MỘT LẦN ÐẾN 
				CHÙA THẦY 
				
				Bình An
				
				---o0o---
				
 
				
				May mắn 
				làm sao , hôm đó chúng tôi có dịp đi chùa Thầy vào đúng ngày 
				mồng một. Mùa thu xứ Bắc , trời không một chút nắng , thỉnh 
				thoảng có mưa lâm thâm . Người miền Nam ra Bắc chỗ nào cũng muốn
 
				đi , muốn đến. Danh thắng này nằm trong chương trình tham quan 
				xứ Ðoài của đoàn chúng tôi từ trước: đến chùa Thầy  để chiêm 
				ngưỡng những tác phẩm điêu khắc của nước ta thời nhà Lý, chưa 
				đến chùa Thầy coi như chưa ra đất Bắc. Khởi hành từ  Ðại Lải , 
				Vĩnh Phúc  , ngược trở lại con đường đã đến từ hôm mới ra nhưng 
				thấy nơi nào cũng mới . Nước sông  Hồng đang lên cao đỏ quạch 
				màu phù sa ,  nếu không có cái màu đỏ này cứ ngỡ như mình đang ở 
				miền Tây , và tôi chợt cảm thấy hạnh phúc vô cùng khi mình đã  
				có dịp đi qua hai  dòng sông gắn liền từ thời thơ ấu trong những 
				cuốn sách  địa lý mỗi khi tập vẽ bản đồ. Hà Nội hôm đó ngày chủ 
				nhật , dập dìu người đi đền , chùa cầu phúc và đặc biệt là hoa , 
				nơi nào cũng thấy hoa , hoa hồng đóa nhỏ , lớn hơn hoa tiểu muội 
				ở miền Nam một chút , hoa chở trên xe đạp về phố , hoa bán trên 
				đường , trên phố .... Xe rẽ vào  phố Chùa Hà , chật ních xe cộ , 
				lớp người đi , lớp người dừng lại mua nhang , hoa , còi xe cứ 
				tin tin hết xe hai bánh  đến xe bốn bánh , rộn ràng , nôn nóng . 
				Thoát khỏi nút giao thông chùa Hà,  mới thấy nhẹ nhõm khi xe bắt 
				đầu ra ngoại thành về hướng Hà Tây . 
				
				Những 
				cánh đồng lúa xanh rờn , ngút mắt  níu bầu trời xuống thấp hơn 
				một chút . Một vài ngọn núi đá vôi nhô lên nổi rõ trên nền tấm 
				thảm nhung xanh của lúa . Mười tám ngọn núi đá vôi , ngày xưa ,  
				vua Lý Công Uẩn khi đi kinh lý qua đây đã nói : “Ta thấy nơi đây 
				là nơi sơn kỳ thủy tú “ , và rót ba chén rượu đặt cho vùng đất 
				là Hạ Long cạn giờ  chắc không còn đủ . Tôi chợt nhớ lại vùng 
				đất Ninh Bình vừa đi qua mấy ngày hôm trước , những ngọn núi đã 
				vôi đã bị ngoạm dần . Ðá vôi được nghiền làm xi măng , chỗ núi 
				mất đi đã thành nhà , thành phố. Một người trong đoàn ,  quê gốc 
				Ninh Bình ngâm nga : “Sơn kia rày đã nên nhà” với một chút ngậm 
				ngùi , luyến tiếc .
				
				Thủy 
				đình hiện ra trong mắt ,  một đội quân tí hon tiến đến tiếp thị 
				: “Ðây là sân khấu rối nước , phim “Ðêm hội Long trì “ quay tại 
				đây, bác mua giúp cháu mấy con rối, kỷ niệm một lần đến chùa 
				Thầy...” . Một cô bé khoảng chừng mười lăm tuổi sẵn sàng  thuyết 
				minh cho du khách mà không đòi hỏi một tí thù lao nào , miễn sao 
				chút nữa : “Bác mua giúp cháu ít quà”. Tôi đồng ý . Bằng một 
				giọng nói nhanh , líu lo như chim , Nga , cô bé thuyết minh kể 
				cho tôi nghe về chùa Thầy , nơi gắn bó từ thuở mới sinh ra đời, 
				những câu chuyện, những ngày tháng năm nằm  lòng trong ký ức của 
				người dân sống trong vùng , từ đời này sang đời khác , bám lấy 
				chùa làm kế sinh nhai.
				
