Chân Định tứ linh thần
Bách việt trùng cửu – nguồn
						
						http://báchviệt18.vn/
						Nếu ở Nam Định có Thiên Bản lục kỳ kể về 6 sự lạ đất 
						Thiên Bản th́ ở Thái B́nh cũng có Chân Định tứ linh từ, 
						hay 4 ngôi đền thiêng của đất Chân Định. Chân Định là 
						tên cũ của khu vực Kiến Xương, Thái B́nh. Tứ linh từ của 
						Chân Định là nơi thờ “tứ linh thần”, 4 vị thần thiêng 
						trên đất Thái B́nh.
						Ngôi đền thiêng đầu tiên được nhắc đến là đền Vua Rộc 
						tại thôn An Điềm, xă Vũ An của huyện Kiến Xương. Trước 
						kia, đền nằm trong khu rừng nguyên sinh hiếm hoi của đất 
						Thái B́nh, được bao quanh bởi cây cối tươi tốt và hồ 
						nước mát lạnh, quang cảnh rất b́nh yên. Theo thần tích 
						của đền th́ đây là nơi thờ 2 vị Đông Hải đại vương và 
						Tây Hải đại vương. Tuy nhiên, thần tích không cho biết 
						những “đại vương” này là ai, ở thời kỳ nào. Những nghiên 
						cứu đành “đoán” Đông Hải đại vương là Đoàn Thượng, c̣n 
						Tây Hải đại vương th́… không biết…
Đền Vua Rộc ở Vũ An, Kiến Xương.
Câu đối cổ trong đền Vua Rộc chép:
						不記何年跡扥南交雙顯聖
						相傳此地名髙真定四靈神
						Bất kư hà niên, tích thác Nam Giao song hiển thánh
						Tương truyền thử địa, danh cao Chân Định tứ linh thần.
						Dịch:
						Không biết tự năm nào, dấu thác Nam Giao hai hiển thánh
						Lưu truyền nơi đất nọ, danh cao Chân Định bốn linh thần.
						Vế đối đầu cho biết đền Vua Rộc thờ 2 vị thần đă “hiển 
						thánh” ở Nam Giao từ thời lâu lắm rồi, không biết năm 
						nào nữa. Vế đối sau cho biết hai vị thần đó được xếp vào 
						bộ “Tứ linh thần” của Chân Định. Với thông tin này th́ 
						người được thờ ở đây không thể là tướng quân Đoàn Thượng, 
						một nhân vật khá rơ ràng vào cuối thời nhà Lư ở thế kỷ 
						13.
						Một số tác giả cho biết chữ Lạc có thể phục nguyên âm là 
						Rộc, chỉ ruộng lúa. Tới nay người Mường vẫn gọi ruộng là 
						rộc. Vua Rộc như vậy có thể là Vua Lạc hay Lạc Vương, 
						phù hợp với thời Nam Giao mở nước.
						Vết tích của 2 vị thần Nam Giao ở đền Vua Rộc có thể 
						được xác định trong một câu đối khác tại đây:
						瑞應金龜神爪依依留井上
						威揚木馬健蹄隠隠仰橋邊
						Thụy ứng Kim Quy, thần trảo y y lưu tỉnh thượng
						Uy dương mộc mă, kiện đề ẩn ẩn ngưỡng kiều biên.
						Dịch:
						Linh ứng Rùa Vàng, móng thần y nhiên nơi giếng cũ
						Oai dương Ngựa Gỗ, vó hùng thấp thoáng chốn cầu biên.
						2 vế đối của câu đối này nói tới 2 sự kiện của 2 nhân 
						vật. Vế đối đầu khá rơ, chỉ chuyện móng Rùa vàng của vua 
						An Dương Vương và chiếc giếng nơi Trọng Thủy trẫm ḿnh. 
						Vế đối thứ hai nói về một con chiến mă bằng gỗ xuất 
						chinh nơi biên ải.
						Tại Thái B́nh, vua An Dương Vương được thờ ở khá nhiều 
						nơi với tên xưng phong Nam Hải đại vương. Thậm chí như ở 
						làng Thao Bồi (nay thuộc xă Phương Công, huyện Tiền Hải, 
						Thái B́nh) thần tích c̣n kể về người vợ của An Dương 
						Vương là bà Trần Thị Chân, c̣n gọi là Châu Nương hay 
						Thục Nương. Châu Nương sinh ra Mỵ Châu, nàng công chúa 
						của vua An Dương Vương trong chuyện t́nh Mỵ Châu – Trọng 
						Thủy. Sau khi Mỵ Châu mất làng Thao Bồi lập miếu “Nhị vị 
						mẫu tử” thờ mẹ con Châu Nương, Mỵ Châu…
						Nam Hải đại vương An Dương Vương c̣n thờ ở nhiều nơi 
						khác tại Thái B́nh như ở làng Kênh Xuyên (Đông Xuyên, 
						Tiền Hải), làng Cọi (Vũ Hội, Vũ Thư). Ở đây An Dương 
						Vương được kể như một vị vua từng có công giúp an định 
						và phát triển đời sống dân t́nh vùng ven biển. Như vậy, 
						có thể thấy An Dương Vương là vị linh thần thứ nhất được 
						thờ tại đền Vua Rộc. Nam Hải đại vương đă hiển thánh ở 
						Nam Giao cũng hoàn toàn hợp lư.
