Điểm đặc biệt là người dân từ miền Bắc vào Thuận Hóa làm ăn, nhưng
ngược lại tất cả các ngài truyền bá Phật pháp, dựng thảo am và lập
chùa chiền th́ đều Đàng Trong ra. Tất cả các ngài đến truyền bá Phật
pháp đều dựng tháo am trong bóng cây rừng rậm rịt đầy cọp, beo, và
rắn độc ấy cả. T́m cho ra được mối liên hệ giữa tinh thần, trí tuệ
của các ngài sơ Tổ với môi trường thiên nhiên “đẹp man dại” đó,
chúng tôi nghĩ là chúng ta đă t́m được sắc thái đặc trưng của chùa
chiền và Phật giáo vùng Huế vậy.
Lại c̣n một yếu tố nữa mà chúng ta phải nghiên cứu lâu theo quan
điểm khoa học địa môi trường (géo-environement) mới có thể giải đáp
được, đó là tại sao tất cả các chùa chiền cơi Thuận Hóa đều ở về mạn
nam sông Phú Xuân cho đến núi Quy Sơn ở chân đèo Ngăi Lănh (tức đèo
Hải Vân hiện nay). Điều này tạo cho chùa Huế có sắc thái vô cùng đặc
sắc, là hàng trăm ngôi chùa đều nằm trên các mơm đồi hoặc sườn đồi
đầy cây cao bóng mát, cảnh trí thiên nhiên u nhàn tĩnh lặng, làm cho
chùa Huế trở thành những nơi bảo vệ được môi trường thiên nhiên
trong lành, mát mẻ; và đường đi lên các chùa trở thành những cảnh
đẹp thiên nhiên tuyệt vời có sức thu hút người đăng lâm văn cảnh.
Chùa Huế Xưa và Nay
Hà Xuân Liêm
Nói đến chùa tháp Phật giáo Thuận Hóa, người ta không thể không trở
lại thời hồng hoang của xứ này. Kể từ đời Đường Nghiêu đến đời Thành
Chu, vùng này là đất Việt Thường Thị, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời
Hán thuộc quận Nhật Nam, đời Tấn là nước Lâm Ấp, đời Tống gọi là
nước Chiêm Thành. Sách Đường thư, phần Địa lư chí chép: “Giáp châu
Hoành Sơn quận, có năm huyện là đất Thuận Hóa bây giờ. Năm huyện
thành ấy là Tây Quyển, Tỵ Ảnh, Chu Ngô, Lô Dung và Tượng Lâm”
Sách Đại Nam nhất thống chí, bản đời Tự Đức cho đất Tỵ Ảnh và Chu
Ngô đời Hán là châu Ô và châu Rí của Chiêm Thành. Các sử quan triều
Nguyễn lại tham khảo rất nhiều thuyết, đem từng địa điểm hiện nay để
so sánh và cho rằng: “Tượng Lâm và Chiêm Thành, tên gọi trước sau
tuy có khác, cùng là một nước, cùng là một số năm thành thuộc quận
Nhật Nam...”.
Như thế, trước năm 1306 phần đất mang tên Ô, Rí vốn đă thuộc về của
ta, nhưng sau mất về tay người Chàm, mà măi đến đời Trần Anh Tông
(1293-1313) vua Chiêm là Chế Mân đă dâng đất ấy để làm lễ cưới công
chúa Huyền Trân th́ hai châu Ô, châu Rí lại trở về với Đại Việt
(1306), đến năm sau (1307) hai châu này được mang tên là Thuận châu
(nửa nam tỉnh Quảng Trị hiện nay); và Hóa châu (toàn tỉnh Thừa Thiên
- Huế hiện nay). Từ đó, tuy đă qua nhiều biến thiên, Thuận Hóa trở
thành nơi gặp gỡ và giao lưu hai nền văn hóa, tín ngưỡng rất khác
nhau trên dăi đất này.
Dân Đại Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và dân Chămpa chịu ảnh
hưởng văn hóa Ấn Độ gián tiếp qua nước Phù Nam ở phần đất Nam bộ
ngày nay, đă tạo thành một nền văn hóa hỗn hợp Việt – Chăm. Chămpa
là một nước rất giàu, tín ngưỡng của họ là “đạo Kiền Nê, đúc người
vàng, bạc to hàng mười ôm để thờ, nấu đem bán có thể hơn mười vạn
cân vàng”. Như vậy, trước lúc Đại Việt tiếp nhận hai châu Ô, Rí th́
ở đây đă có đạo Phật chưa ? Theo Nam Hải kư quy truyện của ngài
Nghĩa Tịnh th́ nước Lâm Ấp tức Chiêm Thành đă có Phật giáo, số đông
theo Chính lượng phái, có ít người theo Hữu Bộ phái.
