Quảng Ngãi Và Danh Thắng
		Quảng Ngãi là sự hoà hợp của những dòng sông xen lẫn núi đồi, ghềnh thác 
		cùng nhiều di tích, kiến trúc cổ: di chỉ văn hoá Sa Huỳnh, chùa Thiên Ấn, 
		thành cổ Châu Sa, chứng tích Sơn Mỹ, địa đạo Đám Toái… và với nhều danh 
		lam thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và hữu tình như : Thiên Ấn niêm hà, 
		Cổ luỹ Cô thôn…. Quảng Ngãi còn được nhắc đến với các bãi biển sạch, đẹp 
		và giá trị để phát triển thành khu du lịch nghỉ dưỡng hấp dẫn như Mỹ Khê 
		(Sơn Tịnh), Sa Huỳnh (Đức Phổ), Khe Hai- Dung Quất (Bình Sơn), Minh Tân, 
		Đức Minh, Tân Định (Mộ Đức).
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image002.jpg)
		 
		Hai thắng cảnh không thể không nhắc đến của Quảng 
		Ngãi là sông Trà Khúc, con sông lớn nhất tỉnh và núi Thiên Ấn, ngọn núi 
		từ xưa đã được xem là "đệ nhất phong cảnh" của tỉnh với mỹ danh "Thiên 
		Ấn niêm hà" (ấn trời đóng trên sông).
		
		Sông Trà Khúc mê hoặc du khách với vẻ đẹp thanh bình và thơ mộng của một 
		con sông mềm mại, uốn lượn. Núi Thiên Ấn là hành trình thú vị chinh phục 
		cũng như một cơ hội khám phá "xứ ngọt mía đường" khác từ trên cao với 
		trời tây là rặng Thạch Bích sừng sững, biển cửa Đại Cổ Lũy lấp lánh ánh 
		bạc, núi Long Đầu với mình rồng uốn lượn, núi Thiên Bút với cái mỹ danh 
		"Thiên Bút phê vân (Bút trời vẽ mây), cầu Trà Khúc, sông Trà Khúc, nổi 
		bật giữa những dải cát trắng. Bên cạnh đó, đến núi Thiên Ấn, bạn còn có 
		dịp chiêm bái ngôi chùa trên núi, nhấp ngụm nước ngọt lạ ở giếng Tiên 
		hay ghé thăm mộ của danh sĩ Huỳnh Thúc Kháng.
		
		* Biển Dung Quất
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image004.gif)
		Nằm về phía đông bắc cách TP.Quảng Ngãi khoảng 45 km. Biển Dung Quất 
		có độ sâu lý tưởng. Bến Dung Quất đang được xây dựng thành cảng nước sâu 
		cho tàu hàng vạn tấn cập bến. Trong tương lai Dung Quất trở thành cảng 
		dầu khí lớn nhất Việt Nam. Với thành phố Vạn Tường hiện đại xây dựng 
		trong nay mai, Quảng Ngãi, mảnh đất giàu tiềm năng, điểm thu hút đầu tư 
		nước ngoài ở miền Trung và là điểm du lịch hấp dẫn khách trong nước và 
		ngoài nước 
		*Nét đẹp Sa Huỳnh, Biển Dung Quất
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image006.jpg)
		Sa Huỳnh nằm ở cực nam tỉnh Quảng Ngãi, thuộc huyện Đức Phổ, cách 
		TP.Quảng Ngãi 60 km. Sa Huỳnh là bãi biển đẹp, nổi tiếng là vựa muối 
		quan trọng ở miền Trung. Bãi biển Sa Huỳnh nằm sát quốc lộ 1A, ở km 985, 
		có ga xe lửa Sa Huỳnh, cho nên từ Hà Nội vào hay từ thành phố Hồ Chí 
		Minh ra, du khách có thể dừng chân ghé lại đây rất thuận lợi. Địa danh 
		Sa Huỳnh phải viết cho đúng là Sa Hoàng, có nghĩa là cát vàng. Thật vậy, 
		màu cát ở đây không trắng như ở nơi khác mà lại có màu vàng óng ánh thật 
		đẹp. Sở dĩ, phải viết thành Sa Huỳnh, vì chữ “ Hoàng” trùng tên Chúa 
		Nguyễn Hoàng thời Nguyễn sơ. 
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image008.jpg)
		Bến cá Sa Huỳnh Bãi biển Sa Huỳnh chạy dài đến năm, sáu km, cong cong 
		hình lưỡi liềm. Đáy biển thoai thoải, không có bãi đá ngầm, có thể là 
		những bãi tắm lý tưởng đối với du khách đến đây nghỉ hè, vui chơi và tắm 
		biển. Ngoài ra, Sa Huỳnh còn có thắng cảnh ghềnh đá Châu Me, Đảo Khỉ… 
		thu hút du khách vào các ngày nghỉ cuối tuần và các ngày lễ tết. Để phục 
		vụ khách du lịch, ngành du lịch Quảng Ngãi còn xây dựng tại đây khách 
		sạn Motel Sa Huỳnh để đón khách đến nghỉ ngơi, an dưỡng. Từ lâu, Sa 
		Huỳnh được biết đến như là di chỉ khảo cổ học với “Văn hóa Sa Huỳnh “.
		
