BÀ RỊA -VŨNG TÀU
VÙNG ĐỊA ĐẦU BIÊN TRẤN
Nguyễn
Thanh Liêm
Miền
Nam nước Việt, xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa, hay là vùng Đồng Nai Cửu Long
rộng lớn ngày nay, với đất đai ph́ nhiêu, đời sống thịnh vượng, tiến bộ
nhất của nước Việt Nam, chỉ mới được chánh thức thành h́nh từ cuối thế
kỷ XVII. Nhưng sự tiến vào miền Nam khai phá lập nghiệp của người lưu
dân Việt th́ thật sự đă bắt đầu từ hơn thế kỷ trước, và nơi đầu tiên
người Việt đặt chân đến là vùng Mô Xoài, tức vùng Bà Rịa bây giờ. Chúng
tôi xin bắt đầu loạt bài về các tỉnh vùng Đồng Nai Cửu Long bằng khởi
điểm Bà Rịa Vũng Tàu.
Bà Rịa và Vũng Tàu là những
địa danh rất quen thuộc đối với đa số người Việt ở Miền Nam. Trên đường
từ Sài G̣n đi Vũng Tàu chúng ta phải đi qua hai tỉnh Biên Ḥa và Phước
Tuy. Dưới thời Pháp thuộc, tỉnh Phước Tuy là tỉnh Bà Rịa, và Bà Rịa xưa
kia được gọi là Mô Xoài.
Mô Xoài là nơi mà người
Việt đă đến khai phá, định cư sớm nhất so với các nơi khác ở Miền Nam.
Đại Nam Nhất Thống Chí triều Nguyễn cho rằng xứ Mô Xoài là vùng địa đầu
của Biên Trấn, tức là vùng người lưu dân Việt đầu tiên đặt chân vào để
khai phá mở mang Miền Nam nước Việt. Năm 1621 khi sứ thần cùng đoàn quân
tùy tùng đưa Ngọc Vạn công chúa, con gái thứ hai của Chúa Sải, Nguyễn
Phúc Nguyên (1613-1635), về Oudong (Campuchia) theo chồng là vua Chey
Chetta II của Chân Lạp th́ lưu dân người Việt từ các tỉnh miền Trung đă
có mặt ở Mô Xoài (tức Bà Rịa) rồi. Theo chân Ngọc Vạn công chúa, lưu dân
người Việt càng ngày càng vào Nam lập nghiệp nhiều hơn. Về phương diện
chính trị ngoại giao, cuộc hôn nhân của công chúa Ngọc Vạn với vua Chey
Chetta II là bước mở đầu cho mối liên hệ ngoại giao giữa hai dân tộc
Việt-Khờ Me và về phương diện xă hội nó cũng được xem như là một sự mở
đầu cho những bành trướng lănh thổ quy mô về phương Nam của dân tộc
Việt. Sử Khờ Me ghi là sau khi lên ngôi vua Chey Chetta II cho xây cung
điện nguy nga tại Oudong rồi cử hành lễ cưới long trọng với một nàng
công chúa xinh đẹp của Việt Nam. Hoàng hậu Sam Đát (tức công chúa Ngọc
Vạn) có đem nhiều đồng hương sang Campuchia. Có người làm quan trong
triều, có người làm thủ công, có người buôn bán, vận chuyển hàng hóa.
Theo hồi kư của giáo sĩ Chistofo Borri, một người Ư đă sống gần Qui Nhơn
từ 1618 đến 1622, th́ chúa Nguyễn đă viện trợ cho vua Chân Lạp
(Campuchia) cả tàu thuyền lẫn binh lính để chống lại quân Xiêm. Borri
cũng tả rơ phái đoàn quan quân Việt Nam đưa công chúa Ngọc Vạn về Oudong
như sau: „Sứ bộ gồm khá đông người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ,
chuyên chở trên những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bài trí
lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh Oudong, th́ dân chúng Khờ Me, thương nhân
Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Hoa đă tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan
nghênh.“ Hai năm sau, 1623, chúa Nguyễn sai phái bộ tới Oudong yêu
cầu vua Chey Chetta II cho chúa Nguyễn lập hai đồn thu thuế tại Prei
Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng qua lại và nghỉ
ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia. Từ khi có các đồn thu thuế
của chúa Nguyễn, vùng này đă trở nên vùng thị tứ trên bến dưới thuyền
rất là sầm uất.
