|   | 
    
    
     
    NGÔI CHÙA VIỆT NAM  
    HT. THÍCH THIỆN SIÊU
     
     
    Ngày xưa, một nhà nho tên là Lê Quát, 
    học tṛ của Chu Văn An, đă từng thắc mắc về đạo Phật rằng: “Đạo  Phật chỉ 
    đem điều họa phúc mà lay  động ḷng người, sao mà sâu xa bền chắc đến như 
    vậy. Trong từ kinh thành, ngoài đến thôn phủ, đường cùng ngơ hẻm, không hiểu 
    mà theo, không thề mà tin, hễ nơi nào có người ở là nơi ấy có chùa Phật. Bỏ 
    đi th́ làm lại, hư đi th́ sửa lại”. Nếu hiểu đúng th́ không phải chỉ có hai 
    chữ họa phúc mà động ḷng người được. Kinh nói họa phúc là cốt nói hành động 
    thiện ác, bởi v́ hành động thiện gây ra phúc, hành động ác gây ra họa. Nói 
    hành động thiện ác là cốt nói mê ngộ, nghĩa là, nếu giác ngộ th́ thiện mà mê 
    lầm th́ ác. Nhưng nói mê ngộ cũng cốt nói về tâm, bởi v́ mê là do tâm mà ngộ 
    cũng do tâm. Do vậy mà Đức Phật chú trọng giác ngộ tâm. Khi tâm được giác 
    ngộ th́ hành động mới sáng suốt, mà hành động sáng suốt th́ cuộc đời sẽ được 
    an vui. V́ vậy lời dạy đó càng ngày càng thấm thía vào trong ḷng người, lay 
    động ḷng người hướng về với Phật. Khi đă hướng về với Phật th́ dựng chùa để 
    thờ Phật, để mỗi ngày thấy Phật trên bàn thờ, nhờ đó mà khắc họa đậm nét 
    h́nh ảnh Phật trong tâm. Cho nên khi nào chúng ta thấy được Phật trong tâm 
    th́ lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy Phật trên bàn một cách đúng đắn. Nếu không 
    như thế th́ như trong kinh Kim Cang, Đức Phật đă nói: “Nếu lấy sắc thấy Ta, 
    lấy âm thanh cầu Ta, người đó hành tà đạo, không thể thấy Như Lai”. Cho nên 
    khi nào thấy tâm th́ mới thấy Phật được một cách đầy đủ viên măn. V́ vậy mới 
    dựng chùa thờ Phật.  
    Theo ḍng lịch sử lâu đời của Việt Nam 
    th́ Phật giáo được truyền vào  
    đất nước chúng ta được biết một cách rơ 
    ràng nhất là vào thời Sĩ Nhiếp, thời đó đă có một số ngôi chùa ở tại Luy Lâu, 
    sau đó có Thiền sư Đồ Lê đến đây tu tập, rồi từ đó các chùa Pháp Vân, Pháp 
    Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện được xây dựng. Cũng được biết chùa Khai Quốc do 
    triều Lư Nam Đế xây dựng mà bây giờ được gọi là chùa Trấn Quốc, hiện ở tại 
    Hồ Tây – Hà Nội. Về sau các chùa trong các đời Lư, đời Trần tiếp tục mọc lên 
    rất nhiều cũng là để đáp ứng lại ḷng tin tưởng của người con Phật. Ngôi 
    chùa đă lan tràn khắp nơi khắp xứ, sống một cách khiêm tốn, không ngạo nghễ 
    khoe khoang, cùng với mọi người dân đồng lao cộng khổ và ngôi chùa đă trở 
    thành h́nh tượng thân thương, nó đi vào ḷng người và nó cũng đă đi vào ca 
    dao, tục ngữ:  
    - Con chùa vua nước  
    - Đất vua chùa làng  
    - Ăn mày cửa Phật  
    - Chùa rách Phật vàng.  
    - Sống ở nhà già ở chùa  
    - Trẻ vui nhà già vui chùa
     