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image010.jpg)
		Đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học người Pháp như Vinet, Labare, 
		Colani đã phát hiện ở Sa Huỳnh hàng loạt mộ chum và nhiều hiện vật tiêu 
		biểu cho nền văn hóa cổ xưa bị chìm khuất dưới lòng đất qua thời gian 
		dài lịch sử. Các kết quả khai quật được nghiên cứu và kết luận, dải đất 
		từ Đèo Ngang cho đến Đồng Nai (Nam Bộ) lên cả Tây Nguyên, từ sơ kỳ đồng 
		thau cho đến sơ kỳ sắt đá nơi hiện diện một nền văn hóa độc đáo của nhân 
		loại và được định danh bằng khái niệm “Văn hóa Sa Huỳnh”'. 
		
		Sa Huỳnh qua bao lần biến đổi đã trở thành nơi nghỉ mát, du lịch hè lý 
		tưởng. Sa Huỳnh có đủ các món ngon đặc sản biển nhưng hấp dẫn nhất là 
		món mắm nhum và cua huỳnh đế. Người Sa Huỳnh có câu: “Giàu chất của kho, 
		nghèo lo hủ mắm”. Con nhum (cầu gai) đã hiếm và chỉ bắt theo mùa. Còn 
		mắm nhum thì hiếm hơn. Mắm nhum Sa Huỳnh nổi tiếng cả nước, thời nhân 
		Nguyễn, vua Minh Mạng hạ lệnh hằng năm địa phương phải “tiến” về kinh đô 
		12 cân mắm. Mắm nhum thời đó trở thành “mắm tiến”. 
		
		Sau mắm nhum là cua huỳnh đế. Đây là giống cua to con, cân nặng cả ký, 
		toàn thân có màu đỏ gạch. Đã đặt chân đến Sa Huỳnh, du khách khó quên 
		món cua luộc chấm muối. Mỗi người chỉ ăn vài con cũng đủ no nê. Khách có 
		thể chọn vài xâu cua còn tươi rói mang về làm quà cho người thân. Sa 
		Huỳnh còn là vựa muối lớn ở miền Trung, chẳng thua kém gì muối Cà Ná và 
		muối Hòn Khói. Diện tích các cánh đồng muối ở đây chiếm gần 500 ha và 
		hàng năm sản xuất hàng trăm ngàn tấn muối có chất lượng tốt. Muối Sa 
		Huỳnh từ lâu có mặt khắp các thị trường miền Trung và Tây Nguyên, và 
		dùng nhiều trong công nghiệp chế biến thực phẩm tiêu dùng. 
		
		Từ làng chài nghèo nàn và hoang sơ, Sa Huỳnh ngày nay đã trở thành một 
		thị tứ nho nhỏ, xinh xinh nằm ẩn mình dưới hàng dương rủ bóng thướt tha 
		và rừng dừa thơ mộng, là nơi mà ai đã đến một lần thì thông thể quên, 
		không những vì cuộc mưu sinh ở đây dễ dãi mà còn vì tình cảm con người ở 
		đây mộc mạc và thiết tha: Ngó ra ngoài bãi cát vàng, Cát bao nhiêu hạt, 
		thương chàng bấy nhiêu Ngay cả như nhà thơ Xuân Diệu, sinh thời đã có 
		một lần đến Sa Huỳnh, như đã cảm nhận được vẻ đẹp của đất, trời, biển 
		nước ở đây và đã thốt lên: Hỏi mình biển đẹp vô ngần, Sóng xanh như đến 
		dừng chân Sa Huỳnh
		*Vẻ đẹp Sa Cần, Sa Huỳnh, Biển Dung Quất
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image012.jpg)
		Sa Cần là một trong năm cửa biển của người Quảng Ngãi, nằm ở phía 
		đông bắc huyện Bình Sơn, nơi sông Trà Bồng (hay sông Châu Tử) đổ ra 
		biển. Sách xưa gọi Sa Cần là Thái Cần hay Thể Cần. Sông Trà Bồng chạy 
		đến gần cửa biển thì mở rộng lòng, nước rất êm. Giữa lòng sông nổi lên 
		một quả núi nhỏ với nhiều tảng đá lớn chồng chất lên nhau, gọi là hòn 
		Bà, sách Ðại Nam Nhất thống chí gọi là "Ghềnh Thạch Bàn". 
		
		
		Cả vùng chung quanh cửa Sa Cần là một "hợp thể" của vẻ quyến rũ, thơ 
		mộng, ngay bên cạnh Vũng Quýt, nay gọi là Dung Quất. 
		
		Bên cạnh hòn Ông, hòn Bà với những nét sinh động của tạo hóa, với cảnh 
		sông nước êm đềm, ghe thuyền tấp nập, là các làng chài hai bên cửa biển 
		rợp bóng dừa, rừng dương. Phía tả ngạn là xã Bình Thạnh, với bãi Khe Hai 
		sạch sẽ nằm cách cửa biển không xa thu hút rất nhiều du khách đến nghỉ 
		ngơi, tắm biển. Phía hữu ngạn là các xã Bình Ðông, Bình Thuận với các 
		gành đá dựng đứng mặc sóng gió vỗ vào bờ. Cũng chính tại vùng này đang 
		mọc lên nhà máy lọc dầu số và khu công nghiệp phức hợp Dung Quất. Cảnh 
		vật Sa Cần càng thêm đem và thuận đường đi đến nhờ con đường mới mở về 
		Dung Quất và cầu Trà Bồng mới xây cánh cửa biển chỉ một cây số. 
		