						Ngôi đền thiêng thứ hai của đất Chân Định là đền Sóc 
						Lang đở xă Vũ Vinh, huyện Vũ Thư. Đền này thờ Mộc đức 
						tinh quân, rất thiêng nhưng cũng không rơ sự tích ra sao. 
						Chỉ biết có một cây gỗ trôi từ thượng nguồn về, nhân dân 
						vớt đục thành tượng mà thờ. Nay nếu so sánh với câu đối 
						trong đền Vua Rộc th́ Mộc đức tinh quân phải là Thánh 
						Gióng với con “ngựa gỗ” chốn “kiều biên”. Cái tên đền 
						“Sóc Lang” hay Sóc vương cũng cho thấy vị linh thần ở 
						đây là Thánh Gióng đă bay về trời nơi núi Sóc. Nhị vị 
						đại vương ở đền Vua Rộc là An Dương Vương và Sóc Vương 
						Thánh Gióng, rất phù hợp về không gian (Nam Giao) và 
						thời gian.
Phương đ́nh trước Chùa Keo Thái B́nh.
Ngôi đền thiêng thứ ba của đất Chân Định là đền Lại 
						Tŕ ở xă Vũ Tây, huyện Kiến Xương. Theo thần tích và văn 
						bia lưu tại di tích, đây là nơi thờ Đại pháp thiền sư 
						Không Lộ, họ Dương, húy là Minh Nghiêm, là người làng 
						Giao Thuỷ, phủ Thanh Hà (tỉnh Nam Định), nối đời làm 
						nghề đánh cá. Thân mẫu họ Nguyễn, người ở ấp Hán Lư, 
						huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang (tỉnh Hải Dương). Năm 
						1060 Không Lộ cùng Đạo Hạnh và Giác Hải đă sang Tây Trúc 
						để tu luyện về đạo Phật. Năm 1061 thời vua Lư Thánh Tông, 
						sư về nước và dựng chùa Nghiêm Quang (sau đổi tên là 
						Thần Quang Tự) ở làng Dũng Nghĩa (xă Duy Nhât, Vũ Thư, 
						Thái B́nh) để truyền bá đạo Phật, hoằng dương Phật pháp. 
						Chùa này được biết đến với tên chùa Keo Thái B́nh.
						Thời đó đạo Phật được nhà Lư coi là quốc giáo. Đức Dương 
						Không Lộ là người hiểu về đạo Phật sâu sắc, là giáo chủ 
						của cả vùng, ngoài việc truyền bá đạo phật, nhà sư c̣n 
						có công lớn trong việc mở mang các công tŕnh trị thuỷ 
						nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đưa nhân dân lao động 
						thoát khỏi đói khổ. Ông c̣n là người am hiểu về y thuật 
						có công chữa bệnh cho vua Lư Thánh Tông được phong làm 
						quốc sư. Sau Dương Không Lộ sang Trung Quốc chữa bệnh 
						cho thái tử nhà Tống rồi xin đồng về đúc chuông, tạc 
						tượng.
						Đền Lại Tŕ là nơi bà Nguyễn Thị, mẹ của Không Lộ đă hóa. 
						C̣n Chùa Keo Thái B́nh là nơi Không Lộ trụ tŕ. Câu đối 
						ở khu thờ thiền sư Không Lộ tại chùa Keo:
						法手濟群方李代特生之聖
						靈丹扶九鼎南邦不死之神
						Pháp thủ tế quần phương, Lư đại đặc sinh chi thánh
						Linh đan phù cửu đỉnh, Nam bang bất tử chi thần.
						Dịch:
						Làm phép cứu chúng phương, đời Lư riêng sinh là thánh
						Thuốc thiêng chữa cửu đỉnh, bang Nam bất tử là thần.
						Cửu đỉnh hay 9 chiếc đỉnh, h́nh tượng chỉ vương quyền, 
						chỉ Vua. Câu đối nhắc đến chuyện thiền sư Không Lộ đă 
						chữa bệnh cho vua Lư Thánh Tông và cứu giúp nhân dân 
						trong vùng. Thiền sư Không Lộ do đó đă được phong làm 
						quốc sư thời Lư (Lư triều quốc sư).