Tại Sở Bảo tồn văn hóa dân gian của Thành phố Huế hiện nay, có một
tượng Phật bằng đá đỏ, tượng tuy nhỏ nhưng rất đẹp, tạc h́nh đức
Phật ngồi Thiền định trên ba khoanh của vua loài rắn Naga là
Mukalinda, và rắn giương năm đầu che ở bên trên. Tượng Phật này rất
có thể là sản phẩm văn hóa Chămpa, không một chút ǵ tỏ ra ảnh hưởng
Trung Hoa. Lại nữa, tuy một địa điểm rất xa hai châu Ô, Rí là vùng
đất Nha Tlang mà về sau ta gọi là Nha Trang, trại thôn Phúc Khang,
hay Vơ Cạnh, các nhà khảo cổ Pháp ở Trường Viễn Đông Bác Cổ xưa đă
đào được một tấm bia, họ mệnh danh là “Bia Vơ Cạnh”; trên bia khắc
chữ Phạn của nước Lâm Ấp, tức Chămpa cổ đại, có nói đến việc vua Sri
Mara là người bảo hộ Phật pháp.
Như thế, có lẽ người Chămpa đă có theo đạo Phật Đại thừa trước khi
người Đại Việt đặt chân lên đất Ô, Rí. Song hiện nay, ta không hề
t́m gặp Kinh sách Phật bằng tiếng Chămpa hoặc có nhiều tượng Phật
như ở nhiều nơi khác, mà chỉ gặp vô số tượng thần chạm bằng đá c̣n
sót lại mà các nhà khảo cổ đă đào được và trưng bày ở Viện Bảo tàng
cổ vật Huế cũng như Viện Bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng. Những tượng này
đều được chạm khắc bằng đá cứng rất mỹ thuât, đều thuộc về các tín
ngưỡng Sivaisme, Vishnuisme, hoặc Brahmanisme.
Điều này chứng tỏ vào các thế kỷ X, XI và XII tl, người Chămpa đă có
thờ Phật, nhưng chưa nhiều lắm và bị Ấn Độ giáo lấn hẳn ảnh hưởng.
Trên các mơm đồi cao, không kể ở vùng Nam Trung bộ như tháp Phan
Rang, tháp Bà Nha Trang, tháp núi Nhạn Tuy Ḥa, chỉ kể ở địa phận
hai châu Ô, Rí th́ trong sách vở như Ô châu cận lục, Phủ biên tạp
lục chỉ c̣n ghi lại ở trên núi Quy Sơn có tháp cổ của Chămpa, cho
đến đời vua Minh Mạng (1820-1840), trụ biểu trước tháp c̣n dấu tích
chữ Chămpa, tại xóm Bàu Tháp, làng Liễu Cốc Thượng, huyện Hương Trà,
c̣n dấu tích một tháp Chămpa đổ nát; ở làng Trung Đơn, huyện Hải
Lăng, Quảng Trị (Thuận châu) cũng c̣n một tháp Chămpa cao; nhưng tất
cả đều thờ thần nữ hoặc một vị thần nào đó thuộc các tín ngưỡng Ấn
Độ giáo nói trên.
Tuy thế vào thế kỷ thứ X tl. có thể người Chămpa ở vùng Thuận Hóa đă
biết đến đạo Phật từ văn hóa Trung Hoa sang. Bởi v́ vào niên hiệu
Thần Vũ nguyên niên (1069) vua Lư Thánh Tông (1054-1071) đem quân
vào chinh phạt Chiêm Thành, vua Chiêm dâng ba châu Địa Lư, Ma linh
và Bố Chính (Quảng B́nh và Bắc Quảng Trị hiện nay), quân nhà Lư đă
bắt được nhiều tù binh, trong đó có cả một người mà về sau mới khám
phá ra là ngài Thảo Đường, người Trung Hoa theo thầy sang trú tại
Chiêm Thành để truyền bá đạo Phật, Trận này xảy ra ở thành Phật Thệ,
làng Nguyệt Biều hiện nay, tức là đă nằm trong địa vực châu Ô, tức
Hóa châu về sau vậy. Tuy nhiên, từ 1069 đến 1036 tl., trong 237 năm
ấy không có sách nào nói người Chămpa có theo đạo Phật.