		Sa Cần không chỉ quyến rủ bởi vẻ thơ mộng của thiên nhiên mà còn hấp dẫn 
		bởi nét sinh hoạt đặc trưng của ngư dân quanh cửa biển với tục thờ cá 
		Ông, hội đua thuyền, hát bả trạo... Sa Cần còn cho du khách mênh mang 
		cảm giác về thời gian, về lịch sử, khi biết cách đây hơn 530 năm (năm 
		1471), vua Lê Thánh Tông từng thân chinh đến cửa biển này trong cuộc Nam 
		chinh lịch sử. 
		
		Bởi những lẽ đó, đến với khu công nghiệp và cảng Dung Quất, ta không nên 
		bỏ qua Sa Cần, cũng như khi đến cửa Sa Cần, ta cũng nên đến với Dung 
		Quất đang tấp nập các công trình dựng xây
		
 
		*Thác Trắng, 
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image014.jpg)
		Thác Trắng nằm ở giữa huyện Minh Long. Từ trung tâm huyện lỵ Minh 
		Long đi bộ chừng 40 phút là đến thác Trắng. Xung quanh thác Trắng là một 
		vùng đồi núi rộng lớn chập chùng, ngút ngàn một màu xanh cây lá, thật 
		thơ mộng, trong lành và yên tĩnh. Từ độ cao hơn 40m, dòng nước bạc tuôn 
		trào như suối tóc của nàng tiên buông xõa theo ghềnh đá.
		
		Đến Minh Long giữa những ngày tháng 6 âm lịch, là thời gian cao điểm của 
		nắng nóng, nhưng bên thác Trắng chúng ta như ngỡ mình đang ở giữa những 
		ngày mùa đông. Nơi đây còn có hai hồ nước tự nhiên gần kề nhau dưới chân 
		thác, mỗi hồ khoảng trên 100 m³, nước xanh biêng biếc.
		*Bãi biển Mỹ Khê, 
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image015.jpg)
		Bãi biển Mỹ Khê nằm trên quốc lộ 24B cách thị xã Quảng Ngãi 15 km, 
		cách cảng Dung Quất 16 km và gần cảng Sa Kỳ, thuộc địa phận thôn Cổ Luỹ, 
		xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh. Mỹ Khê là bãi tắm lý tưởng của tỉnh Quảng 
		Ngãi với không gian mênh mông, bãi cát mịn, độ dốc thoải, được che chắn 
		kín đáo, chạy dài 7 km, phía sau là rừng dương xanh thẳm, bên cạnh là 
		con sông Kinh mang vị ngọt của thượng nguồn đỏ về và vị mặn của biển đem 
		lại nhiều đặc sản biển phong phú 
		Hàng năm khách đến bãi biển Mỹ Khê ngày càng đông. Ngoài việc nghỉ ngơi, 
		tắm biển và hít thở bầu không khí trong lành, du khách còn có dịp thăm 
		quan tưởng niệm khu chứng tích chiến tranh Sơn Mỹ. Tỉnh Quảng Ngãi đã có 
		qui hoạch tổng thể khu du lịch Mỹ Khê với diện tích 342 ha để xây dựng 
		các khu vui chơi, giải trí và nghỉ ngơi như khách sạn Mỹ Khê, khu 
		camping dành làm nơi cắm trại.
		 
		*Biển Khe Hai, 
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image017.jpg)
		Biển Khe Hai thuộc xã Bình Thạnh, huyện Bình Sơn, nằm cách QL1A (đoạn 
		ngã ba Dốc Sỏi – Dung Quất) khoảng chừng 3 km về phía đông. Vào ngày hè, 
		có đông đảo du khách của Quảng Nam và Quảng Ngãi đến đây tắm biển nghỉ 
		ngơi.
		Khe Hai có một bãi cát trắng mịn, rặng phi lao ngút ngàn song hành với 
		bờ biển xanh. Phía tây có ngọn núi chạy dài từ bờ rồi lấn sâu ra biển 
		tạo thành một nửa vòng cung rất đẹp, đó là dãy Bàn Than. Phía đông có 
		hòn núi nhô lên gọi là Hòn Ông.
		Từ bãi biển Khe Hai theo đường cao tốc đến cảng biển nước sâu Dung Quất. 
		Nhà máy Lọc dầu số 1 và TP.Vạn Tường từ 5 – 7 km.
		 
		*Di 
		tích lịch sử
		Du lịch lịch sử được chia làm hai nhóm. Một là nhóm các thành cổ và nhóm 
		các di tích chiến tranh. Nhóm các thành cổ gồm Cổ thành Quảng Ngãi, 
		thành Châu Sa, hệ thống phòng thành Cổ Lũy, Thành Bàn Cờ, Thiên Ấn niêm 
		và Long Đầu hý thủy. Nổi bật trong cụm này là thành Quảng Ngãi hay còn 
		gọi là Cẩm Thành (Thành Gấm) được xây dựng theo kiến trúc theo kiểu 
		vô-băng (vauban) và thành Châu Sa, thành cổ bằng đất duy nhất của người 
		Chăm được tìm thấy đến nay.
		
