Đi chơi Cụ Ngáo
Ăn cháo không tiền
Cổi liền lơ-muya!
Tại Hà Nội, cây bút châm biếm thời đại Tú Mỡ cũng có bài nhại Mười Thương về áo
tân thời như sau:
Một thương tóc lệch đường ngôi
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn ”san”
Ba thương hôm sớm điểm trang
Bốn thương răng mọc hai hàng trắng phau
Năm thương lược Huế cài đầu
Sáu thương ô lụa ngả màu thanh thiên
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền
Tám thương động tư ”nữ quyền” giở ra
Chín thương cô vẫn ở nhà
Mười thương... thôi để ḿnh ta thương ḿnh!
Tại Sài G̣n vào năm 1934, trong truyện dài bằng thơ Lời Tâm Sự của Thuần Phong
đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài thơ giễu nhẹ các cô tân thời:
Một yêu mặt trắng má tṛn
Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa Năm yêu mảnh áo ngắn tà
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu, yêu cả đức tài h́nh dong!
Những h́nh ảnh lố lăng quá trớn của một số phụ nữ chạy đua theo thời trang và
kiểu áo Lemur mới mẻ đă được Vũ Trọng Phụng mô tả tỉ mỉ trong tác phẩm trào lộng
thời đại Số Đỏ. Một số các bà thủ cựu đă không ngần ngại tẩy chay kiểu áo quá
tân thời này, thậm chí có bà đă xé toang vạt áo Lemur khi gặp một cô ăn mặc táo
bạo trên đường phố Hà Nội.
Bốn năm sau khi áo Lemur xuất hiện và chết yểu, vào năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đă
cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung ḥa với kiểu
áo ngũ thân cũ, không nối vai nối tay, không tay phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt
dài không viền tṛn nhưng ôm sát thân người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn.
Chiếc áo dài canh tân này được hoan nghênh nhiệt liệt trong Hội Chợ Nữ Công Đà
Nẵng năm 1934 với gian hàng phụ nữ có các bà các cô đứng bán mứt bánh và đồ thêu
đan, đoan trang hiền thục dịu dàng với áo mầu quần trắng tóc búi lỏng hoặc vấn
trần hay vấn khăn nhung. Tới đây, chiếc áo dài dung ḥa được mới với cũ để tôn
vinh những nét đẹp của người nữ và t́m được nhân dáng chính xác, để đứng vững từ
đó cho đến bây giờ.
Suốt cả ba thập niên sau đó, chiếc áo dài không có nhiều thay đổi lớn ngoại trừ
cổ áo khi cao lúc thấp, khi vuông lúc tṛn, khi kín lúc hở; chiều dài cũng lên
xuống khi mini lúc maxi; gấu áo cũng khi lớn lúc nhỏ; ṿng eo có khi rộng lúc
thắt chặt. Chiếc quần cũng thay đổi từ kiểu cẳng què qua đáy giữa, lưng từ to
bản luồn giải rút đổi sang lưng nhỏ luồn dây thun rồi đổi gài nút, và sau cùng
là khóa kéo kiểu Tây phương; trong khi ống quần cũng theo thời khi chân voi lúc
ống túm.
Cho đến cuối thập niên 50, áo dài Việt Nam theo ḍng lịch sử thay đổi từ chế độ
Quân chủ sang chế độ Cộng Ḥa với một nhân vật nữ: Bà Ngô Đ́nh Nhu nhũ danh Trần
Lệ Xuân, phu nhân bào đệ cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958,
trong dịp khai mạc Triển Lăm Nữ Công tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Ḥa B́nh ở Sài
G̣n, bà Nhu xuất hiện với kiểu áo dài không cổ tay ngắn mang bao tay trắng, tóc
bới cao. Một số các bà các cô trong Hội Phụ Nữ Liên Đới vội vàng may mặc theo
kiểu mới hở cổ: Cổ thuyền, cổ vuông, cổ tṛn, cổ trái tim...
Nhưng bà Nhu lộng quyền thao túng nền Đệ Nhất Cộng Ḥa và gây bất măn khắp nơi.