						Câu đối trên cũng xác định Không Lộ là một trong những 
						thần bất tử nước Nam. Khái niệm thần bất tử không giống 
						với linh thần. Ngoài việc là một linh thần (thần thiêng), 
						thần bất tử phải là người có phép thuật, có khả năng 
						“bất tử”, tức là khả năng cải tử hoàn sinh, trường sinh 
						bất lăo hay đầu thai chuyển thế. Thường th́ đó là những 
						người tu hành đắc đạo thần tiên.
						Trước khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh được xếp là một trong Nam 
						Bang tứ bất tử th́ Không Lộ thiền sư và Từ Đạo Hạnh được 
						coi là các thần bất tử. Tuy nhiên, tư liệu về thánh 
						Không Lộ ở đền Lại Tŕ trên chép Không Lộ làm Quốc sư và 
						chữa bệnh cho vua dưới triều Lư Thánh Tông. Trong khi 
						chuyện Từ Đạo Hạnh đầu thai lại vào thời Lư Thần Tông. 
						Đồng thời thiền sư Không Lộ ở đây mang họ Dương, không 
						phải họ Nguyễn (Nguyễn Minh Không) như trong truyện của 
						Từ Đạo Hạnh. Những chi tiết này cho thấy truyền thuyết 
						về việc hóa thân đầu thai của Từ Đạo Hành thành vua Lư 
						Thần Tông cần được xem xét thêm cho đúng với sự việc 
						thật sự đă xảy ra.
						Ngôi đền thiêng thứ tư của đất Chân Định là đền Đồng Xâm 
						ở xă Hồng Thái, Kiến Xương. Đền này thờ đức Khai Cơ 
						Triệu Vũ Đế, người đă lập nên nước Nam Việt thời trước 
						Công nguyên. Đền Đồng Xâm là chứng tích rành rành về 
						“những nỗi oan” của vua Triệu Đà. Sử sách chép Triệu Đà 
						người Chân Định… Chân Định đây là đất Kiến Xương, Thái 
						B́nh ở Việt Nam, hoàn toàn không phải ở đâu xa lắc xa lơ 
						tận Hà Bắc, Trung Quốc. Bản thân tên huyện Kiến Xương 
						cũng có thể liên quan tới công nghiệp của Triệu Vũ Đế v́ 
						Kiến Xương nghĩa là kiến thiết nên nền tảng ban đầu, 
						tương ứng với nghĩa của danh hiệu Khai Cơ của Triệu Vũ 
						Đế tại đây.
						Về thời nhà Triệu, ở Kiến Xương c̣n có nhiều chuyện lạ. 
						Ở đ́nh Luật Nội và Luật Ngoại (xă Quang Lịch, Kiến Xương) 
						thờ 2 mẹ con bà Phương Dung và Thạch Công đă tận trung 
						báo quốc, giúp Triệu Việt Vương đánh giặc Lương và hy 
						sinh ở quăng sông Lịch Bài tại đây. Điều lạ là bố của 
						Thạch Công lại là ông Hùng Tuệ Công, ḍng dơi vua Hùng, 
						làm phủ doăn Chân Định. Câu đối ở đ́nh Luật Ngoại:
						壹門義烈雄母子
						萬古山河趙越王
						Nhất môn nghĩa liệt Hùng mẫu tử
						Vạn cổ sơn hà Triệu Việt vương.
						Dịch:
						Một nhà nghĩa liệt mẹ con họ Hùng
						Vạn năm sông núi đức vua Triệu Việt.
						Từ thời Hùng Vương trước Công nguyên tới thời của Triệu 
						Việt Vương chống giặc Lương theo sử sách ngày nay có dư 
						500 năm. Làm sao bố là thời Hùng mà con lại giúp vua 
						Triệu? Truyền thuyết nhầm lẫn hay chính sử bị sai?
Nghi môn đ́nh Luật Ngoại.
Câu đối khác ở đ́nh Luật Ngoại:
						浩氣塞滄溟節烈一門皇趙日
						芳名傳國母頡頏天古二徵間
						Hạo khí tắc thương minh, tiết liệt nhất môn Hoàng Triệu 
						nhật
						Phương danh truyền quốc mẫu, hiệt hàng thiên cổ Nhị 
						Trưng gian.
						Dịch:
						Khí lớn lấp biển dài, tiết liệt một nhà ngày Hoàng Triệu
						Danh thơm truyền quốc mẫu, bay bổng ngàn năm đất Nhị 
						Trưng.
