Chùa 
        Trúc Lâm ở về phía tây nam cách thành phố Huế khoảng 5km, tọa lạc trên 
        đỉnh đồi Dương Xuân Thượng thuộc làng Thuận Ḥa, xă Thủy Xuân, huyện 
        Hương Thủy.
        Đồi Dương Xuân Thượng nằm lọt thỏm 
        giữa những ngọn đồi và núi bao quanh. Phía bắc giáp dốc Cầu Lim và đàn 
        Nam giao; phía nam giáp đồi lăng mộ cụ thượng thư Hồ Đắc Trung và vùng 
        núi Ngũ Tây, Thần Phù, Phú Bài; phía đông có núi Thiên Thai và vùng núi 
        đá vôi và phía tây có đồi Thiên An, núi Kim Phụng mà xa hơn là dăy 
        Trường sơn Nam. Sườn đồi Dương Xuân h́nh ṿng cung , dưới chân đồi có 
        khe suối uốn khúc chảy từ hướng nam bắc ṿng qua dưới Cầu Lim vào địa 
        phận Dương Xuân Hạ trước khi đổ ra sông Hương.  
        Cách đây hơn nửa thế kỷ về mùa mưa 
        suối chảy xiết nước đổ ầm ầm, đến mùa khô hanh nước cạn dần, suối trở 
        thành khe nước trong vắt ngọt lịm có thể thấy đá cuội dứới ḷng khe và 
        những đàn cá nhỏ tung tăng rượt đuổi nhau. Hai bên bờ suối là một dăi 
        cát trắng phau nhất là ở trước mặt tiền của chùa, c̣n ở nơi khác th́ cát 
        chen lẩn với đá cuội đủ màu sắc (từ đen tuyền cho đến trắng bạch, xanh 
        ngọc, xám, nâu vàng tím ...) to nhỏ tṛn lép hay có những h́nh thù góc 
        cạnh khác thường trông rất lạ mắt đúng là:  
        
          Trước mặt bờ khe 
          phơi cát trắng  
          Sau lưng cḥm núi 
          rợp cây xanh. 
         
        Đến thập niên 60 thế kỷ trước, sư 
        ông trù tŕ chùa Trúc Lâm là Ḥa thượng Thích Mật Hiển cho ủi san bằng 
        khu đất trước cổng chùa bên dưới chân đồi và đào sâu xuống thành một cái 
        hồ h́nh chữ S. Sư ông c̣n đắp một con đường đi ṿng quanh hồ, hai bên bờ 
        trồng trúc, tre la ngà, dương liễu. Mé phải đầu con đường thiền hành này 
        sư ông có cho dựng một cột đá có khắc chữ h́nh như  là ba chữ Trúc Lâm 
        Tự. Lâu ngày cột đá đổ xuống không rơ tấm bia nay c̣n hay đă mất.
         
        Gần một thế kỷ khi mới lập chùa 
        Trúc Lâm, chổ đó chỉ là một cái am lá thô sơ nằm trong một khu rừng 
        hoang vắng rậm rạp tre trúc dày đặc. Chung quanh am là đồi núi khe suối 
        chia cắt, theo đường chim bay th́ từ kinh đô đến chùaTrúc Lâm c̣n xa hơn 
        chùa Tra Am của sư Viên Thành ở dưới chân núi Ngự B́nh. Ít người đến 
        được nơi đây hoặc muốn tới phải băng rừng lội suối vạch lau sậy đi theo 
        lối ṃn của tiều phu hay thợ săn.  
        Đồi Dương Xuân là đất b́a rừng của 
        dăy Trường Sơn, đứng trên núi Ngự B́nh hay trên đỉnh Thiên Thai nh́n về 
        phía tây là có thể định vị đỉnh đồi Dương Xuân Thượng nếu như có một 
        tiều phu nào đó đốt củi làm than trên đó.  
        Tồ khai sơn chùa là Thiền sư Giác 
        Tiên, câu chuyện ngôi chùa được thành lập là một hạnh duyên cực kỳ lư 
        thú :  
        
