| 
     Chùa Mía thuộc làng Mía, nay thuộc xã Đường Lâm, 
    thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 45 km về phía tây. Chùa Mía 
    còn có tên chữ là Sùng Nghiêm Tự. 
    
      
        
          
           
           | 
         
        
          | Cổng vào chùa Mía | 
         
       
     
    Chùa Mía được xây dựng vào thời Trần. Đến thế kỷ 17, chùa 
    đã bị đổ nát, hoang phế nhiều. Năm Đức Long thứ tư (năm 1632), bà Nguyễn Thị 
    Dong, vợ chúa Trịnh Tráng (1632 - 1657), được nhân dân tôn kính gọi là Bà 
    Chúa Mía, đứng ra hưng công để xây dựng lại. Chùa nằm trên một ngọn đồi đá 
    ong, có quy mô lớn, được tách ra làm ba khoảnh tách bạch. Phía ngoài cùng là 
    gác chuông, tiếp đó là mảnh sân, ở phía bên góc phải là một cây đa vài trăm 
    tuổi, tán lá sum suê che mát cả một khoảng rộng, tạo cho khu chùa Mía một 
    cảnh yên tĩnh mát mẻ và linh thiêng. Qua một cổng gạch là đến dãy nhà thụ 
    trai (nơi ở của các nhà sư). Tiếp đến là khu nhà chính gồm: Nhà bái đường, 
    chùa hạ, chùa trong và thượng điện. 
    Ở nhà bái đường có một tấm bia đá được dựng vào năm bắt 
    đầu làm chùa (1632). Tấm bia đá này có chiều cao hơn 1,6 m, chiều rộng là 
    1,2 m đặt trên một con rùa đá đồ sộ làm chúng ta nhớ đến những con rùa đội 
    bia đá trong Khuê Các Văn Miếu. Nội dung của tấm bia ghi lại công đức  Bà 
    Chúa Mía xây chùa . Đây là một trong những tấm bia to đẹp còn lưu giữ đến 
    ngày nay. 
    Chùa hạ và chùa trong nối với nhau bằng hai dãy hành lang 
    bao quanh lấy khu thượng điện, kiến trúc được làm theo kiểu chuôi vồ. Tại 
    đây, tất cả những chỗ  làm bằng gỗ đều được chạm trổ rất đẹp. 
    Gần gác chuông và cây đa cổ thụ là tòa bảo tháp Cửu phẩm 
    Liên Hoa cao 13 m thờ vọng Xá Lợi đức Phật. 
    Tòa gác chuông làm theo kiểu kiến trúc chồng diêm hai 
    tầng tám mái. Các góc mái đều gắn đao triện. Sàn nhà bằng gỗ, ở tầng gác có 
    hàng lan can tiện. Các ván long, xà nách đều được bào xoi cạnh và chạm trang 
    trí đề tài hoa lá. Ở đây có một tấm bia năm 1621, một tấm bia năm 1750. Trên 
    gác treo một quả chuông đồng đúc năm Cảnh Hưng thứ tư (1745) một khánh đồng 
    đúc năm Thiệu Trị thứ sáu (1846). 
    Trong chùa Mía có rất nhiều tượng, có 287 pho tượng lớn 
    nhỏ, trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng bằng 
    đất luyện được sơn son thếp vàng. Các pho tượng này dù được đúc, nặn, hay 
    được chạm khắc cũng đều thể hiện tính nghệ thuật cao qua sự khéo léo, tài 
    hoa của những người thợ xưa. Nhiều pho tượng được xem như những tác phẩm 
    nghệ thuật tạo hình ở Việt Nam. Điển hình nhất là ở tòa thượng điện có một 
    bộ tám pho tượng Bát Bộ Kim Cương làm bằng đất luyện. Mỗi pho tượng là hình 
    tượng một võ tướng đang trong tư thế chuẩn bị chiến đấu để trừ tà bảo vệ 
    phật pháp. Hình khối, bố cục vững chắc, thân hình cân đối, đường nét thoải 
    mái và khỏe. Nếu ở chùa Tây Phương có các pho tượng La Hán diễn tả hết nội 
    tâm của con người thì ở chùa Mía các pho tượng Bát Bộ Kim Cương cũng được 
    coi như những điển hình nghệ thuật, đã miêu tả ngoại hình, dung mạo những 
    con người giàu tinh thần thượng võ. 
    Ngoài ra, ở hai dãy hành lang còn có các pho tượng tuyệt 
    tác như: Tượng Tuyết Sơn (cao 0,76 m), trông không lớn như tượng Tuyết Sơn ở 
    chùa Tây Phương. 
    Nổi bật nhất trong chùa Mía là tượng Quan Âm Tống Tử (cao 
    0,76 m), thường được gọi là tượng Bà Thị Kính. Tượng này diễn tả một người 
    phụ nữ thùy mị, có duyên, vẻ mặt hơi buồn nhưng rất hiền từ nhân hậu, ẵm một 
    đứa bé bụ bẫm kháu khỉnh. Đường nét chạm khắc mềm mại, trau truốt. 
    Với những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc độc 
    đáo, với quy mô bề thế và đẹp. Chùa Mía đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp 
    hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.  |