		
		
		Theo Wikipedia thì:
		Thành nằm trên tuyến
		
		quốc lộ 24B đi cảng Sa Kỳ -
		
		Dung Quất, cách trung tâm
		
		thành phố Quảng Ngãi 7 km về phía đông bắc, phía nam giáp
		
		sông Trà Khúc, bắc giáp
		
		sông Hàm Giang về cảng biển Sa Kỳ. Thành có 2 gọng thành, nối thành 
		nội với sông Trà Khúc. Thành Châu Sa(thành Hời) Niên đại TK X Vị trí: xã 
		Tịnh Châu, Thành phố Quảng Ngãi, Quảng Ngãi, cách trung tâm TP. Quảng 
		Ngãi 8 km về phía đông bắc,nằm ở ven bờ bắc, vùng hạ lưu sông Trà Khúc. 
		Thành hình chữ nhật, gần vuông, chạy theo hướng bắc- nam; dài 580m, rộng 
		540m; thành có bốn cửa, mở giữa bốn phía tường thành; rất có thể đây chỉ 
		là thành nội vì theo như khảo sát của Lê Đình Phụng(1988) thì thành còn 
		có hai gọng kìm và vòng thành ngoài rất rộng. Thành đắp bằng đất, hiện 
		tại đo được thành cao 4-6m, chận thành rộng 20-25m, mặt thành rộng 5-8m. 
		Bốn góc thành hiện giờ có bốn ụ đất, có thể là dấu tích của bốn tháp 
		canh. Quanh thành có hào nước rộng 20-25m. Cách thành 500m là khu tháp 
		cổ Gò Phố. Ngô Văn Doanh thành Châu Sa là di tích dân sự lớn nhấttrong 
		khu vực Quảng Nam- Quảng Ngãi thuộc châu Amaravati của Champa xưa. Niên 
		đại của thành được xác định vào khoảng cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X. Cơ 
		sở để xác định là tấm bia được tìm thấy trong khu vực thành. Bia Châu Sa 
		có niên dại xác định là năm 903, trên bia có những thộng tinvề hai vị 
		vua đu62 tiên của vương triều Indrapura (875-982) là Indravarman II và 
		Jaya Simhavarman. Vì vậy thành Châu Sa ít nhất là đã tồn tại trong thời 
		kỳ vương triều Indrapura. Đặc biệt gần đây phát hiện ra dấu tích lò gốm 
		và những tấm đất nung có liên quan đến Phật giáo ở Núi Chồi. Bằng biện 
		pháp so sánh Ngô Văn Doanh và các và một số nhà khao học khác đã xác 
		định, các tiểu phẩm gốm ở Núi Chồi có niên đại thế kỷ X. Khi nghiên cứu 
		Núi Chồi, phát hiện nhiều hiện vật có hình dáng, kích thước và các nhân 
		vật thể hiện trên đất nung có nguồn gốc từ khu đền Chaya- của vương quốc 
		Srivijaya, thế kỷ VII-XIII, miền nam Thái Lan. Ngoài ra còn phát hiện 
		nhiều loại gốm với nhiều chủng loại hoa văn khác nhau. Đó là những bằng 
		chứng chứng tỏ mối quan hệ giữa dân cư thành Châu Sa với các khu vực 
		trong vương quốc Champa và các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á hải 
		đảo. Như vậy ta có thể nói ít nhất là ở thế kỷ IX-X, thành Châu Sa là 
		một trung tâm hành chính, kinh tế quan trọng của châu Amaravati, một địa 
		điểm quan trọng thông thương với các nước trong khu vực.
		
		Lịch sử
		Năm
		
		1924,
		
		kiến trúc sư người
		
		Pháp Henry Parmentier đã tìm thấy ở đây các di chỉ văn hóa và đưa về 
		trưng bày tại
		
		Bảo tàng Điêu Khắc Chăm Pa ở Đà Nẵng. Các dấu vết cho thấy thành cổ 
		Châu Sa đã từng là trung tâm
		
		kinh tế của châu Amaravati thuộc
		
		Vương quốc Chăm Pa trước kia.
		Năm
		
		1994, tức sau 70 năm được phát hiện, thành mới được công nhận là di 
		tích cấp quốc gia của Việt Nam. Việc chậm công nhận di tích cấp quốc gia 
		có thể đã ảnh hưởng đến việc bảo vệ thành cổ; do trước khi được quan 
		tâm, bờ thành đã bị người dân địa phương làm
		
		đường. Hiện nay, đây là nơi thu hút sự chú ý của các
		
		nhà khảo cổ.
		 