         Nguyên 
        vào mùa xuân năm Ất Mùi (1895) triều Thành Thái, chùa Phổ Quang ở dốc 
        Bến Ngự càng ngày càng hư hỏng. Theo tương truyền là một thảo am của ông 
        Nguyễn Hữu Hào (Đôn Hậu Công Thần Trấn Thủ sinh năm 1642 mất năm 1712 
        tức anh ruột của Nguyễn Hữu Cảnh ngưởi khai sinh ra thành phố Saig̣n) 
        tác giả của một truyên thơ bằng chữ Nôm truyền đời đó là truyện Song 
        Tinh  (một tác phẩm văn học cổ nước ta trước cả truyện Hoa Tiên và 
        truyện Kiều hơn một thế kỷ). Lúc ấy, tự trưởng là Chánh Động Đại sư đem 
        ngôi chùa cúng dường cho đại lăo ḥa thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu. Bấy 
        giờ có một tỳ kheo ni là bà Hồ Thị Nhàn người làng Chuồn ( An Truyền, 
        Phú Vang, Thừa Thiên) con ông Hồ Đắc Tuấn và bà Công Nữ Thức Huấn, cháu 
        ngoại của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Bà sinh năm 1863 kết duyên cùng 
        ông Nguyễn Đôn Lư, sau ngày chồng mất bà xuất gia thụ giáo với ḥa 
        thượng Cương Kỷ chùa Từ Hiếu (1898) pháp danh Thanh Linh hiệu Diên 
        Trường. Bà xin phép đại lăo ḥa thượng được trùng tu chùa Phổ Quang. 
        Điện Phật, cửa chùa, nhà tăng, buồng bếp, ảnh tượng, đồ thờ được sửa 
        sang trang nghiêm đầy đủ. Bà lại đem chuyện đó tâu lên với đức Thái 
        hoàng Thái hậu Trang Ư Thuận Hiếu xin ban cho hai mẫu ruộng chi dùng vào 
        việc đèn hương... Đấy cũng là thời điểm đang mở đường xe lửa chạy ngang 
        qua dưới chân đồi của chùa Phổ Quang, nơi ấy trở nên thị tứ ồn ào đông 
        đúc, dân cư tụ tập, chơ búa ghe thuyền tấp nập...  nên sư bà Diên Trường 
        t́m đường rẻ lối tới chốn sơn lâm cùng cốc xa hơn lập một thảo am khác 
        để tiếp tục tu hành. Duyên lành đă hạnh ngộ trên đỉnh đồi Dương Xuân là 
        vậy, khi thảo am đă xong sư bà Diên Trường mời sư Giác Tiên về làm trụ 
        tŕ và sư cũng là tổ khai sơn của chùa Trúc Lâm ngày nay.  
        Trước khi về nhận chùa, sư Giác 
        Tiên đă cùng sư cụ Diên Trường du hành đó đây. Khi đến Trúc Lâm Yên Tử (một 
        trung tâm Phật Học dưới triều đại nhà Trần) hai vị đă lưu lại một thời 
        gian, sưu tầm một số pháp bảo quư giá như kinh điển, pháp khí. Trở về 
        Huế, sư đă quyết định đặt tên chùa là Trúc Lâm Đại Thánh, có ư liên hệ 
        với Trúc Lâm tinh xá thời Phật c̣n tại thế và thiền phái Trúc Lâm ở Yên 
        Tử nước ta do Trúc Lâm Đầu Đà Đại Sĩ (hiệu của vua Trần Nhân Tông) thiết 
        lập.  
        Tổ khai sơn pháp danh Trừng Thành, 
        tự Chí Thông thuộc ḍng Lâm Tế chánh tông đời thứ 42. Sư thế danh Nguyễn 
        Duy Quyển sanh năm 1879 tại làng Dạ Lê Thượng, Thủy Phương, Hương Thủy. 
        Lên 4 tuổi th́ song thân mất, phải về ở với ông bà đến năm 11 tuổi 
        (1890) xin xuất gia và được thọ giáo với tổ sư Tâm Tịnh (đời thứ 41 
        thuộc ḍng Lâm Tế, người khai sơn tổ đ́nh Tây Thiên). Đầu tiên ngài được 
        tu học tại tổ đ́nh Từ Hiếu, nơi ngài Hải Thiệu đang làm trụ tŕ và ngài 