				Chùa 
				Thầy tên chữ là “Thiên Phúc Tự” nằm ở chân núi Sài thuộc địa 
				phận xã Sài Sơn – huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây , cách Hà Nội 
				khoảng 20km về phía Tây Nam . Chùa được xây dựng vào thời vua Lý 
				Nhân Tông (1072-1127) lưu dấu tu hành của một vị cao tăng thời 
				Lý , Thiền sư Từ Ðạo Hạnh . Theo thiền phả thì Thiền sư họ Từ 
				tên tục là Lộ , con quan đô sát Từ Vinh , mẹ là Tăng thị Loan , 
				quê ở An Lãng , huyện Vĩnh Thuận nay là làng Láng , huyện Từ 
				Liêm , Hà Nội .
				
				Chuyện 
				kể rằng , từ thuở nhỏ Thiền sư đã có những hành động khác thường 
				. Lớn lên ngài ứng thi khoa bạch liên , đỗ đầu nhưng không ra 
				làm quan mà xuất ra hoc đạo , rồi cùng với ngài Giác Hải , không 
				lộ sang Tây Thiên (Aán Ðộ)  cầu pháp . Khi đắc đạo , ngài trở về 
				núi Sài dựng gậy tích ngày đêm tập tụng. Khi lòng thiền được 
				rộng mở ngài đi khắp bốn phương tham thiền vấn đạo . Lúc ngộ 
				được tâm ấn Thiền sư trở về giảng đạo , dạy học, hái lá làm 
				thuốc giúp dân , tổ chức cho dân sinh hoạt văn hóa như đá cầu , 
				đánh vật , múa rối nước .... Do đó nhân dân cảm phục kính mến 
				gọi thiền sư bằng một từ thân mật , gần gũi là “Thầy”. Chùa ngài 
				tu là chùa Thầy , núi ngày hóa đá là núi Thầy , làng ngài sống 
				là làng Thầy , thậm chí đến cả tổng cũng là “Tổng Thầy”. Theo 
				truyền thuyết phong thủy thì núi Sài  là con rồng lẻ đàn (Qoái 
				Long) , sân chùa là lưỡi rồng , thủy đình là ngọc, còn xung 
				quanh “Thập lục kỳ sơn” là quy là phượng chầu về.  
				
				
				            Ban đầu , chùa Thầy chỉ là thảo am nhỏ mang tên  
				Hương Hải . Nay tổng quan chùa Thầy gồm có : Trước chùa có hồ 
				Long Trì (ao rồng) giữa hồ có nhà thủy đình là hậu trường của 
				nghệ thuật biểu diễn trò rối nước trong ngày hội . Hai bên chùa 
				có hai chiếc cầu xây dựng theo kiểu “Thượng gia hạ kiều” , bên 
				trái là Nhật tiên kiều thông ra đền thờ tam phủ , bên phải là 
				Nguyệt tiên kiều bắc qua áo lên núi xây dựng vào năm 1602 do ông 
				“Trạng Bùng” xây cung tiến.
				
				
				            Toàn khu chính điện của chùa là một khuôn viên hình 
				chữ nhật gồm 3 tòa nhà to và dài xây song  song hình chữ tam ,có 
				hai dãy hành lang chạy kèm hai bên , đầu hồi thờ A La Hán , sau 
				chùa là nhà tổ , gác chuông , gác trống hệ thống kiến trúc theo 
				kiểu “Nội Vương ngoại quốc” ngôi bảo điện đồ sộ chỉ có 36 mộng 
				chính , còn gỗ được xếp chồng lên nhau nhưng lại rất vững chắc.
				