Trước khi người Việt đến Mô
Xoài khai phá, th́ nơi đây c̣n là cả một vùng „toàn rừng rậm mấy ngh́n
dặm“ theo sự ghi chú của Lê Quư Đôn trong Phú Biên Tạp Lục. Vùng rừng
rậm hoang vu này là vùng cư trú của nhóm thiểu số người Mạ mà hiện giờ
có khoảng hơn 20 ngàn người sinh sống trên vùng rừng núi Tây Bắc Nam
phần. Từ sau ngày Ngọc Vạn công chúa được gả về Campuchia vùng Mô Xoài
đă trở nên vùng tuyến đầu quan trọng của người Việt trong quá tŕnh tiến
về phương Nam. Dân tộc Mạ hay Châu Mạ (Châu theo tiếng Mạ có nghĩa là
người) nói tiếng gốc Mă Lai. Địa bàn sinh sống của Châu Mạ ngày xưa là
cả vùng Đồng Nai xuống đến Mỹ Tho. Đất th́ quá rộng mà người th́ quá ít
cho nên dân cư quá thưa thớt, và phần lớn đất đai là rừng rú hoang vu
đầy muôn thú. Khi người Việt bắt đầu vào khai khẩn đất hoang vùng Mô
Xoài th́ người Mạ từ từ rút lui dần, nhường đất cho người lưu dân mới
đến khai phá. Đến giữa thế kỷ XVII người Mạ c̣n sinh sống ở vùng phía
Bắc Bà Rịa, Bắc Biên Ḥa dài lên Long Khánh, Bảo Lộc, Lâm Đồng.
Nhưng biết và nói đến vùng
Bà Rịa xưa nhất là người Trung Hoa. Vào cuối thế kỷ XIII, Châu Đạt Quan
khi đi theo đoàn sứ giả Trung Hoa đến thăm nước Chân Lạp, có ghi một
đoạn như sau về vùng Bà Rịa-Vũng Tàu trong quyển „Chân Lạp phong thổ kư“
của ông: „Chúng tôi vượt biển Thất Châu Dương (tức Biển Đông) đi
ngang biển Giao Chỉ dương đến xứ Chiêm Thành. Ở đấy nhờ gió thuận, trong
ṿng 15 ngày ta có thể đến thị trấn Chân Bồ, đó là biên giới xứ Chân Lạp.“
Nhiều học giả Việt Nam cho rằng Chân Bồ là một thị trấn vùng Bà Rịa-Vũng
Tàu.
Vào thế kỷ XVII người Aâu
Châu đă có qua lại vùng Bà Rịa Vũng Tàu. Ông Phan Phát Huờn trong quyển
„Việt Nam giáo sứ“ có nói đến trường hợp của giáo sĩ Gaspar de Santa
Cruz đi từ Malacca đến Hà Tiên, ở Hà Tiên một thời gian ngắn rồi tới Bà
Rịa để xuống tàu sang Quảng Châu. Như vậy Bà Rịa đă từng là nơi dừng
chân của nhiều tàu buôn trên đường từ Aâu Châu sang Trung Quốc. Trên bản
đồ hải tŕnh của các nước Âu Châu như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, đều có ghi
Vũng Tàu như một nơi dừng chân của các tàu trên dường viễn dương.
Năm 1698 thống suất Nguyễn
Hữu Cảnh được lệnh của Chúa Nguyễn vào Nam kinh lược. Nguyễn Hữu Cảnh
„lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước
Long, dựng dinh Trấn Biên; lập xứ Sài G̣n làm huyện Tân B́nh, dựng dinh
Phiên Trấn... Đất đai đă mở rộng ngàn dặm, dân số hơn bốn vạn hộ.“ Phần
đầu của Nam Kỳ Lục Tỉnh được thành h́nh. Đây là lần đầu tiên người Việt
chính thức đặt nền hành chánh cai trị trên các vùng có người Việt định
cư. Lúc này Mô Xoài/Bà Rịa nằm trong huyện Phước Long của xứ Đồng Nai.
Thời Minh Mệnh với Nam Kỳ gồm Lục Tỉnh, th́ phủ Phước Tuy (Bà Rịa) thuộc
tỉnh Biên Ḥa gồm các huyện Phước An (Mô Xoài), huyện Long Thành và
huyện Long Khánh.
