|
Cổng làng - một phần hồn cốt
làng quê
Có phải người thân xưa đã "hoá" vào lớp
gạch trơ mòn năm tháng. Sương muối chiều đông cuối năm nhạt nhoà hay là mắt
mình nhoè ướt?
Từ
khi ta lọt lòng, máu thịt đã thấm bao nhiêu hương vị làng quê. Mùi đất ải,
mùn hoai, trấu tro hay mùi khói rơm cứ ngấm dần vào tận chân tơ, kẽ tóc, kết
đọng trong tâm chí. Khi lớn khôn, dù đi tới tận góc trời lạ vẫn không sao
quên được.
Mỗi mùa, mỗi độ, đất làng lại có những mùi vị
riêng biệt, khó trộn lẫn. Trùm lên tất thảy, đó là " mùi" lam lũ, cơ cực.
Mùi mồ hôi lưng áo mẹ, mùi tóc em bồ kết hương nhu. Thấm sâu nhất vẫn là mùi
khoai lùi, ngô nướng, thóc nếp rang. Vào cữ mưa phùn gió bấc, cả nhà túm tụm
trong ổ rơm, bên bếp than củi tí tách. Nghe từng giọt mưa rụng buồn trên
những tầu chuối ngoài vườn...
Cổng làng - một góc khuất riêng
Lại có cả những thứ tưởng như vô tình, vô vị đã ngấm dần vào đầu óc, ký ức
làng quê không biết từ bao giờ. Cây đa, giếng nước, sân đình, gốc gạo già cô
độc đầu làng và nhất là chiếc cổng làng. Mỗi thứ đều mang nặng một phần hồn
cốt làng quê, khó có thể tách bạch rạch ròi. Giếng nước, cây đa, sân đình là
chốn nơi quần cư, tụ hội.
Mỗi sáng mỗi chiều, cả làng soi mặt vào gương
giếng thơi, cùng nhau sẻ chia nguồn nước trong lành. Ðêm trăng, nhiều khi ra
bờ giếng gánh nước chỉ là cái cớ để mà gặp gỡ, hẹn hò. Lòng giếng có khi vơi
khi đầy, nhưng tình làng, nghĩa xóm thì cứ nguyên vẹn, không bao giờ cạn.
Bao nhiêu dấu ấn thăng trầm của làng quê và kiếp người còn ghi dấu ấn nơi
sân đình.
Ngày hội làng, chiếu chèo sân đình làm ngả
nghiêng bao ánh mắt, nụ cười lúng liếng. Ngày mùa, từng gánh lúa cao lút đầu
chất đầy một góc sân đình. Chưa kịp ráo mồ hôi, uống vội bát nước chè xanh
sóng sánh ánh mắt, lại hối hả néo từng bó lúa, vỗ đập thì thụp cối đá lỗ...
Ðứng riêng một góc, xa khuất, tưởng chừng
chẳng dính dáng gì đến số phận làng quê và thân phận mỗi con người, chiếc
cổng làng lại chiếm một chỗ sâu kín nhất, lặng thầm nhất trong đáy sâu tâm
hồn. Có làng rồi mới có cổng, nhưng không phải làng nào cũng có cổng.
Có lẽ chiếc cổng làng chỉ hiện hữu và tồn tại
trên những vùng đất châu thổ sông Hồng. Ðó là nơi đất lề, quê thói, làng đã
đủ tuổi để cất dựng nên một chiếc cổng. Dù to dù nhỏ, dù xây bằng gạch hay
ghép đá, chiếc cổng làng chính là dấu ấn minh chứng cho một nếp làng bề thế,
chỉn chu. Cửa nhà có thể xộc xệch, sơ sài; con người có thể lam lũ nhếch
nhác nhưng cổng làng thì phải đàng hoàng, chững chạc. Ðơn giản chỉ là chiếc
cổng xây bằng gạch mộc hoặc đá xẻ cuốn vòm, cổng làng là bộ mặt của làng quê.