Nhiều vụ xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu đă xẩy ra để bầy tỏ chống đối. Chiếc
áo dài cũng tham gia cuộc chống đối nhưng thầm lặng hơn, với kiểu áo dài cổ cao
tận cằm đối lập kiểu áo không cổ. Sau đó, áo không cổ của bà Nhu cũng theo bà
qua Tây nấp trong bóng tối mà mai một.
Đầu thập niên 60, nhà may Dung Dakao ở Sài G̣n tung một kiểu mới: Áo dài tay
Raglan mặc với quần xéo ống rộng. Kiểu áo cập nhật này giúp xóa bớt những đường
nhăn hai bên nách và vai v́ được ráp tay xéo vai, nên thân h́nh người nữ được ôm
gọn trong hàng lụa một cách đầy thẩm mỹ.
Thuở đó, giới nữ sinh thích mặc ngắn gọn nên có kiểu mini-raglan tay ngắn vạt
nhỏ và tà áo chỉ dài tới gối, trong khi các bà thích kiểu maxi-raglan tha thướt
nhu ḿ hơn. Chiếc quần xéo may bằng hàng mềm xếp xéo góc khi cắt, ôm sát hông
nhưng hai ống ḷa x̣a mà mỗi bước đi thấp thoáng thấy mũi giầy ẩn hiện dưới sóng
lụa. Nhiều người c̣n cầu kỳ hơn, may quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật
yểu điệu.
Sau đó, một vài nhà may ở Sài G̣n tung kiểu áo ba tà gồm thân sau nguyên một vạt
nhưng thân trước chia làm hai như kiểu áo tứ thân xưa, gài nút từ cổ xuống ngực
rồi tới bụng th́ để thả mặc với quần tây kiểu chân voi để cập nhật với thời
trang Âu Mỹ đang có kiểu quần ”bell bottom”.
Cuối thập niên 60, nhiều bà đưa ra một ”mốt” hay hay là mặc nguyên một bộ áo dài
và quần mầu phấn tiên, may bằng tơ lụa nội hóa trông rất dịu dàng khả ái. Một số
ca sĩ lên sân khấu lại mặc nguyên bộ mầu sắc đỏ chói hay xanh ngắt viền kim
tuyến sặc sỡ.
Từ kiểu Raglan có nhiều kiểu biến chế lạ mắt: Thân áo may bằng hàng dày, nhưng
phía ngực và tay ráp bằng hàng ren hoặc hàng mỏng; hoặc thân áo khác mầu với hai
tay, có khi là hai mầu tương phản như đen trắng, hoặc đậm nhạt, và có khi may
bằng hàng rất mỏng nên phải dùng hai hoặc ba lớp, ư hẳn nhắc nhở đến ngày xưa
các cụ mặc áo mớ ba mớ bảy để phô trương sự giàu có của ḿnh.
Nữ sinh Việt Nam trước 75 đến trường đều thường là ”áo trắng học tṛ”, nhưng thứ
hai chào cờ phải mặc đồng phục: Áo trắng nữ sinh Đồng Khánh Huế, áo lam Hà Nội,
áo xanh da trời Trưng Vương, áo hồng Gia Long... những mầu áo thơ mộng đă một
thời lên hương qua thơ nhạc.
Một điều ghi nhận là sau khi không c̣n thể chế quân chủ, kể từ thời Đệ nhất Cộng
ḥa (tháng 7-1954), hầu hết các cô dâu đều mặc quốc phục áo dài có khoác ngoài
một áo thụng rộng may theo kiểu áo mệnh phụ hoặc áo hoàng hậu, và đội khăn vành
xanh hoặc vàng. Ư hẳn đó là ngày nàng trở thành một bậc mệnh phụ và bước lên
ngôi hoàng hậu trong cuộc đời của chàng vậy.
Từ cuối thập niên 60, nhà may Thanh Khánh ở Dakao đưa ra những mẫu hàng thêu hoa
lá cành để may áo dài, và tiệm Saigon Souvenirs khu Thương xá Tax Sài G̣n đưa ra
những mẫu hàng vừa vẽ vừa thêu trên lụa rất quư phái lịch sự. Ba nhà may nổi
tiếng tại Sài G̣n trước 75 là nhà may Thanh Khánh - nay mở tại Paris, Pháp - nhà
may Dung Dakao và nhà may Thiết Lập Pasteur - nay mở tại đường Brookhurst,
Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
Như trên đă nói, chiếc áo dài Việt Nam có số phận gắn liền với lịch sử dân tộc.