Trái lại, người Đại Việt, tuy theo đạo Phật đă lâu, nhưng khi di dân
vào đất Chămpa ở cực nam để lập nghiệp, họ đă mang theo tín ngưỡng
dân gian truyền thống của ḿnh vào để giao lưu và hỗn hợp tín ngưỡng
Chămpa c̣n để lại, thành một thứ tín ngưỡng rất đa tạp. Nói chung là
tín ngưỡng đa thần giáo theo linh hồn thuyết. Từ hốc cây, ḥn đá,
ḍng sông, quả núi, con chim, con rắn, con hổ, cho đến hiện tượng
thiên nhiên như sấm, chớp, mây, mưa, băo, từ “thần cây đa, ma cây
gao, cú cáo cây đề” cho đến bất cứ hiện tượng lạ ǵ đều được dân Đại
Việt thờ lạy cả. “Việc cúng bái th́ dùng xôi gà, lại mở cuộc chầu
văn”.
Tuy nhiên, trong mớ tín ngưỡng đa tạp ấy th́ đạo Phật đă nổi bật lên
là một tôn giáo đàng hoàng. Người Việt lập làng đến đâu, đào giếng
lấy nước uống, trồng cây đa đầu làng, xây đ́nh làng, th́ đều có làm
chùa làng đến đấy. V́ ca dao đă có câu: “Đất vua, chùa làng, phong
cảnh Bụt”. Lại xét trong ngôn ngữ Việt đă có thêm tiếng: “chùa,
chuông, mơ, Bụt, ông Sư, bà Văi, Thứu Lĩnh, Tào Khê,...”. Như vậy,
cho đến khoảng trước đời Trần, cơi Thuận Hóa chắc có nhiều chùa thờ
Phật. “Chùa đất Phật vàng”, tức là kiểu kiến trúc chùa bằng gỗ,
tranh thấp bé theo văn hóa Đại Việt. Bốn xung quanh th́ đắp phên,
rồi trét đất trộn rơm, rất khác với lối kiến trúc bằng gạch nung của
tháp Chămpa.
Sách Ô châu cận lục của Dương Văn An nhuận chính năm Ất Măo, niên
hiệu Cảnh Lịch đời Mạc (1555) ở mục “Phong tục tổng luận” có kể rất
nhiều chùa, nhưng đa số là ở Tiên B́nh (tức Quảng B́nh ngày nay).
Tại Thuận Hóa, tức là Quảng Trị Và Thừa Thiên - Huế hiện nay th́ ông
chỉ nói đến “chùa Dă Độ”, có lẽ ở làng Dă Độ, huyện Triệu Phong ngày
nay, “chùa Thiên Mỗ” ở phía nam xă Giang Đạm, huyện Kim Trà, “chùa
Sùng Hóa cổ truyền” ở làng Triêm Ân, huyện Tư Vinh là một quốc tự,
“chùa Tư Khách” ở cửa Tư Khách, ( tức là cửa Tư Dung, nay là cửa Tư
Hiền).
Tất cả đều được ông dùng hai chữ “chùa xưa” hay “chùa cổ”, ông lại
dùng chữ “Thiền lâm” chứng tỏ đạo Phật ở Thuận Hóa vào thời nhà Trần
(1306) trở đi đă thịnh, có nhiều chùa thuộc về Thiền tông. Hơn nữa,
các chùa lớn thời này, ở vùng Tiên B́nh, Thuận Hóa, đă có đặt một
chức quan coi giữ chùa gọi là “Tự chính’’. Không thấy nói đến các
nhà sư, cách tu hành và không có “Tăng” trú tŕ như về sau... Đến
năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn phương Nam th́ ông chẳng để ư ǵ đến
Phật giáo, cho nên nhiều chùa cổ sập nát mà sách vở th́ cũng không
ghi chép.
