|   | 
    
      
	  
    
      - Hân Hương 
                  
 
       "Chợ huyện một 
                  tháng sáu phiên 
      -  Gặp cô hàng xén kết duyên Châu Trần".  
                  
 
      -  
 
      - Trong 
                  thẳm sâu ký ức mỗi người Việt mình, những ký ức gắn bó với chợ 
                  như thế không hiếm: Ngày nhỏ chờ mẹ đi chợ về. Lớn lên một 
                  chút hẹn hò nơi cuối chợ. ..... 
                  Ngày giáp tết cùng đi chợ mua cây... 
  Chợ - một 
                  phần văn hoá không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Chợ 
                  làm nên những tập quán, tạo lời ăn tiếng nói, hình thành phong 
                  thái ứng xử. Dù ngày mai nền kinh tế thị trường có biến đổi 
                  cuộc sống của chúng ta như thế nào, tin rằng chợ Việt - với 
                  sức mạnh nội tại bền bỉ của nó - vẫn trường tồn. Ngày Xuân 
                  thong thả, mời bạn đọc ... dạo bước 
                  một vòng qua chợ Việt.
  
                   
     
                  
                    
                    
                        |  
                    
                      | 
                         Chợ Đông 
                        Hà, Quảng Trị.  |   
    Dù chỉ một lần du ngoạn trên bất kỳ 
                  vùng quê nào của đất nước, rồi để ký ức chúng ta lưu giữ những 
                  hình ảnh đặc trưng nhất về nó, thể nào cũng có chợ quê. Những 
                  hình ảnh ấy vừa rất xưa cũ, vừa như mới có hôm qua... Từ nhiều 
                  hướng tiếp cận, chợ quê xứng đáng là đề tài nghiên cứu của sử 
                  kinh tế thương mại, sử văn hoá, dân tộc học... như người ta đã 
                  làm khá nhiều về nó. Bài này chỉ xin nêu đôi nét tương phản 
                  giữa thời gian với quy mô của chợ quê nước 
                  Việt.
  Lịch sử dằng dặc Người ta hay dẫn 
                  "An Nam tức sự" của Trần Phu (sứ giả nhà Nguyên) ghi lại quan 
                  sát của ông về sinh hoạt xã hội Việt Nam vào năm 1293: "Trong 
                  các xóm làng thường có chợ, cứ 2 ngày họp 1 phiên, hàng trăm 
                  thứ hàng la liệt. Hễ cách 5 dặm dựng một ngôi nhà 3 gian 4 
                  phía đặt chõng để họp chợ..."; hoặc lệ lập chợ thời Hồng Đức 
                  (1470-1497) rằng: "Nơi nào muốn mở chợ mới để tiện mua bán thì 
                  quan phủ huyện, châu khám xét quả thực tiện lợi cho dân thì 
                  tâu lên (...) trong dân gian hễ có dân thì có chợ (...) một xã 
                  đã lập chợ thì không được cản trở sự thành lập các chợ mới 
                  khác. Miễn là các phiên họp của chợ mới không được họp chung 
                  với chợ đã có trước, hoặc lại họp trước ngày phiên của chợ đó 
                  để tranh khách" v.v... 
  Ở Miền Bắc, chợ quê đã có 
                  đến ngàn tuổi, từng được vua, người đứng đầu nhà nước duyệt y 
                  hẳn hoi. Và đã có những công trình của các nhà "chợ học" trong 
                  ngoài nước nghiên cứu về mạng lưới phân bố chợ dày đặc trên 
                  vùng đồng bằng cổ xưa này, để giải đáp cái câu "ba làng bảy 
                  chợ", để chỉ ra bình quân trên diện tích 686ha có 1 chợ, 
                  khoảng cách giữa một làng không có chợ đến địa điểm họp chợ 
                  của một làng khác từ 3-4km (2 làng này thường liền địa 
                  giới). 
  Và người ta đã định lượng được tương quan 
                  giữa diện tích tụ cư, dân số - số lượng chợ, tất nhiên khá chi 
                  tiết trên từng vùng canh tác: Chiêm trũng, bán sơn địa v.v... 
                  tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế mỗi thời kỳ, sự điều chỉnh của 
                  thị trường khiến số đơn vị chợ dao động xung quanh một hằng số 
                  nào đó. Rồi người nông dân đã tối giản hoá chu kỳ họp chợ phức 
                  tạp bằng văn vần cho dễ nhớ:  
     
    
      - "Một Râu, hai Mét, ba Ngà
 
      - Tư 
                  Cầu, năm Táng, sáu Ngà lại Râu
 
      - Bảy Ngà, tám Mét, chín Cầu
 
      - Mồng mười chợ Táng, một Râu lại về"  
      