    - Trốn chúa ở chùa  
    - Lên chùa thấy Phật muốn tu
     
    - Ba cô đội gạo lên chùa
     
    - Nhiều săi không ai đóng cửa chùa
     
    - Gần chùa gọi Bụt bằng anh
     
    - Xa chùa trống vắng, gần chùa inh 
    tai.  
    Hoặc:  
    - Chùa làng dựng ở xóm côi,
     
    Sớm khuya hai buổi nghe hồi chuông 
    ngân  
    - Con ai đem bỏ chùa này
     
    Nam mô Di Phật, con thầy thầy nuôi.
     
    - Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
     
    Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyề n 
    .  
    - Biển Đông sóng dợn cát đùa,
     
    Sánh đôi không đặng lên chùa anh tu.
     
    - B́nh Lục có núi Con Bùa,
     
    Trông sang Đạm Thủy có chùa Ngọc Thanh.
     
    - Bên chợ Đông Ba tiêng gà eo éc,
     
    Bên chùa Thọ Lục, tiếng trống sang 
    canh.  
    Giữa sông Hương gợn sóng khuynh thành,
     
    Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa 
    nghiêng.  
    - Ba phen tàu hổi cả ba,
     
    Phen này hổi nữa lên chùa đi tu.
     
    - Lên chùa thấy phật muốn tu,
     
    Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền,
     
    - Đầu làng có một cây đa,
     
    Cuối làng cây thị, đàng xa ngôi chùa.
     
    Dù ai đi sớm về trưa ,  
    Xin anh nghỉ bóng cây dừa nhà em.
     
    - Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ,
     
    Xem chùa Thê Húc, xem đền Ngọc Sơn,
     
    Đài nghiên Bút Tháp chưa ṃn,
     
    Hỡi ai xây dựng nên non nước này
     
       
    Chùa là cái ǵ gần nhất với tâm thức 
    người dân cho nên biểu tượng đó sẽ khiến cho người ta vin vào để nói những 
    cái ǵ người ta muốn nói. Nhưng đó là nói về người ở chùa mà không phải là 
    nói về chùa. Câu sau đây mới thực sự nói về chùa:  
    - Rủ nhau xuống bể ṃ cua,
     
    Lên non bẻ củi, vào chùa nghe kinh.
     
    Xuống bể ṃ cua, lên non bẻ củi là nói 
    dân ta gắn liền với non, với nước và đồng thời cũng gắn liền với chùa. Gắn 
    liền với non với nước là để nuôn sống thân. Gắn liền với chùa là để nuôi 
    sống tinh thần: Đến chùa nghe kinh.  
    Trong thơ văn Việt Nam hiện đại, có 
    một nhà thơ cũng có bài thơ diễn  
    tả cảnh chùa rất thấu t́nh đạt ư, thâm 
    thú vô cùng:  
    “Quê tôi có gió bốn mùa,
     
    Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm.
     
    Chuông hôm gió sớm trăng Rằm,
     
    Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi.
     
    Mai này tôi bỏ quê tôi,  
    Bỏ trăng bỏ gió chao ôi bỏ chùa”.
     
    Nhà thơ trên đây đă nói lên cái tâm 
    t́nh của người dân Việt Nam chúng ta đối với chùa. Chùa là cái hồn của dân 
    tộc, vừa thân thương gần gũi, vừa t́nh cảm sâu lắng, dàn trải trong ḷng mọi 
    người như máu với thịt, như hơi thở và bữa ăn hàng ngày . V́ thế khi Phật 
    giáo truyền vào nước ta th́ liền được mọi người dân chấp nhận và chùa càng 
    trở nên yêu dấu hơn:  
    “Làng tôi nhỏ bé xinh xinh,
     
    Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà,
     
    Trong làng san sát nóc nhà,
     
    Đ́nh làng lọp ngói có vài cây cau,
     
    Chùa làng rêu phủ mái nâu
     
    Dân làng thờ cúng để cầu b́nh an”.
     