Trong Gia Định Thành Thông
Chí, Trịnh Hoài Đức nói về Bà Rịa như sau:
„Bà Rịa ấy là đầu địa giới trấn Biên Ḥa là đất danh
tiếng, cho nên các phủ miền Bắc có ngạn ngữ rằng „Cơm Nai, Rịa, cá Rí,
Rang“, là v́ lấy Đồng Nai - Bà Rịa là đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài
G̣n, Mỹ Tho, Long Hồ ở cả trong đó. Đất ấy lưng ở dựa núi, mặt nh́n
biển, rừng rậm tre dài, ở trên có trường tuần để vời gọi những người Man
Mạch đến dỗi chác, ở dưới có cửa bến, để xét hỏi ghe thuyền ra biển,
trạm thủy, trạm bộ giao tiếp nhau, việc cung nộp lâm sản chống trị người
Đê, người Mọi, bắt bớ giặc cướp, th́ có huyện nha đạo thủ chia nhau làm
việc, vốn là nơi bận rộn khó nhọc bậc nhất. Có nhiều cửa quan hiểm yếu,
có thành tŕ xưa di chỉ hăy c̣n, như là quốc đô của vua nào vậy. Xét Bà
Rịa là đất Lục Chân Lạp xưa. Khảo sách Tân Đường thư nói: „Nước Bà Lỵ ở
thẳng phía đông nam Chiêm Thành, từ cửa biển Giao Châu vượt biển trải
qua các nước Xích Thổ, Đan Đan mới đến. Đất ấy có băi rộng, nhiều ngựa,
cũng gọi tên là Mă Lễ. Tục hay xâm lỗ tai đeo ngọc, dùng một mảnh vải
cát bối [vải bông g̣n] cuống ngang lưng. Phía Nam có nước Thù Nại, sau
đời Vĩnh Huy bị nước Chân Lạp thôn tính“. Cứ đó mà nói, th́ ước lược
cũng giống tục của người Cao Mên, người Đê, người Mọi ngày nay, mà đất
cũng dáng như thế. Tra ở sách Chính Vận, chữ lỵ âm lực địa thiết, ngờ Bà
Rịa tức là nước Bà Lỵ xưa chăng mà Thù Nại lại cùng với tiếng Đồng Nai,
Nông Nại nghe hơi giống nhau, hoặc nay là đất Sài G̣n chăng? Tạm chép
phụ ở đây để chờ những bực học rộng sau này khảo biên.“
Sang thế kỷ XVIII đă có
nhiều người Việt Nam vùng Bà Rịa, Đất Đỏ, theo đạo Thiên Chúa. Danh mục
các họ đạo của tỉnh Đồng Nai có ghi địa danh Bà Rịa hồi năm 1747 có được
140 giáo dân và Đất Đỏ 350 giáo dân. Một người theo Thiên Chúa giáo, gốc
Bà Rịa, đă rất nổi tiếng trong buổi đầu của nền văn học chữ Quốc Ngữ là
Paulus Huỳnh Tịnh Của. Paulus Huỳnh Tịnh Của và Petrus Trương Vĩnh Kư là
hai người đầu tiên mở đầu cho nền văn chương chữ Quốc Ngữ. Cả hai ông
đều là người theo Thiên Chúa giáo, đều được học chữ Pháp và chữ Quốc Ngữ
rất sớm, và đều có những công tŕnh viết lách, soạn thảo bằng chữ Quốc
Ngữ quan trọng đầu tiên ở Việt Nam. Nhà bác học Petrus Kư là người Vĩnh
Long, rất nổi tiếng về những công tŕnh của ông đối với văn học, báo chí
và học thuật mới ở buổi giao thời. Tên ông đă được dùng đặt cho trường
trung học lớn nhất và nổi tiếng nhất ở miền Nam, đó là trường Petrus
Trương Vĩnh Kư. Paulus Của là người Bà Rịa, tuy không được nổi tiếng
bằng Petrus Kư nhưng cũng có công tŕnh soạn thảo đáng kể là bộ Quốc Âm
Tự Vị.
Dưới thời Pháp thuộc, Bà Rịa là một tỉnh trong số 20
tỉnh ở Nam Kỳ. Trước 1945 người ta ghép chữ đầu của 20 tỉnh thành bài
thơ sau đây cho dễ nhớ:
GIA, CHÂU,
HÀ, RẠCH, TRÀ
SA, BẾN, LONG, TÂN, SÓC.
THỦ, TÂY, BIÊN, MỸ, BÀ,
CHỢ, VĨNH, G̉, CẦN, BẠC, và
Sau đó thêm CẮP.