Măi đến năm Tân Sửu (1601), gần như là một hành động có mang màu sắc
chính trị, ông mới cho sửa chùa Thiên Mụ và tung ra một huyền thoại
rất có lợi cho ông. Năm sau (1602), ông cho sửa chùa Sùng Hóa và mở
hội Đại pháp ở chùa này. Rất tiếc là sách không ghi chép tên các nhà
sư đă có mặt trong các buổi lễ lớn đó...Măi đến đời Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687), Cảnh Trị năm thứ tư, nhà Hậu Lê, Bính Ngọ (1666), nhân
đi chơi cửa biển Tư Dung, tức là cửa Tư Khách, chúa đă cho sửa chùa
Ḥa Vinh – có thể là chùa Tư Khách xưa -- rất là rộng đẹp. Đến năm
Chính Ḥa thứ chín, Mậu Th́n (1688), chúa Phúc Thái (1687-1691) cho
sửa chữa chùa Thuận An vốn đă có từ trước. Nay th́ chùa này dường
như đă mất hẳn dấu tích.
Ngoài ra, vào thời các chúa Nguyễn, xứ Thuận Hóa, ngoài vô số chùa
làng, lại c̣n có nhiều chùa công như chùa Kim Long, chùa Quang Xuân,
chùa Hà Trung, chùa nào cũng có đặt chức “Tăng lục” do Ty Tăng lục
coi sóc. Từ khoảng này trở về sau, cơi Thuận Hóa bắt đầu có nhiều
“thảo am”, h́nh thức sơ khai của những ngôi chùa, như thảo am của
Giác Phong Lăo Tổ ở trên núi Hàm Long, về sau trở thành chùa Báo
Quốc, đời Gia Long (1802-1819) đổi thành chùa Thiên Thọ, kể từ đời
Minh Mạng (1820-1840) đổi lại là chùa Báo Quốc cho đến nay.
Thảo am của ngài Minh Hoằng Tử Dung, về sau thành chùa Ấn Tông, năm
Thiệu Trị nguyên niên (1841) đổi thành chùa Từ Đàm cho đến nay. Thảo
am của ngài Khắc Huyền, về sau trở thành chùa Thiền Lâm, đời chúa
Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) chùa đă có lúc trở thành Thiền Lâm Thiền
Viện, là vùng đất trước chùa Từ Đàm lên tới đàn Nam Giao. Lại có
thảo am của ngài Từ Lâm, sau trở thành chùa Từ Lâm cho đến nay. Thảo
am của ngài Nguyên Thiều tức chùa Vĩnh Ân ở Phú Xuân Sơn, sau lại
được chúa Nguyễn đổi thành “Quốc Ân Tự”, từ khoảng 1689 cho đến nay.
Đạo Phật do các ngài truyền đến th́ hoặc là thuộc phái Tào Động hoặc
là thuộc phái Lâm Tế, mà đa số là thuộc phái Lâm Tế. Nhưng dù Tào
Động hay Lâm Tế, cũng đều thuộc Thiền tông.
Tất cả nằm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVII, đầu thế kỷ thứ XVIII tl.
Vào cuối thế kỷ thứ XVII tl., cơi Thuận Hóa đă là nơi mà “chùa chiền
khắp xứ, săi văi đầy đoàn”, Nhưng chắc chắn tinh thần Phật giáo có
phần lưu tệ, nên mới có tờ bố cáo của ngài Thạch Liêm tŕnh chúa
Nguyễn Phúc Chu vào năm Ất Hợi (1695), lại có cuốn văn lục bát Săi
văi của Nguyễn Cư Trinh... có lẽ chúng ta không ai chối căi sự thực,
song cả ngài Thạch Liêm lẫn Nguyễn Cư Trinh đều có cái nh́n hơi
thiên lệch: hoặc là từ khía cạnh nhà Nho thuần túy đến (Nguyễn Cư
Trinh), hoặc là từ khía cạnh Tam giáo đồng qui có pha lẫn chính trị
đến (ngài Thạch Liêm).
Có một điều rất đặc biệt là dân Đại Việt từ miền Bắc vào Thuận Hóa
làm ăn, nhưng ngược lại tất cả các ngài truyền bá Phật pháp, dựng
thảo am và lập chùa chiền th́ đều Đàng Trong ra. Không hiểu các ngài
Giác Phong, Từ Lâm, Khắc Huyền, Minh Hoằng... đă từ Trung Quốc đáp
thuyền buôn sang đổ bộ ngay Thuận Hóa, hay lên Hội an rồi mới ra
Thuận Hóa; chứ kể từ ngài Nguyên Thiều vào Quy Ninh (1677), ngài
Liễu Quán ở Phú Yên th́ đều do Đàng Trong đi theo thuyền buôn đến
Thuận Đô bằng cửa Tư Dung lên.