    (Ca dao Việt Nam)  
    Chùa c̣n là nơi dạy thuật làm người, 
    thuật luyện tâm : Nhất thiết duy tâm tạo.  
    Ngày xưa có một nhà hiền triết tên là 
    Socrate thời cồ Hy Lạp. Một hôm đi trên đường ở thành A-ten thấy một chàng 
    thanh niên đi ngược chiều trở lại, chàng ta đang hân hoan tự măn với cái mũ, 
    vớỉ bộ áo quần, với đôi giày mới bảnh bao của ḿnh, nhà hiền triết lấy gậy 
    chặn lại. Khi bị chặn lại, chàng thanh niên trong ḷng đầy tự măn hỏi rằng:
     
    - Ông muốn mua cái mũ này sao?
     
    - Không, tôi không muốn mua mũ.
     
    - Hay là ông muốn mua bộ áo quần này?
     
    - Không, tôi cũng không muốn mua bộ áo 
    quần.  
    - Hay ông ưa mua đôi giày này? 
     
    - Không, tôi cũng chẳng muốn đôi giày.  
     
    - Vậy th́ ông muốn ǵ mà chặn tôi lạí?
     
    - Tôi muốn anh chỉ cho tôi chỗ nào dạy 
    cách học làm người?  
    Nếu như mất tư cách làm người, th́ cái 
    mũ đó không thể gọi cái mũ đội trên đầu người! Cái áo đó cũng không phải là 
    cái áo mặc vào người và đôi giày kia cũng chẳng phải giày để đi vào người. 
    Cho nên phải học cách làm người cho ra người mới là cách cơ bản cho tất cả 
    mọi thứ. Khi cách làm người c̣n th́ mọi sự tốt đẹp c̣n, khi cách làm người 
    không c̣n th́ mọi sự tốt đẹp chỉ là sự tốt đẹp bên ngoài.  
    Do đó, chuyện làm chùa chúng ta phải ư 
    thức rơ ràng là làm thế nào để sự đi chùa và ngôi chùa đó luôn luôn ấp ủ 
    ḷng từ bi, yêu thương, và ngôi chùa là nơi phát huy được trí tuệ sáng suốt, 
    gilúp ích cho đời sống của chúng sinh, của mọi người mỗi ngày mỗi thăng hoa, 
    mỗi ngày mỗi xa dần chỗ chỗ tối tăm đau khổ mà bước lên cảnh an lạc giải 
    thoát. Làm chùa như thế tức nhiên ai cũng đồng t́nh hết, và tôi tin chắc 
    rằng ngôi chùa như thế sẽ là nơi luôn có những hàng Phật tử, những bậc cao 
    quí, thành phần trí thức đến chùa để học hỏi tiến tu. Cũng như trước đây 
    trong thời Bắc thuộc, các ngôi chùa của chúng ta chính là nơi đào tạo nhân 
    tài cho đất nước. Thời kỳ Bắc thuộc, nước ta chưa có sự học, đến triều đạl 
    nhà Lư mới mở khoa thi Tam trường. Vậy th́ trong các thời kỳ ấy, các nhà trí 
    thức của đất nước của chúng ta học ở đâu? Phần nhiều đều dựa vào chùa. Thành 
    thử ngôi chùa nó đă đóng góp công lao với đất nước rất lâu xa trong lịch sử, 
    một sự đóng góp thật thật sự, không có một hậu ư ǵ khác, nghĩa là muốn ḥa 
    ḿnh cùng vinh cùng nhục với đất nước với toàn dân để xây dựng một đất nước 
    an lành hạnh phúc.   
    (Bài này đăng trong tuần báo Giác Ngộ 
    10-10-200  
  
    |