Đó là các tỉnh:
Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh,
Sa Đéc,
Bến Tre, Long Xuyên, Tân An, Sóc Trăng.
Thủ Dầu
Một, Tây Ninh, Biên Ḥa, Mỹ Tho, Bà Rịa,
Chợ Lớn,
Vĩnh Long, G̣ Công, Cần Thơ, Bạc Liêu.
và Cap
Saint Jacques (tức là Vũng Tàu).
Lúc này tỉnh Bà Rịa gồm 5
tổng Việt là An Phú Hạ, An Phú Tân, An Phú Thượng, Phước Hưng Hạ, Phước
Hưng Thượng, và 2 tổng Thượng là Cơ Trạch và Nhơn Xương. Thời Việt Nam
Cộng Ḥa, tỉnh Bà Rịa được mệnh danh là tỉnh Phước Tuy. Hiện giờ Bà Rịa
và Vũng Tàu được sát nhập làm thành tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Vũng Tàu nằm sát bên Bà Rịa, cách tỉnh lỵ Bà Rịa 22 km.
Vũng Tàu xưa gồm có ba làng Thắng Nhất, Thắng Nh́, và Thắng Tam, cả ba
đều bắt đầu bằng chữ Thắng. Cho nên cũng có khi người ta gọi vùng này là
vùng Tam Thắng. Về nguồn gốc của ba làng mang tên Thắng này ông cha
chúng ta ngày xưa có hai giả thuyết khác nhau. Giả thuyết thứ nhất nói
rằng sau khi thống nhất đất nước, Gia Long cho một số quân sĩ dẫn theo
một số người thuộc thành phần bất hảo đối với triều đ́nh thời đó và
những người không có công ăn việc đi trên ba chiến thuyền vào Nam, khẩn
hoang lập nghiệp. Ba chiếc chiến thuyền này đă cặp bến Vũng Tàu, định cư
ở ba nơi. Họ đă thành công trong việc khai phá mở mang vùng đất Vũng
Tàu, và lập thành ba làng lấy tên là Thắng Nhất, Thắng Nh́ và Thắng Tam.
Bên cạnh giả thuyết này c̣n có một giả thuyết khác cho rằng ngày xưa ở
vùng biển Vũng Tàu thường có bọn cướp biển Mả Lai đến đây đánh cướp các
thuyền buôn Việt Nam từ miền Trung và miền Bắc vào Sài G̣n. Chúng cướp
hết của tiền, hàng hóa và có khi bắt cả người nữa. Triều đ́nh Nguyễn
phái ba chiến thuyền vào đây để tiễu trừ bọn cướp. Ba người điều khiển
ba chiến thuyền đó là ba vị đội trưởng có tên là Phạm Văn Dinh, Lê Văn
Lộc và Ngô Văn Huyền. Cả ba đă hoàn toàn thành công trong việc bài trừ
bọn cướp biển. Ngoài công tác an ninh, họ cũng đă thành công lớn lao
trong việc định cư, khai phá, mở mang vùng đất Vũng Tàu. Họ đă thành lập
ba làng mang tên Thắng. Để tưởng thưởng công lao của họ, năm 1822 vua
Minh Mệnh sắc chiếu ban khen cho ba người nói trên, cho họ được giải
ngủ, được lập làng làm chủ những đất đai họ khai phá, và cho các làng
này được miễn thuế trong ba năm. Đội trưởng Phạm Văn Dinh xây dựng làng
Thắng Nhất, đội trưởng Lê Văn Lộc làng Thắng Nh́ và đội trưởng Ngô Văn
Huyền làng Thắng Tam. (Theo tác giả Huỳnh Minh trong quyển Vũng Tàu
Xưa).
Trước 1895 Vũng Tàu nằm trong một quận của tỉnh Bà Rịa.
Từ năm 1895 Vũng Tàu được tách khỏi Bà Rịa để trở thành tỉnh riêng. Vũng
Tàu ở cách Sài G̣n 125 km, nằm sát bên tỉnh Bà Rịa, ở về phía Tây Nam
của Bà Rịa. Vũng Tàu có biển Nam Hải bao quanh ở phía Nam. Vũng Tàu có
vị trí vô cùng quan trọng đối với sự giao thông trên mặt biển của vùng
Đông Nam Á, cũng như của hai châu Âu, Á. Vũng Tàu không hay chưa phải là
một hải cảng nhưng nó là cửa ngỏ đi vào Sài G̣n, mà Sài G̣n từ lâu nay
là một thương cảng vô cùng quan trọng đối với các tàu bè từ Âu Châu sang
Á Đông và ngược lại. Hầu hết các tàu buôn từ Aâu Châu qua Nhật Bản, Hồng
Kông, Đài Loan, Phi Luật Tân đều có ghé qua Sài G̣n. Trên đường đi ngược
lại cũng vậy, Sài G̣n vẫn là nơi dừng chân của các tàu buôn viễn dương.