Chính ngài Thạch Liêm cũng định đáp vào Quảng Nam, nhưng sau nhờ
thuận gió mới đáp vào đất Thuận Hóa (1695). Lại c̣n một yếu tố nữa
mà chúng ta phải nghiên cứu lâu theo quan điểm khoa học địa môi
trường (géo-environement) mới có thể giải đáp được, đó là tại sao
tất cả các chùa chiền cơi Thuận Hóa đều ở về mạn nam sông Phú Xuân
cho đến núi Quy Sơn ở chân đèo Ngăi Lănh (tức đèo Hải Vân hiện nay).
Điều này tạo cho chùa Huế có sắc thái vô cùng đặc sắc, là hàng trăm
ngôi chùa đều nằm trên các mơm đồi hoặc sườn đồi đầy cây cao bóng
mát, cảnh trí thiên nhiên u nhàn tĩnh lặng, làm cho chùa Huế trở
thành những nơi bảo vệ được môi trường thiên nhiên trong lành, mát
mẻ; và đường đi lên các chùa trở thành những cảnh đẹp thiên nhiên
tuyệt vời có sức thu hút người đăng lâm văn cảnh.
Hiện nay th́ vậy, nhưng trở về các thế kỷ thứ XVII, XVIII tl., chúng
ta lại thấy các dăy đồi Hàm Long Sơn, Hoàng Long Sơn, Ngũ B́nh Sơn,
Phú Xuân Sơn, Ngũ Phong Sơn, Thiên Thai Sơn tuy đă có tên hay, nhưng
đều là những nơi “sơn lâm bóng cả cây già, với tiếng gió gào ngàn,
với giọng nguồn hét núi” (thơ Thế Lữ). Lối đi từ nơi này sang nơi
khác chỉ là đường ṃn lối nhỏ len lỏi trong rừng rậm như ngài Thạch
Liêm đă tả : “Lối tiều quanh núi khi mờ tỏ”, chứ chẳng có đường sá
ǵ! Thế nhưng, tất cả các ngài đến truyền bá Phật pháp đều dựng tháo
am trong bóng cây rừng rậm rịt đầy cọp, beo, và rắn độc ấy cả. T́m
cho ra được mối liên hệ giữa tinh thần, trí tuệ của các ngài sơ Tổ
với môi trường thiên nhiên “đẹp man dại” đó, chúng tôi nghĩ là chúng
ta đă t́m được sắc thái đặc trưng của chùa chiền và Phật giáo vùng
Huế vậy.
Ngay như ngài Liễu Quán, người Đại Việt, phủ Phú Yên thời các chúa
Nguyễn ở Phương Nam, đi theo thuyền buôn ra Thuận Đô cũng đă ở thảo
am Viên Thông dưới chân Ḥn Mô (tức Ngự B́nh), rồi lại vào khai sơn
thảo am ở núi Thiên Thai nổi tiếng nhiều cọp dữ, ăn rong khe, uống
nước suối độc, quyết chí tu hành đến đắc đạo. Được ngài Minh Hoằng
Tử Dung ấn khả Tâm tông, ngài Liễu Quán đă trở thành một vị Tổ của
cả một phái Thiền gọi là Thiền Tử Dung-Liễu Quán, rất long thịnh
suốt cả một dăi đất Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII, XIX tl. cho đến nay.
Thảo am xưa của ngài ở núi Thiên Thai, chính là Tổ đ́nh Thuyền Tôn,
tức là Thiên Thai Thiền Tông Tự đă được các chúa Nguyễn “sắc tứ”, và
đă tồn tại hơn hai trăm năm nay. Cho đến hiện tại, hàng trăm ngôi
chùa Huế ở vùng núi đồi mạn nam sông Hương đều thuộc ḍng kệ của
ngài.
Chùa chiền ở Thuận Hóa vào đời các chúa Nguyễn đă có rất nhiều,
người xuất gia cũng rất đông. Song đến khi Trịnh vào xâm chiếm Phú
Xuân và nhất là thời Tây Sơn (1786-1801) th́ Phật giáo Thuận Hóa cơ
hồ rơi vào t́nh trạng đồi phế. Măi đến khi Gia Long lên ngôi (1802)
trở về sau, các chùa ở vùng Thuận Hóa mới lần hồi được sửa sang và
trùng hưng. Bà Hiếu Khương Hoàng thái hậu, mẫu hoàng của vua Gia
Long, cho sửa chùa Báo Quốc và cho đổi thành Hàm Long Thiên Thọ Tự.