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image021.jpg)
		Thành cổ Quảng Ngãi,
		 
		
		Lâu nay, 
		các nhà khảo cổ học thường nhắc nhiều đến quần thể di tích Mỹ Sơn ở 
		Quảng Nam hay những ngọn tháp sừng sững bên trời của Bình Định mà ít đề 
		cập đến thành cổ Châu Sa ở trong khi đây gần như là thành Chămpa duy 
		nhất còn sót lại.
		Tại Quảng Ngãi có một thành cổ được đắp bằng đất của người Chăm: Thành 
		cổ này có tên là thành Ðại La hay thành Châu Sa (vì nằm ở làng Châu Sa, 
		nay là xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh) cách trung tâm thị xã khoảng chừng 
		7km về hướng đông bắc.
		
		Nếu như Ðồng Dương ở Quảng Nam là Kinh đô của người Chăm thế kỷ thứ IX, 
		X thì Châu Sa là thành lũy kiên cố và cũng là "trung tâm kinh tế" ở vùng 
		phía nam. Theo các nhà nghiên cứu, Châu Sa được người Chăm xây vào thế 
		kỷ thứ IX, đến đời Lê tiếp quản và gia cố thêm vào thế kỷ XV. Chu vi 
		chừng 4km vuông, mặt thành rộng 4m, cao 6m, được đắp bằng đất.
		Những cuộc chiến tranh liên miên cộng với thời gian một ngàn năm đã làm 
		cho thành cổ này gần như bình địa nhưng những gì còn lại sẽ giúp cho các 
		nhà nghiên cứu hình dung được phần nào tính quy mô của thành. Hiện dấu 
		tích chỉ còn 3km, bờ thành rộng 4m, chiều cao 6m... và là thành bằng đất 
		duy nhất của người Chămpa được phát hiện tại miền Trung.
		
		
		
		
		
		Khuôn viên của thành được bao bọc bởi những 
		bờ hào khá sâu. Thành còn có hai gọng thành (gọi là càng cua) nối thành 
		nội với sông Trà (do người Chăm rất giỏi thuỷ chiến nên thường xây dựng 
		thành quách ở gần những con sông lớn). 
		
		Châu Sa là địa điểm có nhiều ưu thế về phòng thủ nên được các nhà quân 
		sự chọn làm điểm xây thành. Nơi đây vẫn còn sót lại những hào thành có 
		hình bàn cờ nổi với Cổ Lũy vốn là tiền đồn của người Chăm. Vào những đêm 
		tối trời chỉ cần đốt lên một ngọn lửa ở đây là quan quân ở thành Châu Sa 
		sẽ nhận ra tín hiệu cấp báo có quân giặc tới.
		
		
		
		
		Ở gọng thành phía đông 
		ngày xưa vốn là nơi sản xuất gốm. Qua khai quật người ta đã tìm thấy ở 
		đây nhiều loại gốm với chủng laọi văn hoá khác nhau. Ở vùng của biển Sa 
		Kỳ và bến sông Vực Hồng vùng Thu Xà cũng tìm được những mảnh gốm có cùng 
		niên đại với Châu Sa. Ðiều đó đã nói lên sự giao thương mở rộng giữa 
		thành cổ với khu vực phụ cận qua mạng lưới đường thuỷ.
		
		Ngoài ra người ta cũng phát hiện ra nhiều hiện vật gốm cổ như thẻ bài để 
		đeo trên người gọi là "cút". Các "cút" này dày 1cm, bề ngang 5cm và dài 
		chừng 7-10cm. Cách thành Châu Sa chừng 500m có tháp cổ Gò Phố là nơi 
		hành hương của các tín đồ Bàlamôn vào những ngày lễ. Trong thành cổ 
		người ta còn tìm thấy dấu vết của một kho lương thực khá lớn.
		
		
		
		
		Năm 1924, nhà khảo cổ 
		học người Pháp Henry Parmentier đã phát hiện ra thành Châu Sa gồm toàn 
		bộ phần đất của thành nội ngày nay và một “càng cua” ở phía đông. Ông 
		tình cờ phát hiện trong khuôn viên của viên công sứ người Pháp ở Quảng 
		Ngãi có một tấm bia mang nội dung ca ngợi công đức của vua Chămpa 
		Indravacman II cùng xuất xứ của tấm bia này.
		
		Năm 1988, Tiến sĩ khảo cổ học Lê Đình Phụng (Viện Khảo cổ) phát hiện 
		thêm một “càng cua” nữa ở phía tây thành. Còn Tiến sĩ khảo cổ học Đoàn 
		Ngọc Khôi thì phát hiện thêm thành ngoại của Châu Sa, hiện vẫn còn thành 
		đất dài 6km. 
		
		
		Your Ad Here
		
		
		
		
		Vào khoảng cuối thế kỷ 
		XV, người Việt tiếp quản thành Châu Sa và đặt trụ sở hành chính tại đây, 
		cai quản thừa tuyên Quảng Nam (Từ Quảng Nam đến Phú Yên). Người ta đã 
		phát hiện tại thành cổ này một con triện bằng đồng từ thời nhà Lê cai 
		quản vùng đất này. Con triện hiện được lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử TP. 
		HCM.
		
