Chùa Bà Già là một 
			công tŕnh kiến trúc Phật giáo, có niên đại hơn 1.000 năm. Được 
			nhiều thế hệ người dân làng Phú Gia xây dựng, giữ ǵn và bồi đắp, 
			ngôi chùa đă trở thành một địa chỉ văn hóa – du lịch của Hà Nội ngày 
			nay.
Làng Phú 
			Gia (phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội) c̣n lưu giữ tại đ́nh 
			làng pho sách cổ Bản xă thần kư (ghi lại thần tích của xă, 
			cũng là của làng). Từ những năm 1980, một cố lăo làng Phú Gia là 
			Công Nghĩa Lẫm đă dịch cuốn sách này. Theo nội dung thần tích, thuở 
			xưa xa, làng quê này có tên là Bà Già Hương (hương Bà Già). 
			
			Đến thời kỳ nước ta 
			bị nhà Đường đô hộ (thế kỷ VIII), hương Bà Già được đổi gọi là An 
			Dưỡng Phường. Thế kỷ XIII, vua Trần huy động dân phường An Dưỡng đến 
			sửa chữa bến Đông Bộ Đầu và đắp thành Đại La để chống quân Nguyên 
			xâm lược, vua đă cho đổi gọi là An Dưỡng thành Phú Gia. 
			Ở Phú Gia, từ thời 
			Bắc thuộc đă có nhiều miếu thờ thổ thần và đền thờ. Có một đền thờ 
			thổ thần từ lâu đời, đến năm Thiệu Long đời Trần Thánh Tông 
			(1258-1272), thiền sư Văn Thao đă sửa lại đền, đổi thành chùa An 
			Dưỡng. Sau, chùa bị hư hoại nhiều, đă dời về g̣ Con Quy. 
			Vẫn theo thần tích xă 
			Phú Gia, vào thời Hồng Đức (1470-1497), nhà Lê, người Phú Gia có ông 
			Nghĩa Đạt đă đỗ Nhất giáp Tiến sỹ, làm quan Phó đô ngự sử, đă hưng 
			công cho chuyển ngôi đ́nh làng từ chỗ giáp làng Quán La về thân đất, 
			ông gọi là h́nh nhân bái tướng. C̣n chùa An Dưỡng (chùa Bà 
			Già) tọa lạc cạnh đ́nh, trên g̣ Con Quy.
			Về tên làng Phú Gia 
			thời xưa xa, có một dấu vết để lại trong sách Đại Việt sử kư 
			toàn thư, đoạn ghi lại việc năm 1330, về Chiêu Minh Đại vương 
			Trần Nhật Duật: “Duật thích chơi với người nước ngoài, thường cưỡi 
			voi đến chơi thôn Bà Già (thôn này hồi Lư Thánh Tông đánh Chiêm 
			Thành, bắt được người Chiêm cho ở đấy, lấy tiếng Chiêm đặt tên cho 
			là Đa Gia Ly, sau gọi chệch đi thành Bà Già)…” 
			Do chi tiết này, có 
			nhà nghiên cứu đă coi chùa Bà Già là một hồi ức Chăm. Nhưng không 
			hẳn như vậy, các thư tịch cổ có ghi chép, từ thời Lư, vua ta đi b́nh 
			Chiêm vẫn thường mang tù binh và cả những người Chiêm xin theo, về 
			cho ở mạn Tây bắc kinh thành Thăng Long. 
			Sách Đại Việt sử 
			kư toàn thư ghi: “Vua Lư Thái Tông (1028-1054) từ Chiêm Thành 
			về… xuống chiếu cho các chiến tù đều ghép theo bộ thuộc cho ở từ 
			trấn Vĩnh Khang thẳng đến châu Đăng, đặt hương ấp theo các danh cũ 
			của Chiêm Thành”… Vĩnh Khang là miền Từ Liêm, Hoài Đức ngày nay; và 
			“thẳng đến châu Đăng” là kéo thẳng lên vùng Quốc Oai, Quảng Oai, Tam 
			Nông, Hưng Hóa ngày nay.
			Tuy nhiên, cuốn 
			Việt điện u linh của Lư Tế Xuyên, làm quan trong chiều Trần 
			Hiến Tông (1329-1341) chuyên coi giữ việc tế lễ, tham gia việc quản 
			lư bách thần, viết: “Thời Khai Nguyên (713-739), nhà Đường, Thứ sử 
			Quảng Châu là Lư Ngư (thần tích bản xă ghi là Lư Anh) sang làm Đô hộ 
			sứ bên ta, đóng phủ thự ở An Viễn (thần tích ghi là An Dưỡng) khoảng 
			giữa hai huyện Long Đỗ và Từ Liêm. Thấy chỗ đất này bằng phẳng, rộng 
			răi, cây cối tốt tươi, phía sau có sông Đà La (tên cổ của sông Thiên 
			Phù), địa thế đẹp, Ngư sai lập dinh thự và dựng đền, giữa thờ thần 
			vị Huyền Thiên Đế quân…, rồi lại dựng một đền thờ, đặt tượng thần 
			thổ địa để nêu công đức. Đền ấy đặt tên là Đà La quán. 
			Đời Trần, năm Thiệu 
			Long (1258), thiền sư Văn Thao sửa lại đền, đổi là chùa An Dưỡng…” 
			Như vậy, Đà La quán (quán thờ của làng Đà La) đă có từ thế kỷ thứ 
			VIII, và khi đó tên làng Đà La đă có rồi (cũng có thể sông Thiên Phù 
			ở quăng này được gọi theo tên làng, là sông Đà La). Nếu biến âm 
			trong từ Đà La thành Bà Già, th́ vẫn phải ghi nhận hương Bà Già đă 
			có từ trước thời Lư nhiều thế kỷ. 
			Chính v́ gốc gác như 
			vậy mà chùa An Dưỡng của làng Phú Gia c̣n có bức hoành phi cổ khắc 
			ba chữ Bà Già tự, tấm bia Bà Già tự tân tạo khắc 
			dựng năm Dương Ḥa thứ hai 1636, và quả chuông đồng đúc năm 1665.
			
			Ở địa phương lưu 
			truyền câu chuyện kể rằng, khi chùa An Dưỡng bị thời gian, mưa nắng 
			hủy hoại, có 2 bà già đă phát tâm bồ đề bỏ tiền riêng ra tu tạo 
			chùa, dựng thêm tượng Phật, đúc chuông đồng, dựng gác chuông. Quả 
			chuông đúc năm 1665 đó hiện c̣n lưu giữ tại chùa, có khắc chữ “Trùng 
			tạo trú hồng chung”. Để ghi nhớ công đức của hai bà, dân làng có đặt 
			tượng thờ tại chùa, gọi là tượng hậu phật.
			Ngoài bức hoành phi, 
			quả chuông và tấm bia, ở chùa làng Phú Gia hiện c̣n lưu giữ 58 pho 
			tượng tṛn, trong đó có 46 pho tượng Chư Phật, La Hán, Đế Thích và 
			Phạm Thiên, được tạo tác công phu theo nghệ thuật Lê – Nguyễn, sơn 
			thiếp lộng lẫy. Đó là những di vật lịch sử quư, giúp cho hậu thế 
			hiểu được lịch sử sâu xa của một làng quê và vẻ đẹp thiền tịnh của 
			chùa Bà Già.