Long Thành công chúa, chị em cùng mẹ với vua Gia Long, vào năm 1805
đă cúng 300 quan tiền để trùng tu cùa Quốc Ân và lập một Tăng đoàn ở
chùa này.
Chùa Thiền Lâm, chùa Kim Tiên lại được Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, mẹ
Hoàng tử Cảnh bỏ của riêng ra để trùng tu và sửa sang lại. Một quả
chuông đồng cao bốn thước, ḿnh tṛn sáu thước, dày bốn tấc, có khắc
chữ “Lê Vĩnh Thịnh thập nhị niên chú” do vua Gia Long chở từ Bắc
Thành về để trong kho, sau khi trùng tu xong chùa Thuyền Lâm th́ đem
treo ở đây, nhưng nay cũng không c̣n.
Trong giới xuất gia th́ Ḥa thượng Đạo Trung đă sửa chữa chùa Ấn
Tông - Từ Đàm, Ḥa thượng Đạo Thành trùng hưng chùa Từ Lâm, Ḥa
thượng Đạo Thiện sửa lại chùa Viên Thông, Ḥa thượng Đại Huệ trùng
hưng chùa Thuyền Tôn. Năm Gia Long thứ 14, chính nhà vua cho tái
thiết chùa Thiên Mụ. Năm Gia Long thứ hai (1803) chùa Long Quang ở
xă Xuân Ḥa được trùng hưng. Long Quang là một ngôi chùa cổ, thời
chúa Duệ Tông đă có trùng tu và cho biển ngạch “Sắc tứ Long Quang
Tự”, lại có biển treo ở tầng trên của chùa có bốn chữ lớn “Tuệ Chiếu
Nam Thiên”; vào năm Khải Định thứ ba (1918) chùa này bị triệt bỏ,
nay c̣n dấu tích.
Chùa Hà Trung, chùa núi Thúy Vân lần lượt đều được trùng hưng khang
trang rộng rải hơn xưa. Nhiều vị công chúa dưới triều Minh Mạng
(1820-1840) cũng đă cúng dường tiền bạc của cải để trùng tu hoặc xây
dựng nhiều chùa ở Huế. Bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, mẫu hậu của vua
Minh Mạng đă bỏ tiền của ra sửa lại chùa Khánh Vân ở sơn phận xă Lựu
Bảo, chùa Quang Bảo ở xă Kim Long, chùa Bảo Sơn ở xă An Ninh, chùa
Quang Đức ở xă An Vân Hạ, đều thuộc huyện Hương Trà.
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chúa tự hiệu là Từ Tế
Đạo Nhân, các chùa này đă được chúa ban cho biển vàng “sắc tứ” và
hiệu chùa; qua triều Tây Sơn đổ nát, cũng đến thời Gia Long mới được
trùng tu. Ngoài ra lại có Ngọc Ngôn công chúa tức An Mỹ Thái trưởng
công chúa sửa chùa Huệ Lâm; Diên Phúc công chúa sửa chùa Viên Giác
do Tỳ kheo Liễu Quán dựng trong vùng chùa Vạn Phước hiện nay; Định
Ḥa công chúa Ngọc Ky (hay Cơ) sửa chùa Đông Thuyền; Ngọc Nguyệt
công chúa sửa chùa Phổ Quang; Ngọc Duệ công chúa sửa chùa Thiên Thai
Ngoại ở núi Kim Long, phía tây bắc huyện Hương Thủy (nay chùa đang
c̣n ở về phía tay trái mạn gần Cầu Lim, kể từ Huế lên). Năm Minh
Mạng thứ mười bảy, chùa Trấn Hải ở núi Quy Sơn, và chùa Thánh Duyên
ở Thúy Vân Sơn được xây dựng trên dấu tích chùa cổ.