		Đáng tiếc là ngành văn hóa quá chậm chân trong việc công nhận di tích 
		này để có cách can thiệp cần thiết nhằm ngăn chặn việc đào thành của 
		người dân để làm nền nhà. Sự việc này diễn ra trong nhiều chục năm, mãi 
		đến năm 1994 thì chấm dứt sau khi Châu Sa được công nhận là di tích văn 
		hóa cấp quốc gia. Tuy nhiên, suốt 12 năm nay, Châu Sa vẫn trơ gan cùng 
		tuế nguyệt như nó đã từng chịu trận suốt một nghìn năm qua.
		Nhóm du lịch dã ngoại gồm các địa danh như núi Răng Cưa với vẻ đẹp 
		độc đáo cùng truyền thuyết đẹp về tình yêu đôi lứa của người Cor. Núi Cà 
		Ðam biểu tượng cho lòng quyết tâm chống xâm lược của dân tộc này. Thác 
		Bạc, một ngọn thác hùng vĩ với dòng chạy mạnh quanh năm tạo nên bản hùng 
		ca hoang sơ và thuần khiết.
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image031.jpg)
		 Núi Răng Cưa
		Đặc sản Quảng Ngãi
		
		
		![[IMG]](Ditich_Quangngai_files/image033.jpg)
		Cá bống sông Trà
		Một nét hấp dẫn khác của Quảng Ngãi là những món ăn không giống bất 
		cứ ở vùng nào trên cả nước, đó là cá Bống sông Trà, chim mía, kẹo gương, 
		mạch nha, đường phổi và món Don… tất cả rất đậm đà hương vị của một miền 
		quê; những lễ hội cầu ngư, đua thuyền của ngư dân vùng biển, những phong 
		tục độc đáo của dân tộc H’rê, Cor, Cadong mang đậm sắc thái của Quảng 
		Ngãi...
		Các món bạn nên mua về hay bắt buộc thưởng thức ở Quảng Ngãi gồm 5 món 
		ngọt bánh thuẫn, kẹo gương, mạch nha, đường phèn, đường phổi và hàng 
		loạt các món mặn như cá bống sông Trà, don, gỏi cá cơm, mắm Nhum, chim 
		mía, mắm cái…
		 
		 Bài Đọc Thêm
		 
Di tích 
kiến trúc cổ 
-------
1.Thành 
Châu Sa:
Tục gọi là thành Hời, nằm ở xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh, đông giáp Đồng Dinh, 
tây giáp núi Bàn Cờ, nam giáp sông Trà Khúc, bắc giáp núi Đầu Voi. 
Thành Châu Sa đắp bằng đất, gồm thành nội và thành ngoại. Thành nội có bình đồ 
hình chữ nhật, chiều nang 558m, chiều dài 586m, chân rộng 25m, cao 4,6m, bề mặt 
thành rộng 5,2m Thành ngoại có hai bờ chạy giáp sông Trà Khúc, dài trung bình 
600m, có hình dạng càng cua, hào rộng 12m, trước có nước, chạy dọc bên ngoài 
thành, có thế phòng thủ kiên cố chống địch từ bên ngoài.
Thành Châu Sa được xây dựng vào khoảng thế kỷ IX, X nhằm bảo vệ mặt nam của kinh 
đô Trà Kiệu. Thành nằm gần sông, gần biển nên dễ giao lưu với bên ngoài.
 
		
		2. Hệ thống phòng thành Cổ Lũy:
Nằm ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, hữu ngạn sông Trà và sát cửa biển, do người 
Chàm xây dựng vào khoảng thế kỷ IX, X, được người Pháp miêu tả là một cổ thành 
chắc chắn có tính quân sự. 
Hện thống phòng thành là một 
tiền đồn gồm ba thành liên kết nhau nhằm nhăn thuyền bè đối phương vào cửa Đại 
Cổ Luỹ, có sự liên kết với thành Châu Sa ở tả ngạn sông Trà Khúc. 
Hệ thống phòng thành Cổ Lũy có 
ba vòng thành: luỹ Cổ Luỹ, thành Bàn Cờ và thành Hòn Yàng. 
Hệ thống phòng thành Cổ Luỹ liên 
kết vững chắc, cấu trúc khoa học, để phòng thủ và báo hiệu cho thành Châu Sa.
 
		3.Thành Bàn Cờ:
Nằm ở thôn Phương Bình, xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa, do người Chàm 
xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ X. Thành đắp bằng đất, dựa vào một quả đồi 
tự nhiên, cao 25m, có 4 vòng thành vuông vức, chân xoãi rộng 11m, tạo hình thang 
cân. Đỉnh thành bằng phẳng, diện tích 500m2, ở đây không tồn tại một dấu vết 
kiến trúc nào, có thể là một vọng lâu dùng quan sát chung quanh. Nhân dân ở đây 
gọi là động Bàn Cờ, vì nó vuông vức tựa như bàn cờ. 
Phía Tây thành, trên một chiều 
dài 900m ngổn ngang đá sa thạch chế tác, phía đông có nhiều đá điểm gốc. Từ đó, 
ta có thể nghĩ rằng thành này có liên quan đến việc chế tác đá của người Chàm.
 