						Sử sách đă có sự nhầm lẫn. Triệu Việt Vương không phải 
						vị vua ở thế kỷ thứ 6. Triệu Việt Vương gần thời Hùng 
						Vương và thời Hai Bà Trưng phải là vua Triệu của nước 
						Nam Việt. Nước Nam Việt được Triệu Vũ Đế lập từ những 
						năm 200 trước Công nguyên. Có vậy th́ những quan lại, 
						công tướng của Triệu Việt Vương mới mang họ Hùng được.
						Những cái tên Chân Định, Kiến Xương hay cả Thái B́nh đều 
						liên quan đến vị khai cơ Triệu Vũ Đế. “Ai đặt tên cho 
						đất Thái B́nh” th́ không rơ, nhưng tên này có chí ít từ 
						thời Triệu Vũ Đế v́ Thái B́nh chỉ là từ phản thiết của 
						chữ Bái. Triệu Vũ Đế ở Chân Định là Bái Công đă lănh đạo 
						nhân dân Việt khởi nghĩa kháng Tần thắng lợi, lập ra 
						quốc gia Nam Việt độc lập, xưng đế, là một thiên tử thực 
						sự của thiên hạ.
Gác mái đ́nh Luật Nội.
Thử sắp xếp Chân Định Tứ linh thần theo các phương vị 
						(Tứ trấn):
						– Thục An Dương Vương nên xếp ở hướng Tây, v́ Thục nghĩa 
						là hướng Tây. An Dương Vương có danh Tây Hải đại vương 
						trong đền Vua Rộc.
						– Sóc Vương Thánh Gióng ở đền Sóc Lang với tên Mộc đức 
						tinh quân xếp ở hướng Đông v́ hành Mộc là hành của 
						phương Đông, ứng với tên Đông Hải đại vương ở đền Vua 
						Rộc.
						– Đồng Xâm Triệu Vũ Đế hợp lư nhất xếp ở hướng Bắc v́ 
						công nghiệp “Bắc tiến” của vị vua này.
						– Không Lộ thiền sư ở đền Lại Tŕ và chùa Keo có thể xếp 
						ở trấn Nam v́ vị thiền sư này gốc Nam Định.
						Tứ linh từ, Tứ linh thần, Tứ trấn của đất Chân Định như 
						vậy đă đầy đủ cả.
Văn Nhân góp thêm ý :
						…Những cái tên Chân Định, Kiến Xương hay cả Thái B́nh 
						đều liên quan đến vị khai cơ Triệu Vũ Đế. “Ai đặt tên 
						cho đất Thái B́nh” th́ không rơ, nhưng tên này có chí ít 
						từ thời Triệu Vũ Đế v́ Thái B́nh chỉ là từ phản thiết 
						của chữ Bái. Triệu Vũ Đế ở Chân Định là Bái Công đă lănh 
						đạo nhân dân Việt khởi nghĩa kháng Tần thắng lợi, lập ra 
						quốc gia Nam Việt độc lập, xưng đế, là một thiên tử thực 
						sự của thiên hạ….
						Rất có thể :
						Đất Chân định thực ra là đất Trịnh ; theo phép 
						phiên thiết Hán văn : chân định thiết trịnh .
						Đất Trịnh là nơi đứng chân ban đầu của Lí Bôn – 
						Lưu Bang khi mới được Hạng Vũ chia đất .
						Cũng do tên thủ đô Nam Trịnh này mà Lí Bôn – Lưu 
						Bang được Hùng triều thế phổ gọi là Hùng Trịnh 
						vương – Hưng đức lang .
						Đức là tam sao thất bổn của đế , Hưng đức thực 
						ra là Hưng đế … đế và lang ở đây là thừa 1 chữ .
						Vua là Hưng đế nên kinh thành Trường An còn được 
						gọi là Đại Hưng thành .
						Do tên kinh đô là Đại Hưng thành , vua là Hưng đế …rất 
						có thể thời Lí Bôn – Lưu Bang nước gọi là Đại 
						Hưng .
						Khúc quanh lịch sử là chỗ này đây :
						Vua họ Lí hay Lê con cháu nhà Hùng biến ra họ Lưu 
						– Liêu dòng Mongoloid .
						Nước Đại Hưng …hô biến …thành Đại Hán của Đại 
						Hãn Mông cổ .
						Chuỗi móc xích : Lí Bôn – Lưu Bang – Triệu Vũ đế 
						– Nam Việt đế – Hùng Trịnh vương Hưng đức lang 
						thông qua mối liên hệ : Bái – Thái bình và Chân 
						định – Trịnh mà ngày càng hiện ra rõ ràng hơn .


          
          