Khi Cộng sản xâm chiếm miền Nam vào cuối tháng Tư, 1975, chiếc áo dài cũng theo
những bước chân di tản lưu vong ra ngoại quốc, trong khi chính sách đàn áp và
nền kinh tế kiệt quệ trong nước đă đẩy lui chiếc áo dài vào bóng tối hoặc chôn
kín trong đáy tủ và chỉ được đưa ra ánh sáng trong dịp cưới hỏi lễ lạc.
Trên bước đường lưu vong, bất cứ ở Mỹ, Phi, Âu, hay Á, chiếc áo dài được nâng
niu bảo trọng hơn bao giờ. Ở đâu có người Việt tỵ nạn là ở đó có áo dài, áo lụa,
áo nhung, áo tơ, áo gấm, áo vải, áo thêu, áo vẽ... kể cá áo gấm lam, áo thụng
khăn đóng của quư vị tu mi nam tử. Phẩm chất, mầu sắc cũng như những h́nh tượng
trên áo được ḥa hợp với tŕnh độ thẩm mỹ khá cao.
Trong số những nhà sáng chế kiểu áo, phải kể đến Thành Lễ Hoàng Đ́nh Tuyên ở
Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo bạo như áo dài hở ngực hở cổ, áo
dài không có tay hoặc chỉ có một tay kiểu... độc thủ nữ hiệp, áo dài cũn cỡn
ngắn trên đầu gối kiểu... lính thú đời xưa, áo dài năm lớp hàng mầu v.v... Đặc
biệt các kiểu áo dài mới của Thành Lễ đều mặc với quần cùng màu hoặc màu tương
phản để tạo sự bắt mắt. Rất may, đa số các kiểu mới này đều c̣n giữ nguyên hai
tà áo bất khuất bay lượn, nét đặc biệt của áo dài Việt Nam.
Hiện nay phong trào áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át những mẫu áo thêu loan phượng
giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời xưa, đồng thời với sự tái xuất kiểu
áo Lemur tay phồng nối vai.
Nhiều họa sĩ nổi danh tung ra vô số mẫu vẽ trên lụa: Thành Lễ Hoàng Đ́nh Tuyên,
Thúy Uyển, Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Đào, Kim Liệu ở
Virginia... Người viết bài này v́ yêu áo dài Việt Nam nên cũng mượn mầu sắc ghi
lại những h́nh ảnh quê hương qua hoa lá cành mây nước trăng sao trên lụa, để
mong phổ biến những vẻ đẹp của quê hương thể hiện qua tà áo, đóng góp phần nào
vào việc ǵn vàng giữ ngọc.
Những chiếc áo dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói hay dịu mát, may bằng hàng
vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo có nhỏ
hẹp hay rộng răi, cổ áo có kín cổng cao tường hay hở hang lộ liễu... vẫn là một
kết hợp của chân thiện mỹ.
Áo dài Việt Nam không những nói lên nhân sinh quan Việt Nam mà c̣n gói trọn tinh
thần Việt Nam: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc
cặn bă, tô bồi thêm nét đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lập.
Áo dài Việt Nam là niềm kiêu hănh của người Việt Nam. Chính v́ vậy mà người Việt
vẫn yêu quư tà áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong trong sứ mạng ǵn vàng giữ
ngọc.
Tài liệu tham khảo:
”Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục, Phong Trào Văn Hóa.
“Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Đại Nam.
“Toan Ánh, Phong Tục Việt Nam, Xuân Thu.
“Nhất Thanh, Đất Lề Quê Thói, Sống Mới.
“Nguyễn Khắc Ngữ, Những H́nh Ảnh Xưa, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa.
“P. Huard và M. Durand, Connaissance du Vietnam, E.F.E.O.