		4.Thành Cổ Quảng Ngãi:
Còn gọi tên là Cẩm Thành (thành Gấm) nằm cách Quốc lộ 1A 200m về phía đông, nay 
thuộc phường Nguyễn Nghiêm - TX Quảng Ngãi (thành Quảng Ngãi trước kia nằm ở 
làng Phú Nhơn, huyện Bình Sơn - nay thuộc thị trấn Sơn Tịnh ). Thành được khởi 
công xây dựng năm 1807 ở Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa (trên địa bàn di tích 
hiện nay) và đến năm 1815 thì hoàn chỉnh. 
Cổ thành Quảng Ngãi kiến trúc theo kiểu vô-băng (vauban) có hình bình đồ vuông, 
mỗi cạnh trên 500m, tổng diện tích trên 26 ha. Mặt tiền của cổ thành quay về 
hướng bắc, nhìn ra kinh đô Huế. Thành lấy sông Trà Khúc làm nhược thuỷ, lấy núi 
Thiên Ấn làm minh đ7ờng, hai bên hữu long, tả hổ là núi Ông (Quảng Phú) và núi 
Đá Đen (Phú Thọ), lấy ngọn Thiên Bút làm hậu chẩm. Thành nằm giữa một vùng thiên 
nhiên đẹp, tạo nên sự tổng hòa cảnh quan kiến trúc ngoạn mục. 
Hiện nay cổ thành Quảng Ngãi chỉ 
còn lại dấu tích đoạn bờ thành phía đông và phía nam. Hào thành bị lấp cạn ba 
phía, trừ phía tây mới được kè xây lại bằng đá. Kiến trúc cũ không còn. Tuy vậy, 
nhờ dấu tích bờ thành, trục đường đông tây, ta vẫn dễ dàng nhận biết mặt bằng 
tổng thể của cổ thành Quảng Ngãi.
 
		5.Thiên Ấn niêm hà & Long Đầu hý thủy:
		 
Nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc, về phía bắc tỉnh lỵ Quảng Ngãi, núi Thiên Ấn chỉ 
cao hơn 100m, giống một cái triện (ấn), nhín phía nào cũng thấy núi có hình 
thang cân. Núi chỉ cách đầu cầu Trà Khúc chừng 2km về hướng đông, nay thuộc thị 
trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh. Đỉnh núi bằng phẳng, có một khoảng cây cổ thụ bao 
bọc ngôi chùa cổ, tương truyền được xây dựng từ thời vua Lê và qua nhiều lần 
trùng tu, còn lại di tích cửa tam quan rêu phong cổ kính. Trong khuôn viên vườn 
chùa có 7 "viên mộ" của các vị sư tổ trụ trì chùa, có giếng nước sâu gọi là 
giếng Phật, có quả chuông cổ gọi là Chuông thàn. Ngoài khuôn viên nhà chùa, trên 
khoảng đất thoáng đãng phía tây có phần mộ của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, người đã 
gắng bó máu thịt với đất Quảng Ngãi thuở bình sinh.
Đường lên Thiên Ấn hình xoắn ốc, quang sườn núi có tranh mọc đầy, 
"Bao giờ núi Ấn hết tranh, sông 
Trà hết nước anh đành xa em"
Đứng bên hữu ngạn sông Trà nhìn qua, ta có cảm giác như ngọn núi nằm ngay trên 
mặt sông Trà, nên được người xưa gọi là Thiên Ấn niêm hà (ấn trời đóng trên sông) 
với niềm tin thiêng liêng vào một vùng đất địa linh sinh nhân kiệt. Xưa Thiên Ấn 
được xem là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi, chùa Thiên Ấn được xem là một 
trong những ngôi chùa nổi tiếng cả miền Trung. Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), núi 
được liệt hạng danh sơn và ghi vào tự điển, có sắc phong "Thiên Ấn tự". 
Từ trên đỉnh núi Thiên Ấn, tầm 
mắt có thể thu về một khoảng không gian bao la: xung quanh là những làng mạc, 
ruộng đồng ngát xanh, dòng Trà Khúc lượn lờ duyên dáng, tây là dãy Trường Sơn 
hùng vĩ, đông là mặt biển bao la... Đỉnh núi gợi cho khách tham quan cái cảm 
giác thoát tục, thanh khiết, như thủ khoa Phạm Trinh xưa kia đã viết: 
"Sông bên góc núi đua dòng biếc
Biển sát chân trời bủa sóng xanh
Giếng Phật mạch sâu mùi nước 
ngọt 
Chuông thần đêm vắng giọng đưa 
thanh"
Đầu năm 1990, Bộ Văn hóa đã xếp hạng Thiên Ấn là một thắng cảnh của đất nước, 
bao gồm phần mộ chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Không xa Thiên Ấn, sát Quốc lộ 1A và 
ngay cạnh phía bắc cầu Trà Khúc là núi Long Đầu, từ phía đông bắc một dãy đồi 
thấp mấp mô chạy dài đến đây thì nhô cao lên và đâm vào vực sông Trà Khúc. Vào 
mùa lũ, nước cuộn xoáy nơi vực sông, người xưa hình dung như là đầu rồng đang 
giỡn nước, nên gọi là Long Đầu hý thủy. Đồng thời Long Đầu hý thủy còn gắn với 
câu chuyện vua Nam Chiếu chống Cao Biền. Ngày nay "đầu rồng" đã bị san ủi để làm 
bến xe, nhà cửa, chợ quán, phong cảnh hầu như đã bị tàn phá.
Để tạo nên vẻ đẹp của Thiên Ấn niêm hà và Long Đầu hý thủy phải kể đến con sông 
Trà Khúc. Từ xưa Cao Bá Quát đã ghé qua đây từng ca ngợi sông Trà với những vần 
thơ tuyệt diệu: 
..Bãi uốn sông như sầu quặn khúc
Tối chìm, gió tựa - rượu hơi 
say...
Trước đây, Thiên Ấn, Long Đầu, sông Trà Khúc với những guồng xe nước, những 
chiếc thuyền buồm, thuyền chài trên sông, làng mạc ven bờ... đã tạo thành một 
bức tranh sơn thủy hữu tình nằm ngay ở mé bắc tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Ngày nay bờ xe 
nước không còn, Long Đầu đã trở thành phế tích. Thắng Cảnh này đã phần nào mất 
đi vẻ đẹp vốn có.
 