				Bước vào 
				chùa Thượng (chùa chính) , Nga nhắc tôi  bỏ  giày phía ngoài rồi 
				mới bước vào gian chánh điện . Nga thuyết minh cho tôi, gỗ trong 
				chùa chính là gỗ lấy từ Hòa Bình (Thanh Hóa) đưa về, khoảng hơn 
				100 tấn gỗ , chủ yếu là gỗ lim và toàn bộ những chi tiết đều 
				được kết nối bằng mộng , tất  cả qua 7 lần trùng tu . Có hai cột 
				gỗ nguyên bản từ năm 930 bằng gỗ kim giao , là một loại gỗ phản 
				ứng ngả màu đen khi gặp độc được không hề bị mối mọt qua thời 
				gian , và người ta tính toán rằng hai cột gỗ này còn chịu được  
				cả ngàn năm nữa . Có ba gian thờ trong chùa chính : gian giữa 
				thờ tượng Phật A Di Ðà , gồm bên trái có tượng Ðức quán Âm , bên 
				phải là tượng Ðại Thế Chí , phía dưới là bệ đá “Bách Hoa Ðài” 
				tạc từ thời Trần thế kỷ thứ tám , bên trên để hòm lịch triều tôn 
				phong  của Thiền sư , gồm có 36 sắc phong bằng giấy dó không hề 
				bị hư theo thời gian , dưới nữa là tượng Thiền sư nhập định trên 
				toà sen tạc vào thời Lý , thế kỷ thứ sáu , một án nhang bằng gỗ 
				vàng tâm, văn hoa chạm trỗ nguyên bản cách đây 500 năm  có một 
				chỗ bị khuyết . Chỉ vào chỗ bị khuyết này, Nga bảo với tôi : “ 
				Giả thuyết cho rằng ngày ấy con người không cao , mỗi lần đến 
				viếng chùa, mỗi người người chạm tay một ít lâu dần mòn đi như 
				thế”. 
				
				Gian bên 
				trái chùa chính thờ tượng toàn thân Thiền sư  bằng gỗ chiêm đàn 
				đặt trong khám . Giọng líu lo như chim cô bé kể với tôi rằng : 
				Hàng năm vào ngày mùng 7 tháng 3 tổ chức lễ rước Thầy . Từ  một 
				giờ chiều ngày mùng 5 là lễ Mộc dục, khám được mở cửa làm lễ .  
				Gian bên phải chùa chính thờ tượng vua Lý Thần Tông , là hậu 
				thân của Thiền sư . Tượng đức vua bằng gỗ mít ,  làm từ thế kỷ 
				mười lăm , đặc biệt ở gian này có một đôi chim phượng cũng bằng 
				gỗ mít , dưới chân là thân cây mít tròn có đường kính lớn hơn 1 
				mét bên trên tạc hình đôi phượng làm công tác đưa thư . 
				
				
				Bước 
				sang chùa Hạ , là nơi lễ bái và giảng đạo 2 ngày trong tháng. 
				Ngày xưa , trong ba tháng hè nơi đây có khoảng 300 vị sư về học 
				đạo . Vui nhất là khi chỉ vào bức phù điêu “Thập điện diêm 
				vương” bằng gỗ mít , mới được làm cách đây 5 năm , ghép gỗ chạm 
				trỗ hoa văn copy  lại bản chính , cô bé líu lo: “Ở trên dương 
				thế người buôn bán điêu toa chết xuống âm phủ sẽ bị đưa vào vạc 
				dầu , người nào cân gian , cân dối chết sẽ bị quả cân đập vào 
				đầu.....” Như trả một bài học thuộc lòng , cô bé  kể rành rọt 
				chuyện Mục Liên, Thanh Ðề, chuyện ân đền oán trả ..... nghe như 
				thật.  Nhìn bức phù điêu hoành tráng quá , không kềm được tôi 
				hỏi một câu hơi “thực tế phũ phàng” : “Bức phù điêu này làm hết 
				bao nhiêu tiền vậy cháu?”. “Dạ 40 triệu đó bác”. Cô bé trả  lời 
				rồi  đưa tôi sang chùa Trung. Tôi  ngoái  nhìn lần nữa  mái nhà 
				lợp bằng ngói mũi hài của chùa hạ , có những cây cỏ khô mọc 
				thẳng đứng lên mái ngói  giống như những ngôi nhà cổ ở Hội An .
				