“W. Robert Moore và Maynard Williams, Portrait of Indochina, The National
Geographic Magazine
Trần Thị Lai Hồng
Thiếu nữ Sài
G̣n thập niên 70 duyên dáng với áo dài chít eo
Trải qua nhiều thay đổi, cách tân, áo dài của những thập
niên 60 - 70 có sự giao thoa giữa yếu tố hiện đại và cổ điển được cho là thời kỳ
hưng thịnh và để lại nhiều dấu ấn nhất.
|
Vào thập niên 60, một số nhà may tại Sài G̣n đă đưa
cách ráp tay raglan vào áo dài. Với cách ráp này, tay áo được nối từ cổ
xéo xuống nách. Tà trước nối với tà sau qua hàng nút bấm từ cổ xuống
nách và dọc theo một bên hông. Kiểu ráp này vừa giảm thiểu nếp nhăn ở
nách, cho phép tà áo ôm khít theo đường cong người mặc, vừa giúp người
phụ nữ cử động tay thoải mái, linh hoạt. |
|
Đầu những năm 1960, bà Trần Lệ Xuân, vợ của ông Ngô
Đ́nh Nhu, đă thiết kế ra kiểu áo dài hở cổ, bỏ đi phần cổ áo, hay c̣n
gọi là cổ thuyền, cổ khoét. Chiếc áo dài nổi tiếng với tên gọi áo dài Bà
Nhu đă vấp phải phản ứng mạnh mẽ v́ đi ngược với truyền thống và thuần
phong mỹ tục của xă hội thời đó. Về sau, mẫu áo dài này rất được ưa
chuộng, nhất là cho những ai có cổ cao và trắng, với bộ ngực đầy đặn.
Thời hiện đại, mẫu áo dài cổ thuyền c̣n được cắt sâu xuống, h́nh vuông,
hay h́nh tṛn rộng, phụ kiện là dây nữ trang đeo cổ. |
|
Cuối năm 1960 - đầu năm 1970, áo dài chít eo thách
thức quan điểm truyền thống trở thành kiểu dáng thời thượng. Lúc này,
chiếc áo nịt ngực tiện lợi đă được sử dụng rộng răi. Phụ nữ thành thị
với tư duy cởi mở muốn tôn lên những đường cong cơ thể qua kiểu áo dài
chít eo rất chặt để tôn ngực. |
|
Thời điểm thịnh hành của áo dài chít eo. Người phụ
nữ Sài G̣n duyên dáng và tân thời khi diện áo truyền thống, tôn vóc dáng. |
|
Áo dài chít eo được mặc phổ biến trên phố Sài G̣n,
trở thành nguồn cảm hứng của nhiều nhiếp ảnh gia. |
|
Áo dài chít eo c̣n được in ấn với nhiều họa tiết
hoa nhă nhặn. Người mặc thường chuộng kiểu tóc xoăn, bồng khi diện cùng
áo dài. |
Kiểu tóc xoăn ngắn kết hợp cùng dáng áo
chít eo thanh lịch. (Đi VeloSolex)
|
Khi diện áo dài chít eo, các cô gái
c̣n mặc áo lá mỏng bên trong, tạo sự kín đáo, thanh nhă. |
|
Mẫu áo dài đơn sắc, chất liệu chủ
yếu là lụa hoặc cotton mỏng nhẹ. |
|
Mẫu áo dài chít eo kết hợp cùng quần
tối màu. |
|
Một phụ nữ duyên dáng trong mẫu áo
dài in hoa màu trang nhă, quần đen và mái tóc xoăn ngắn, phá cách với
kính râm. |
|
Áo dài họa tiết được nhiều cô gái ưa
chuộng trong giai đoạn đầu năm 70. |
|
Phụ kiện đi kèm là những chiếc túi
nhỏ chất liệu mây tre, đậm nét truyền thống. |
|
Nón lá vẫn được nhiều cô gái của
thập niên 60 ưa chuộng. |
|
Kiểu tóc ngắn hiện đại thay thế cho
mái tóc dài cổ điển. |
|
Thời điểm giao thoa giữa yếu tố cổ
điển và hiện đại mang lại sự mới mẻ cho các mẫu áo dài. |
|
Thiếu nữ duyên dáng trong áo dài lụa,
túi xách đan lát thả dáng trên một góc phố Sài thành. |
Post ngày:
12/08/18 |