		
		6.Những cảnh đẹp ở vùng Sa Kỳ - Cổ Lũy
Từ Thiên Ấn, Long đầu xuôi về hướng đông chừng 15km, ta sẽ bắt gặp những 
cảnh đẹp từ Sa Kỳ đến Cổ Lũy, thuộc vùng Mỹ Khê.
Bờ biển Mỹ Khê dài trên 10km, có 3 cảnh đẹp là: Cổ Lũy cô thôn, Thạch cơ Điếu 
tẩu, An Hải sa bàn.
Bờ biển Sa Kỳ - Cổ Lũy có hình cong lưỡi liềm, nước biển ngắt xanh, bãi cát vàng, 
sạch sẽ, có rừng phi lao rì rào quang năm, không khí trong lành, là nơi nghĩa 
mát và tắm biển rất tốt. Các quan chức Quảng Ngãi xưa thường đến đây nghĩ mát 
trong những ngày hè. 
Thôn Cổ Lũy thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh là một mảnh đất rợp mát bóng dừa, 
vây bọc bởi sông nước và biển cả. Mặt sau thôn là sông Kinh, có rừng dừa nước 
xanh tốt, là căn cứ bất khả xâm phạm của đội du kích Tịnh Khê trong những năm 
kháng chiến chống Mỹ. Vào những chiều sương khói mờ ảo, hoàng hôn vây phủ, từ 
trong đất liền nhìn ra, Cổ Lũy như bị tách biệt, gợi cảm giác cô liêu, nên được 
gọi là "cô thôn".
Từ Cổ Lũy đi theo hướng đông bắc tới của Sa Kỳ có mõm núi cao thuộc xã Tịnh Kỳ. 
Thôn An Kỳ, An Vĩnh của xã Tịnh Kỳ, huyện Sơn Tịnh hợp với thôn An Hải thuộc xã 
Bình Câu huyện Bình Sơn thành vùng Ba Làng An nổi tiếng trong kháng chiến chống 
Mỹ. Tại mõm An Vĩnh có nhiều phiến đá hình thoi xếp thẳng hàng như có bàn tay vô 
hình nào sắp đặt, dựng thành vách đá cao. Ở đây có một hang đá lộ thiên, sóng 
biển dội vào, nước trong hang sủi bọt như đang sôi lên, nên được gọi là Hầm Rượu. 
Lại có những vết lõm xuống mặt đá, hình dạng như dấu bàn chân, nên gọi là "bàn 
chân khổng lồ". Đứng chơi vơi ngoài mép nước là một tảng đá nhô cao, được gọi là 
"Thạch cơ điếu tẩu" (Ông câu trên gành đá).
Đất Tịnh Kỳ nằm sát cửa Sa Kỳ, đối diện đảo Lý Sơn, có đường biển nối liền với 
đảo. Tịnh Kỳ vừa nổi tiếng với nghề làm mắm (muới Xuân An, mắm Tịnh Kỳ - Ca dao) 
vừa là một làng ven biển thơ mộng.
Là một cửa biển được xây dựng thành cảng, một vùng nước rộng soi bóng những đồi 
thông, mõm núi, làng chài... Sa Kỳ là một bức tranh hoành tráng và mỹ lệ. Ở bờ 
bắc cửa biển có một bãi cát xoay tròn bốn phía và lõm xuống ở giữa, được gọi là 
"An Hải sa bàn" (mâm cát An Hải).
Vào giữa thế kỷ XIX, Trương Đăng Quế - một đại thần triều Nguyễn, lúc về già về 
sống ở quê, có một câu nói đầy lòng tự hào: "Nhất Huế, nhì đây Cổ Lũy co thôn". 
Người Pháp đã so sánh Mỹ Khê với những bờ biển chan hòa ánh nắng đẹp dẽ của họ ở 
miền nam nước Pháp. Các phi công và ký giả Mỹ cũng thừa nhận vùng bờ biển Sa Kỳ 
- Cổ Lũy là "một trong những bờ biển đẹp nhất Việt Nam". Vùng biển này còn có 
khu chứng tích Sơn Mỹ nổi tiếng.
Cảnh đẹp Sa Kỳ - Cổ Lũy là một điểm tham quan du lịch lý tưởng nếu được giữ gìn 
và tôn tạo tốt.…
		
		Post ngày:
		12/08/18 
		Nguồn: Internet