Người ta phải công nhận một sự thật rất hiển nhiên là dưới thời các
vua nhà Nguyễn, kể từ Gia long (1802) cho đến Duy Tân (1916) chùa
chiền ở vùng Huế phát triển mạnh. Ngoài việc trùng tu, tái thiết và
sửa chữa nhiều chùa đă nói ở trên, c̣n có việc xây dựng thêm như:
chùa Giác Hoàng, dựng năm Minh Mạng thứ hai mươi tại phường Đoan Hà
(sau cải là phường Thái Trạch, nay là phường Thuận Thành). Giác
Hoàng có nghĩa là ông vua đă giác ngộ, v́ vua Minh Mạng cho rằng
kiếp trước của ḿnh là thầy tu. Vua Thiệu Trị (1841-1847) có là bài
thơ “Giác Hoàng Phạn ngữ” để ca ngợi tiếng tụng Kinh ở chùa Giác
Hoàng. Đến ngày 14-6-1885 chùa bị triệt bỏ, hiện c̣n dấu tích là Tam
Ṭa. Chùa Diệu Đế dựng đời Thiệu Trị.
Chùa Từ Hiếu dựng năm Tự Đức nguyên niên (1848), và c̣n vô số chùa
khác. Trái lại, cũng có rất nhiều chùa danh tiếng vào thời cổ đă bị
bỏ phế, hoang tàn một độ rồi mất luôn dấu tích như chùa Sùng Hóa,
chùa Kim Quang, chùa Tây Thiền, chùa Huệ Minh, chùa Trấn Hải ở núi
Linh Thái gần núi Quy Sơn, chùa Bạch Vân ở trước am Bạch Vân tại núi
Phụ Ổ, phía bắc huyện Hương Trà do chúa Nguyễn Phúc Khoát dựng, có
phong cảnh khá đẹp, chúa thường ngự lên chơi ở đấy, hiện c̣n dấu
tích; chùa Diên Thọ ở làng Hải Cát đều thuộc huyện Hương Trà.
Tại Kinh thành có Linh Hựu Quán ở phía bắc sông Ngự Hà, thuộc phường
Ân Thịnh (nay là Tây Linh, phường Thuận Lộc), dựng từ năm Minh Mạng
thứ mười, phía hữu có gác Tường Quang, phía tả có gác Từ Vân, trước
mặt trông ra sông Ngự Hà. Đến đời Thiệu Trị, vua có làm bài thơ
“Linh Quán khánh vận” khắc vào bia đá và dựng ở phía tả Quán, Ḥa
thượng Nhất Định đă được cấp giới đao và độ điệp, và sung chức Tăng
cang Linh Hựu Quán này trong một thời gian.
Đời vua Thành Thái (1889-1906) Linh Hựu Quán đi vào đồi phế rồi bị
sụp đổ; ông Ngô Đ́nh Khả xin nhà vua cấp cho vùng đất này để làm từ
đường, song đến đời vua Duy Tân (1906-19i6) th́ ông này đem làm nhà
thờ Thiên chúa giáo mà không làm từ đường trên đất ấy như lời ông đă
xin với nhà vua. Bị Bộ Lễ và Bộ Công phản đối kịch liệt, ông bị biếm
chức và nhà thờ Thiên chúa giáo phải triệt hạ, nhưng việc chưa đi
đến đâu th́ vua Duy Tân bị buộc phải tốn vị và bị lưu đày sang châu
Phi, cùng chỗ với phụ hoàng Thành Thái của ngài. Đến năm Khải Định
thứ ba (1918), nhà vua xuống chỉ dụ phế bỏ Linh Hựu Quán. Trong năm
Duy Tân thứ hai (1907), có chùa Ngọc Sơn ở gần chùa Thiên Mụ cũng bị
bỏ (theo Châu bản triều Nguyễn).
Hiện nay ở Huế có khoảng vài trăm ngôi chùa lớn và nhỏ. Bao mhiêu
tượng Phật, tượng Bồ Tát, chuông, khánh đồng, khánh đá và nhiều văn
vật khác của Phật giáo các thời Lê, Trịnh, Nguyễn c̣n lại đang được
thờ tự và bảo quản tại các chùa Huế trở thành một kho tàng vô giá về
văn hóa của Phật giáo Thuận Hóa. Ngoài ra, chúng ta lại c̣n có vô số
biển hiệu chùa có nhiều mô-tip mỹ thuật các triều đại đó. Hàng trăm
câu đối với nét chữ thuộc loại bút thiếp (chữ đẹp). Văn bia của các
vua chúa ngự đề, của các nhà đại Nho thâm hiểu Phật pháp ghi chép
lại lịch sử chùa khi chùa được trùng tu; lại có nhiều yếu tố liên
quan đến tiểu sử các vị danh tướng như Điện Tiền Thái Bảo Giá Ngự
Quận Công Vơ Văn Dũng của triều Tây Sơn khắc trên chuông chùa làng
La Chử, có cả tên tướng quân phu nhân Lê Thị Vy; như tên các vị Đô
Đốc đời Tây Sơn khắc trên chuông chùa làng Hạ Lang; lại c̣n tên của
các vị anh hùng yêu nước...