        Tâm Tịnh làm giám tự. Năm 14 tuổi ngài được tổ cho thọ giới Sa-di. Năm 
        1907, Ḥa thượng đàn đầu Vĩnh Gia tổ chức đại giới đàn tại chùa Phước 
        Lâm tỉnh Quảng Nam, ngài được cho đăng đàn thọ cụ túc giới. Tại đây ngài 
        được cử làm thủ chúng Sa-di khi vừa 28 tuổi.  
        Năm 1918 sư mở đại giới đàn tại 
        chùa Từ Hiếu, mời Ḥa thượng Tâm Tịnh làm đàn đầu. Năm 1924  vân tập đại 
        Tăng an cư kiết hạ tại chùa, năm sau sư được chiếu chỉ của triều đ́nh 
        mời làm trú tŕ ngôi quốc tự Diệu Đế.  
        Năm 1926, sư cho trùng tu toàn bộ 
        Phật điện và tăng xá chùa Trúc Lâm. Đến năm 1928 ngài biến Trúc Lâm 
        thành nơi đào tạo tăng tài. Năm Kỷ Tỵ 1929, ngài vào Tổ đ́nh Thập Tháp ở 
        B́nh Định mời Ḥa thượng Phuớc Huệ ra Huế làm chủ giảng. Năm 1930, sư 
        khuyến khích và giúp đỡ sư bà Diệu Hương xây dựng và mở Ni trường Diệu 
        Đức.  
        Năm 1931, sư là người đầu tiên 
        khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo và vận động thành lập Hội An 
        Nam Phật học, thỉnh nhiều vị thiền sư tài đức về chung lo Phật sự. Năm 
        1932, nhờ sự giúp đỡ của bà Từ Cung (Đoan Huy Hoàng Thái hậu), vua Bảo 
        Đại cho phép An Nam Phật học hội ra đời do sư đứng đầu, trụ sở đầu tiên 
        đặt tại chùa Trúc Lâm Huế. Năm 1933, sư ủy cử thiền sư Mật Khế vị đệ tử 
        xuất sắc của ngài mở trường An Nam Phật học sơ cấp tại chùa Vạn Phước. 
        Năm 1934 vua Bảo Đại ban sắc chỉ đặt tên chùa là "Sắc tứ Trúc Lâm Đại 
        Thánh tự ".  
        Năm 1935, pháp sư Trí Độ đảm nhiệm 
        chức vụ Đốc giáo sau khi trường dời từ chùa Túy Vân (chùa Thánh Duyên ) 
        về chùa Báo Quốc. Trong năm này sư cùng đệ tử Mật Khế tổ chức trường An 
        Nam Phật học tại Trúc Lâm, thu nhận 50 học tăng. Đến cuối năm ngài lại 
        quy tụ các học tăng có tŕnh độ cao về Trúc Lâm để mở thêm cấp Đại học 
        Phật giáo, và đó là lớp Đại học Phật giáo đầu tiên có tại miền Trung. 
        Ngoài vị đệ tử lớn của sư là thiền sư Mật Khế, c̣n có vị đệ tử tại gia 
        rất xuất sắc là Bác sĩ Lê Đ́nh Thám, người đă soạn thảo chương tŕnh tu 
        học cho thanh thiếu niên Phật tử. An Nam Phật học hội đă hơn một lần tổ 
        chức một đại lễ Phật đản lớn chưa từng có ở Huế.  
        An Nam Phật học hội qui tụ được 
        nhiều nhà tu hành uyên bác như các Thiền sư Mật Khế, Mật Thể, Đôn Hậu, 
        Diệu Hương, Diệu Không... các cư sĩ như Tiến sĩ Đinh Văn Chấp, Nguyễn 
        Khoa Tân, Bửu Bác... và ra báo Viên Âm, tổ chức các buổi thuyết pháp, 
        dịch Kinh sách  
        Ngày 2 tháng 10 năm Bính Tư, sư 
        cho quy tụ đồ chúng để nghe giảng kinh Pháp Bảo Đàn. Hai hôm sau khi 
        giảng xong phẩm Bát nhă, sư nh́n từng đệ tử để truyền kệ và vào lúc 20 
        giờ ngày mùng 4 tháng 10 niên hiệu Bảo Đại thứ 11 (tức ngày 17.11.1936) 
        sư thị tịch lúc 57 tuổi trong lúc đang đảm nhận trách vụ trú tŕ hai tổ 
        đ́nh Trúc Lâm - Diệu Đế và chứng minh đạo sư cho hội An Nam Phật học.
         