Chưa cần bước sâu vào làng, chưa đặt chân tới
sân đình, đứng trước cổng làng, người xa lạ cũng có thể đoán định phần nào
cốt cách của làng xóm, tư chất của mỗi người dân. Bởi thế chiếc cổng phải
được đặt ở vị trí trang trọng nhất, để từ xa dõi tầm mắt là có thể nhận ra
ngay. Ðể người làng dù có tha phương cầu thực nơi đất khách quê người, trở
về một đêm không trăng, không sao chỉ khẽ chạm tay cũng biết.
Làng giầu thì cổng lớn, rồng chầu, hổ phục.
Mái cổng đứng lên một nấc, nóc mái đầu đao có khi kết đôi chim phượng. Bảo
đấy là sự khoe giầu sang, phú quý là không phải. Ông cha ta xưa không có ý
đua nhau xây cổng rõ to, rõ lớn để choáng ngợp mắt thiên hạ. "Ăn trông nồi,
ngồi trông hướng". Xây cổng cũng phải nhìn sang làng bên, trông lên cao hơn.
Dẫu chỉ là cái cổng mà cũng phải xứng với vị thế làng. Không thể cậy tiền,
cậy của để dựng cổng gật ngưỡng, to bè. Thời phong kiến, nhiều khi danh giá
của làng quyết định tầm cỡ cổng làng. Thời ấy, làng nào có nhiều người đỗ
đạt, làm quan to thường được vua ban cho quyền xây cổng lớn nhưng tuyệt
nhiên không được vượt qua những luật lệ nghiêm ngặt.
Bề thế nhất là cổng "tam môn" - có tới ba cửa.
Một cửa chính giữa, hai bên tả hữu là hai cửa nhỏ. Thường ngày, dân làng,
người lạ chỉ được qua lại đôi bên cửa ngách ấy. Khi làng có việc trọng đại
như hội hè, đình đám hay đón rước quan sang, cửa chính mới được rộng mở
thênh thang. Hai bên cổng thường gắn đôi vế đối chữ nho. Có thể là câu đối
vua ban nhưng đa phần là những câu đối đúc kết những tinh hoa của làng quê
hay cầu mong những điều tốt lành. Năm tháng qua đi, đời người nối tiếp đời,
mưa gió bào mòn, những con chữ có thể mờ phai, mất nét nhưng lòng người vẫn
hằn sâu. Ngựa xe sang trọng, người quyền cao chức trọng, mũ cao áo dài, đến
trước cổng làng đều phải dừng chân bước xuống, kính cẩn cúi đầu qua cổng...
Cổng làng gắn với mỗi phận đời
Ở những chốn quê nghèo, cổng làng mộc mạc và cô đơn lắm. Hai bên trụ gạch
thấp nhỏ, khiêm nhường đỡ một tấm xà cũng bằng gạch, thế là thành cổng làng.
Nó cũng nhỏ bé như thân phận mỗi con người sống trong đó. Không một nét vẽ
trang điểm, không màu mè, thậm chí không một nét chữ tên làng. Vậy mà chính
những chiếc cổng vô danh như thế lại trở
nên thân thiết gắn bó vô chừng.
Lưỡi dao thời gian khoét sâu vào từng viên
gạch, trơ mòn, trũng lõm sâu hút như hốc mắt người già. Ðôi chỗ, nước mưa
ngấm lâu ngày, gạch chảy dài từng vệt đỏ như huyết ngỡ như lệ xót thương giỏ
thành máu...
Xót xa nhớ về những chiều tan học, sách bút
quẳng vội, túm tụm bên cổng làng. Chỗ đất ấy đã mòn nhẵn dấu tay trẻ những
bận chơi ô ăn quan, đánh bi, đánh đáo. Chỗ đất ấy mịn êm như tấm chiếu cho
lũ trẻ làng tha thẩn, lê la đứng ngồi ngóng mẹ về những buổi chợ quê.