Muốn vào thương cảng Sài G̣n bằng đường biển người ta phải qua cửa ngỏ
Vũng Tàu.
Nhờ có những băi biển đẹp, lại ở gần Thủ Đô Sài G̣n nên
từ xưa Vũng Tàu đă là nơi nghỉ mát, hay tham quan của du khách, của những
khách sang trọng cùng với dân có tiền ở vùng Sài G̣n Chợ Lớn và vùng phụ
cận. Từ Băi Trước (hay Băi tắm Tầm Dương), qua Băi Dứa, đến Băi Ngênh
Phong (Ô Quắn), từ Băi Sau (hay Băi Thùy Vân) đến Băi Dâu (tức băi
Phương Thảo), Vũng Tàu đă thu hút hàng vạn du khách về đây nghỉ mát
trong những ngày cuối tuần. Vừa là chốn nghỉ mát đông đảo, rần rộ, Vũng
Tàu cũng là nơi yên tĩnh, an toàn cho những chính khách và các nhà tu. Từ
xưa Vũng Tàu đă từng là nơi giúp vua Gia Long t́m nước ngọt để sống sót
trong những ngày bị quân Tây Sơn rượt đuổi ráo riết. Đầu thời Pháp thuộc
Vũng Tàu đă có Bạch Dinh để làm nơi nghỉ mát cho quan toàn quyền. Cũng
trong thời Pháp thuộc Vũng Tàu đă từng là nơi an trí của các nhà vua
cách mạng triều Nguyễn như Thành Thái, Duy Tân. Đến giữa thời Đệ Nhất và
Đệ Nhị Cộng Ḥa, Thủ Tướng Trần Văn Hương (hồi làm Thủ Tướng lần thứ nhất)
cũng có dịp được an trí ở đây một thời gian ngắn. Đặc biệt là các tôn
giáo cũng đă t́m thấy ở nơi đây là nơi tôn nghiêm thanh tịnh rất tiện lợi
cho sự tu dưỡng, phát triển tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa, phật đường, tịnh
xá có tiếng đă được dựng lên ở Vũng Tàu. Phật giáo có Phật Đài Thích Ca,
một địa điểm hành hương nổi tiếng, có Chùa Tịnh Độ Cư Sĩ, có Tịnh Xá Ngọc
Hương, có ba ngôi Phật Bửu Tự của giáo hội Thiền Tịnh Đạo Tràng, bên
Thiên Chúa giáo có Đài Đức Mẹ ở Băi Dâu, nơi quy tụ rất đông du khách và
giáo dân.
Bà Rịa-Vũng Tàu là một kết hợp đặc biệt.
Hai nơi này sát cánh bên nhau về địa lư, lại có những
vai tṛ lịch sử gắn liền tiếp nối với nhau. Nếu Bà Rịa là điểm bắt đầu
của cuộc mở mang bờ cơi về phương Nam th́ Vũng Tàu là nơi có rất nhiều
tiềm năng phát triển lớn lao cho vùng này trong những ngày sắp tới.
Thắng cảnh Bàu Sen
Khu nghỉ mát Bàu Sen nằm cách thị xă Bà Rịa 30km về phía Bắc nằm
trong một trong những khu rừng lịch sử phía
Nam.
Rừng Bàu Sen mọc trên vùng śnh lầy quanh năm ngập nước, với diện
tích 120ha (dài 3000m rộng 400m) độ sâu trung b́nh 3,5m, được cung cấp
nước bởi con suối Tầm Bó bắt nguồn từ Cẩm Mỹ rừng Bàu Sen có hệ sinh
thái hết sức đa dạng với nhiều loài động thực vật quư hiếm như: bời lời,
dầu nước, sao mây, các cây họ tre; các loài thuỷ đặc sản: cá, cua, ốc,
lươn...
Ngoài giá trị du lịch sinh thái, nơi đây c̣n được coi là di tích lịch
sử với khu căn cứ Bàu Sen nổi tiếng.