        Với công hạnh và đức độ của sư, 
        ngài Tâm Tịnh đă phó pháp bài kệ sau :  
        
          Giác đạo kiếp 
          không Tiên  
          Không không bát nhă 
          Thuyền  
          Quả nhân phù hạnh 
          giải  
          Xứ xứ tức an nhiên.
           
          (Đường giác kiếp không trước, 
          thuyền bát nhă không không, hạnh giải hợp nhân quả, ở đâu cũng thung 
          dung). 
         
        Ông Nguyễn Lang viết : "Thiền sư 
        Giác Tiên có thể gọi là người đă khởi xướng phong trào chấn hưng Phật 
        giáo miền Trung. Thiền sư hướng đạo cho hội An Nam Phật học được bốn năm 
        th́ viên tịch. Các đệ tử của ngài là thiền sư Mật Khế, Mật Hiển, Mật 
        Nguyện và Mật Thể đều đóng những vai tṛ quan trọng trong phong trào 
        chấn hưng Phật giáo sau này".  
        Thiền sư Mật Khế là một trong 
        những đại đệ tử của sư Giác Tiên. Sư là con ông Khóa họ Lê ở Thần Phù và 
        bà Nguyễn thị Lài người làng Cầu Ngói Thanh Toàn. Xuất gia từ năm lên 7 
        tuổi sau khi cha qua đời, sư là một người thông minh lanh lợi làu thông 
        kinh sử  ngay từ thuờ niên thiếu được mọi người trong chùa gọi là chú 
        tiểu Nam. Năm  20 - 22  tuổi khi đang tu học ở chùa Thánh Duyên - Túy 
        Vân (quê hương của đức Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại). Bà Từ Cung nghe tiếng 
        sư là người uyên bác nên cho vời sư vào cung để thuyết giảng phật pháp.
         
        Thiền Sư Mật Khế qua đời khi c̣n 
        rất trẻ khoảng 30 tuổi v́ bị viêm phúc mạc do viêm ruột thừa, hiện tại 
        thiền sư c̣n một người em gái là cụ bà Hồ Thị Huyền vợ của ông Ưng Úy (thượng 
        thư bộ Lễ) và bà đang sống tại Tp HCM.  
        Thiền sư Mật Thể thế danh là 
        Nguyễn hữu Kê người làng Nguyệt Biều (Hương Thủy, Thừa Thiên) sinh năm 
        1912, xuất gia năm 12 tuổi, tu học tại chùa Diệu Hỷ, Từ Quang, Trúc Lâm. 
        Năm 1930, được Ḥa Thượng Giác Tiên nhận làm đệ tử pháp danh Tâm Nhất, 
        hiệu Mật Thể. Năm 1937 sang Trung Quốc học ỡ Phật Học Viện Tiêu Sơn, năm 
        1941 dạy tại Phật học đường Lữơng Xuyên Trà Vinh, năm 1944 làm trụ tŕ 
        chùa Phổ Quang ở Huế và mất năm 1961 tại Nghệ An.  
        Thiền sư Mật Hiển là sư ông trụ 
        tŕ chùa Trúc Lâm lâu nhất, mất năm 1992 là ngươi có công nhiều nhất 
        trùng tu và xây dựng chùa Trúc Lâm để có được dáng vẻ như ngày hôm nay.
         
         Từ thành phố Huế xe đi qua cầu 
        Nam Giao vào con dường thẳng mà không bằng ấy đến đàn rẽ trái vượt qua 
        cầu Lim găp một con đường đất bên trái đi thêm khoảng 500 mét  là đến 
        cổng chùa. Chỉ mất chừng nửa giờ đi xe là đến nơi, con đường đá vàng cát 
        trắng quanh co ngày xưa mà bác sĩ Lê Đ́nh Thám đă từng mô tả :
         
        
          Đường Trúc Lâm 
          đá vàng cát trắng,  
          Cảnh Trúc Lâm, cảnh 
          vắng người thanh  
          Ḍng khe lượn khúc 
          như tranh  
          Rừng cây rợp bóng 
          tươi xanh bốn mùa. 
         
        Thoạt đầu để mở được con đường quả 
        thật là cam go v́ khu vực này c̣n là rừng nguyên sinh, cây cối tre trúc 
        um tùm ít bóng ngươi lai văng. Đất đai chưa có ai khai phá có rất nhiều 
        đoạn phải xẻ núi bởi triền đồi Dương Xuân Thượng có độ dốc khá dựng đứng 
        bên phải là vực sâu có gịng khe nước chảy xiết nhất là mùa mưa băo.
         
        Một trăm năm trước nhà chùa chỉ 
        làm được một lối ṃn ven triền đồi để đi lại, xe ngựa không thể vào đây 
        được (dấu tích nay vẫn c̣n thấy). Sau những đợt trùng tu chùa vào các 
        năm 1926, 1942, 1968, 1992 con đường mới được rộng răi như hôm nay.  |