Trên thân cổng không biết bao nhiêu dấu vết
của tuổi thơ. Cổng làng cũng là nơi dừng chân đặt gánh, trở vai lúa nặng
trĩu nước đồng những ngày mùa bận rộn. Dăm ba câu chuyện, mấy lời góp nhặt
cũng đủ vợi nỗi cực nhọc. Ở đấy rất nhiều gió từ ngoài đồng lùa về, bao
nhiêu mồ hôi tự nhiên ráo khô.
Ai có đi xa trở về làng cũng không quên dừng chân bên cổng. Khuất sau thân
cổng thể nào cũng khép nép một quán nước. Chiếc chõng tre trỏng chơ vài hũ
kẹo bột, kẹo vừng, bánh đa khoai hay dăm tấm bánh nếp, bánh gai. Lèo tèo mấy
củ khoai lang, khoai sọ. Về đến làng rồi có gì mà vội, cứ nhẩn nha. Hai tay
bưng bát nước chè xanh đặc sánh, thơm thảo, bao nhiêu
mệt nhọc, bụi đường cùng những bận lòng bỗng nhiên tan theo khói nước...
Dưới đáy nước, gương mặt những người thân xưa chợt hiện về, chầm chậm xoay
quanh làn nước. Những ký ức, kỷ niệm làng xóm buồn vui từ xa xăm cũng ùa về
bồng bềnh. Phía sau tất cả, không thể che khuất chiếc cổng làng đầy vơi
thương nhớ...
Nguyễn Chí Thành (Theo Tư vấn tiêu dùng)
Ấn tượng những chiếc cổng làng
ở vùng ven Hà Nội
Dân trí Trên
đoạn đường chỉ 2km dọc sông Tô Lịch, tồn tại hàng chục cổng làng lớn nhỏ khá
bất ngờ ở một vùng ven Hà Nội. Đây chính là những lối vào xã Thanh Liệt,
huyện Thanh Trì, nằm giáp với quận Hoàng Mai.
Dù
cách gọi vẫn mang vẻ “quê mùa” nhưng Thanh Liệt đã thành “phố” từ lâu, khi
kiến trúc nhà ống cùng hàng chục cao ốc xung quanh phát triển với tốc độ
chóng mặt.
Dù
chiếm không gian khiêm tốn, những chiếc cổng đã trở thành biểu tượng của
làng quê Bắc Bộ vẫn được giữ gìn cho thấy sự gắn bó của người dân với truyền
thống lâu đời.
Cổng vào xóm Vực là cổng lớn nhất trọng loạt cổng
vào xã Thanh Liệt. Trước đây Thanh Liệt có 9 xóm, nay sáp nhật lại chỉ còn 5
xóm bao gồm: thôn Thượng; thôn Nội; thôn Tràng; thôn Vực; thôn Văn.
Thanh Liệt xưa còn có tên Quang Liệt, người dân
quen gọi là làng Quang, là một làng cổ chạy dọc sông Tô Lịch kéo dài khoảng
2 km.
Cổng xóm Bơ (tên gọi cũ). Thông thường đường vào
mỗi xóm lại có một cổng, các cổng này đều hướng ra sông Tô Lịch.
Cổng vào thôn Thượng, được trùng tu vào tháng
8/2000.
Cổng vào xóm chùa Nhĩ, được xây từ năm 1942.
Cổng vào thôn Cự Đông. Mật độ cổng dẫn vào thôn
xóm của xã Thanh Liệt khá dày, có đoạn chỉ vài chục mét lại có một cổng.
Cổng vào xóm Mụ.
Tính riêng những cổng hướng ra sông Tô Lịch thì
xã Thanh Liệt có 8 chiếc cổng chưa kể những cổng nhỏ ở phía trong các xóm.
Cổng vào thôn Nội cũng là một cổng lớn của Thanh
Liệt.
Cổng vào xóm Giữa thôn Tràng.
Cũng lại có một cổng khác vào thôn Tràng.
Đây là cổng sau của thôn Tràng, người dân còn gọi
là cổng đồng (cổng để đi ra đồng).
Cổng vào các xóm nhỏ ở bên trong.
|