Nhiều tập thơ của các vị Thiền sư đời trước để lại như “Lược Ước
tùng sao” của Viên Thành Thượng Nhân chùa Tra Am; tập “Thủy Nguyệt
tùng sao” của ngài Bích Phong chùa Quy Thiện, thơ hay, đẫm phong
cách Thiền, chữ viết xương kính...những câu đối rất hay của Sào Nam
Phan Bội Châu, đều là những của báu trong kho tàng văn học Phật giáo
Thuận Hóa. Lại c̣n nhiều bản gỗ khắc Kinh, Luật, Luận như “Pháp Bảo
Đàn Kinh”, “Đại Thừa Vô lượng nghĩa Kinh”... và nhiều bộ khác ở chùa
Từ Hiếu; “Tứ Phần Luật” và nhiều bộ khác ở chùa Viên Thông, chùa
Quốc Ân; bộ “Hàm Long Sơn Chí” của Điềm Tịnh Cư Sĩ và Như Như Đạo
Nhân biên soạn vào cuối thế kỷ thứ XIX tl. v.v...
Nhất là cách kiến trúc chùa viện theo kiểu chữ “khẩu”, chữ “nhất”,
chữ “tam”, chữ “liễu”; những tiền đường hay điện thờ làm kiểu nhà
“trùng lương” hay c̣n gọi là “trùng thiềm điệp ốc” là kiểu đặc trưng
của Huế, không đâu có. Lại c̣n cách tŕnh bày nóc với các mô-tip
“lưỡng long chầu mặt nguyệt”, “lưỡng long chầu Pháp luân”, các vật
linh quy, phụng, lân, các kiểu hoa sen; mái lợp ngói âm dương có màu
ảnh hưởng kiểu kiến trúc cung đ́nh của các triều vua chúa để lại.
“Hoa sen”, “chữ Vạn”, “hồi văn chữ vạn”, “lá sen”, “trái Phật thủ”,
“lá bồ đề”, “Pháp luân”, “hải triều”, “hỏa luân”,”bầu cam lồ” là
những đề tài, những mô-tip thuần Phật giáo tạo cho chùa Huế có nhiều
sắc thái độc đáo cần được giới nghiên cứu văn hóa quan tâm và nghiên
cứu tỉ mỉ với thời gian lâu dài để góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam
một nét rất đặc biệt, không thể bỏ qua được.
Mặt khác, tinh thần Phật giáo và tín ngưỡng Phật giáo, tín đồ ở Huế
cũng là một đề tài có thể viết thành những tập sách dày, rất cần
làm. Nhưng!.. sức một vài người không sao làm nỗi những công việc
trên này, cho dù lẻ tẻ đó đây cũng đă có ít nhiều sách báo của nhiều
nhà thức giả, nhiều bậc tu hành đă công bố hoặc đang thực hiện âm
thầm; nhưng chúng tôi nghĩ không sao gọi là đủ vậy.
Hà Xuân Liêm
_________
Sách tham khảo:
Quốc Sử Quán, Đại Nam nhất thống chí, q.II, trg. 78-79, Thừa Thiên
Phủ, bản dịch của Viện Sử Học, Nxb KHXH, Hà Nội, 1969.
Nguyễn Trăi toàn tập, trg.643. Viện Sử Học biên dịch và chú giải,
Nxb. KHXH. Hà Nội, 1969.
Đại Nam Nhất Thống Chí, trg 115.
An Nam chí lược, 415, tờ 7.
Dương Văn An, Ô châu cận lục, trg. 43; bản dịch của Bùi Lương, Văn
Hóa Á Châu xb, Sài G̣n, 1961.
Lê Quư Đôn, Phủ biên tạp lục, trg. 113; Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1977.
Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, trg. 40. Bản Việt UBSLVN, Viện Đại
Học Huế xb, 1963.
Thích Đại sán, Sđd. trg. 46,47,48,48 và 50. Quốc Sử Quán, Đại Nam
nhất thống chí, trg. 178,179,180.
Quốc Sử Quán, Sđd. trg. 71
Lư Kim Hoa, Châu bản triều Nguyễn, tư liệu Phật giáo, từ trg. 872
đến trg. 879. Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003. |