Tổ đ́nh Thiên Thai & thắng cảnh Dinh
Cố
Tổ
đ́nh Thiên Thai - nằm ở phía Bắc chân núi Dinh Cố (ấp 3 xă Tam An,
huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ) - được khởi công xây dựng
năm 1925 bởi Hoà Thượng Thích Huệ Đăng. Nhưng mảnh đất này trước đó
đă là nơi tŕ niệm của sư tổ Huệ Đăng. Phía sau Tổ Đ́nh có Thạch
Động. Thạch Động được tạo dựng công phu trong hang đá, là nơi Hoà
Thượng Huệ Đăng sông tu hành trong điều kiện lúc đầu chưa dựng được
ngôi chùa như hiện nay.
Tổ đ́nh Thiên Thai toạ lạc trên diện tích tương đối rộng (6ha),
được chia làm 4 khu vực chủ yếu đó là :
điện chính (Thiên Thai), Thạch Động, Thiên Khánh và Thiên Bửu Tháp (được
xây dựng năm 1936). hai câu đối bằng chữ
Hán trước cửa Thạch Động: "Tá thạch vi tường thục lăo tăng cùng đáo
đế, Vĩ phong tác chiến thuỳ chi đại đạo lạc vô cương"(tạm dịch: Đá
mượn làm tường, ai có biết lăo tăng nghèo đến thế; Gió dùng thay
quạt, người đâu hay đạo lạc vô cương.)
Cụ tổ Thiên Thai đạo hiệu Huệ Đăng (ngọn đèn
Huệ soi sáng măi tương lai ), tên thật là Lê Quang Hoá, sanh năm
1873 tại xă An Đông, huyện B́nh Khê, tỉnh B́nh Định. Lê Quang Hoá
tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp từ năm 17 tuổi. Năm 1895
phong trào chống Pháp của Phan Đ́nh Phùng thất bại. Nhiều cơ sở, tổ
chức ở B́nh Định bị phá vỡ, anh em chiến sỹ bị bắt, bị tù đày. Ông
t́m đường vào Nam và đi tu. Nhưng hoài niệm cứu nước vẫn canh cánh
trong ḷng bậc chân tu, thể hiện trong cuộc sống, trong giảng dạy
đạo pháp Phật giáo cho đệ tử, đă đào tạo được nhiều tăng ni yêu
nước. Những người trụ tŕ Thiên Thai đều thực hiện theo tinh thần
đạo pháp gắn với dân tộc.
Sư tổ Huệ Đăng vốn quen biết cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân
sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồi đầu mới dựng chùa, cụ phó bảng có
ghé thăm và ở lại Thiên Thai một đêm để đàm đạo với Huệ Đăng.
Rời tổ đ́nh Thiên Thai, du khách rẽ trái theo con đường tam cấp
uốn lượn quanh núi Dinh Cố lên cao 82m để chiêm ngưỡng toàn cảnh
đồng bằng trù phú Long Đất,Tân Thành vàn xa xa là Xuyên Mộc mờ ảo...
Trên đỉnh núi Dinh Cố có một ngôi miếu được xây dựng công phu
trên những khối đá lớn, tương truyền đó là miếu thờ một hiền nữ, c̣n
gọi là Dinh Cố. Không biết trước khi có danh sơn trên, núi Dinh Cố
c̣n có tên gọi nào khác ?
Một số người say mê t́m hiểu lịch sử địa phương cho rằng núi Dinh
Cố xưa được gọi là núi Bà Rịa. Nếu quả thật như vậy th́ giữa ngôi
miếu thờ một hiền nữ không tên không tuổi được sử tịch ghi chép và
lưu truyền kia với Bà Rịa, một nhân vật lịch sử có thật có mối quan
hệ ǵ chăng?
Núi Dinh Cố không cao lớn, h́nh dáng như một chiếc nón khổng lồ
úp trên cánh đồng Tam An. Lên Dinh Cố, du khách không quên vào miếu
Hiền Nữ thắp hương. Theo nhân dân Tam An, từ khi Bà Cố qua đời ngọn
núi này trở nên linh thiêng. Người ta truyền rằng đến đây dâng hương,
cầu mong cuộc sống gặp nhiều may mắn, hạnh phúc sẽ được toại nguyện.
Những huyền thoại thần bí về Bà Cố có thể đă được nhân dân thêu dệt
thêm rất nhiều, âu đó cũng là mơ ước về con người tư đức, công hạnh
để nhân dân tôn kính ngưỡng mộ.