				
				Nổi bật 
				nhất ở bên trong chùa Trung là tượng hai vị hộ pháp thật to lớn 
				. Cô bé Nga khẳng định với tôi rằng đây là hai tượng hộ pháp to 
				nhất nước , tượng ngồi mà đã cao đến bốn mét , được làm với hơn 
				hai tấn đất  sét và giấy bản , cách đây khoảng 400 năm . Chỉ vào 
				hai tượng ông Thiện , ông Aùc , cô bé tròn môi : “Bác đừng tưởng 
				là ông Thiện tượng trưng cho việc thiện , ông Aùc tượng trưng 
				cho việc ác nhé . Ý nghĩa của ông Aùc ở đây là khuyên người ta 
				không làm việc ác mà phải làm việc thiện , gọi là cải ác đấy” . 
				Tôi gật gù ra chiều tán thưởng . Chùa Trung có rất nhiều tượng , 
				từ vị Tuyết Sơn gầy ốm , phật Di Lặc tươi vui , Phật bà quan âm 
				thiên thủ , thiên nhãn , các vị  sao Nam Tào Bắc Ðẩu đến  Bát bộ 
				kim cương là tám vị tướng có sức khỏe và trí tuệ phi thường ... 
				Tất cả làm bằng thạch cao có từ thế kỷ mười tám.  Bước chân ra 
				khỏi của chùa Trung , cô bé chỉ cho tôi xem một hòn đá chìm có 
				kích thước khoảng 2x1m và nói : “Ðây là hòn đá chìm mà thiền sư 
				Từ Ðạo Hạnh đã yểm bùa , hơn 1000 năm nay không xê dịch được , 
				với ý nghĩa  như là giữ gìn hiện vật trong chùa không bị mất cấp 
				, không ai có thể lấy được thứ gì trong chùa ra ngoài mà bước 
				qua khỏi hòn đá chìm này” . Tuy không tin dị đoan, nhưng nhìn 
				quang cảnh chùa ngày mùng một , dập dìu khách du lịch , người lễ 
				bái , trong tôi cũng nhen nhóm một ý nghĩ: “Chùa  Thầy tồn tại 
				qua bao nhiêu năm , nhất là giữa những năm bon đạn ném xuống như 
				mưa trên đất Bắc ,  khiến lòng người không tin cũng phải tin”.
				
				
				
				            Tôi theo cô bé Nga ra khu vực bên ngoài chùa chính , 
				qua hai chiếc cầu, đến đền Tam Phủ , rồi bước bãi cỏ nhìn bao 
				quát hết quang cảnh chùa , phía trước mặt tôi là ao rồng có thủy 
				đình nổi lên giống như một sân khấu rối nước , quay ra phía sau  
				trên núi cao kia có nhiều hang động như : hang Thanh Hóa , hang 
				Các Cớ , hang Gió , hang Phật sinh .... Và gần  50 chiếc bia đá 
				cổ nằm rải rác trên núi đang chờ thử sức bền của đôi chân mang 
				giày cao gót của tôi . Nhưng tiếng gọi của mọi người trong đoàn 
				đã làm tiêu tán ý nghĩ  này : chúng tôi còn phải đi nhiều nơi 
				nữa trong ngày . Ừ thôi , thời gian có hạn , cũng là một dịp 
				“cưỡi ngựa xem hoa” khi ra xứ Bắc . Giá mà mình có nhiều thời 
				gian hơn để có thể ngắm nhìn tường tận kỹ càng một nơi mà tất cả 
				những người đi theo ngành mỹ thuật , điêu khắc của đất nước đều 
				phải đến đây nghiên cứu . Một di tích lịch sử cấp I của Quốc Oai 
				, một công trình kiến trúc độc đáo , một danh lam thắng cảnh nổi 
				tiếng của Bắc Hà ..... 
				
				
				            Tặc lưỡi tiếc nuối , tôi theo cô bé thuyết minh ra 
				ngoài và mua giúp một ít quà của chùa Thầy : bánh chè lam , kẹo 
				vừng , những con rối .... Lên xe , tôi ngoái nhìn lần nữa  tổng 
				quan cảnh chùa Thầy , nhủ thầm sẽ trở lại một ngày nào đó , và 
				dứt khoát sẽ có bọn trẻ con đi cùng. Nhưng chắc là khi đó chúng 
				nó phải  đủ lớn để hiểu được ý nghĩa  công trình kiến trúc độc 
				đáo này và  đủ sức khám phá cho bằng hết những hang động trên 
				núi kia.