 
      - (lịch phiên của 5 chợ 
                  thuộc huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng).
  Chợ quê VN đa dạng 
                  về loại hình, theo quy mô: Chợ làng, chợ hàng huyện, chợ 
                  tỉnh... theo vị trí: Chợ bến sông, bên đường bộ, trên đê...; 
                  theo kiến trúc, sở hữu: Chợ Đình, chợ Chùa (chợ Tam Bảo), chợ 
                  cầu, chợ quán...; theo chuyên doanh: Chợ làng nghề, chợ gia 
                  súc. Nhiều nơi có chợ âm dương - nơi gặp gỡ giữa người sống và 
                  người chết. Vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long nổi tiếng 
                  với các chợ nổi. 
  Ở một số vùng cao phía bắc lại 
                  có chợ tình như Bắc Hà (Lào Cai), Khâu Vai (Mèo Vạc, Hà 
                  Giang). Nó có lề thói nghiêm túc - trong mục quan chế thời Lê 
                  có các chức liên quan đến chợ: Thị bình, thị tứ, thị trưởng, 
                  thị giám... 
  Trong "Luật trái phép và phạm tội 
                  vặt" có hẳn mấy quy định: "Những sắc dịch làm bếp của nhà vua 
                  và những kẻ nấu bếp cho các nhà quyền quý mà ép lấy hàng hoá ở 
                  quán chợ hay ép mua giá rẻ, thị giám và người bán hàng cùng 
                  bắt giải quan". Hoặc "tự tiện làm thịt trâu, ngựa thì xử 80 
                  trượng. Nếu đem bán ở chợ mà thị giám cùng quan phường quan xã 
                  không cấm thì đều bị xử 80 trượng". Hoặc "ở chợ (phải) đặt 
                  người trưởng chợ xét bạc thật, bạc giả để (giúp dân) mua bán". 
                  Tất nhiên có khán thủ đứng ra thu thuế chợ, có chức dịch của 
                  làng phụ trách trật tự trị an, có trùm chợ thường trực quản lý 
                  "ngày phiên uống rượu say, nói năng càn bậy, đánh người, quan 
                  viên phải tra xét"... 
  Tóm lại chợ quê chúng mình 
                  hình thành từ rất sớm, quy hoạch, thiết chế rành mạch, sản vật 
                  phong phú. Nhưng...
  Vẫn như tạm bợ Sang đến 
                  thế kỷ 21 rồi, mỗi bận về vùng quê xa xôi, chúng ta vẫn thấy 
                  chợ làng thật sơ sài. Trên mặt đê, trên bãi đất trống, ven 
                  đường cái quan... là những mặt bằng thường gặp chợ. Chỉ có dăm 
                  cái lều thấp lợp rạ mỏng, vài dãy quán ngói... còn hầu hết kẻ 
                  mua người bán đều đứng ngồi giữa trời như... nghìn năm về 
                  trước. Nói văn vẻ, chợ quê không tương xứng với giá trị thời 
                  gian nó trải qua. Đây là điểm khác biệt căn bản so với các chợ 
                  Châu Âu nếu cùng lấy quãng thời gian thế kỷ 16, 17 để so 
                  sánh.   Nước Anh hay nước Pháp chẳng hạn, bản đồ 
                  chợ của họ không dày đặc như ta. Nhưng từ những cái chợ ấy, 
                  một hệ thống thị tứ, thị trấn, đô thị... đã nhanh chóng hình 
                  thành. Nội hàm của từ thành thị có chợ (thị) - thị là yếu tố 
                  tiền đô thị (có nó mới có thị tứ, thị trấn, đô thị, thành 
                  thị). 
  Xin không dám đi sâu vào đề tài rộng lớn và 
                  thú vị này, chỉ cố gắng nêu vài nhận định về "sự ngưng đọng 
                  của lịch sử ở chợ quê". Thực chất chợ quê không sao lớn lên 
                  được - theo tôi, vì nó là "bộ mặt của kinh tế tiểu nông không 
                  có thặng dư". 
  Những người buôn bán chuyên nghiệp 
                  (tiểu thương) ít. Phần đông những người nông dân thực hiện vai 
                  trò kép đi bán sản vật của nhà mình lấy tiền mua cái gì đó nhà 
                  mình đang cần. Đại loại như bán thúng thóc mua vuông vải, 
                  thông qua đơn vị đồng tiền để trao đổi vật này lấy vật khác, 
                  chứ thúng thóc chưa thừa ra so với nhu cầu, mà vuông vải đang 
                  là nhu cầu cấp bách hơn. Sức sản xuất không phát triển, lương 
                  thực hàng hoá thiếu thốn là kết quả của nền nông nghiệp thủ 
                  công, thô sơ "con trâu đi trước cái cày đi sau" hàng nghìn 
                  năm. Hàng nghìn năm hầu như không có cuộc cách mạng khoa học 
                  kỹ thuật nào đáng kể xảy ra trên vùng nông thôn rộng lớn và 
                  đông dân ở nước ta. 
  Tất nhiên còn nhiều lý do nữa 
                  khiến đời sống nông thôn nghèo khó quá lâu, khiến những cái 
                  chợ quê vẫn chỉ sôi động ồn ã một chốc một lát lúc buổi mai 
                  hay chiều hôm, rồi lại lều quán xơ xác bãi chợ vương đầy lá 
                  rác... khi tàn chợ.
  Công cuộc công nghiệp hoá - hiện 
                  đại hoá - đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ từ thời kỳ đổi mới 
                  (1986); đã gần 20 năm qua, đang làm biến đổi sâu sắc toàn diện 
                  đời sống kinh tế - xã hội VN từ thành thị đến nông thôn. Sản 
                  xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, giúp ta về đến chợ quê 
                  hôm nay cũng có thể mua được kem đánh răng P/S, hộp cá Hạ 
                  Long, hay chùm nho "Mỹ" hoặc nồi cơm điện Tàu... Trong nông 
                  dân xuất hiện khối người chuyên làm dịch vụ thương mại, nhiều 
                  trung tâm làng (nơi họp chợ) đã thành "phố chợ" cả ngày lẫn 
                  đêm (có karaoke)... 
  Hình ảnh chợ quê xưa đẹp buồn 
                  thảm đang thầm lặng lui dần vào dĩ vãng. Cũng phải mất nghìn 
                  năm đấy, nghĩ vừa thương nhớ tiếc nuối, nhưng cũng vừa thấy... 
                  oải cả người.  
     
  |