|   | 
    
    
       
    
    
    
    LẠNG SƠN 
    
    (Mă vùng 
    84 - 25) 
      
    
    Diện 
    tích 
    8 305 km2 
    Dân số (2002): 719 300 người 
    Tỉnh lỵ: Thị xă Lạng Sơn 
    Các huyện: Tràng Định, Văn Lăng, Văn Quan, B́nh Gia, Bắc Sơn, Hữu 
    Lũng, Chi Lăng, Cao Lộc, Lộc B́nh, Đ́nh Lập. 
    Dân tộc: Việt (Kinh), Tày, Dao, Nùng 
    
     
     Địa h́nh 
    của tỉnh chủ yếu là rừng núi. Hệ thống sông suối tương đối dày đặc đă tạo 
    nên những cánh đồng thung lũng màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển nông 
    nghiệp. Lạng Sơn có tiềm năng về khoáng sản, nông lâm sản mà nổi bật là hoa 
    hồi, tiềm năng du lịch và thương mại.  Giao thông đường bộ, đường sắt đều 
    thuận tiện. Quốc lộ 1A nối liền Hà Nội - thị xă Lạng Sơn dài 154 km, Hà Nội 
    - Lạng Sơn - Đồng Đăng dài 170 km. 
    
    
    Là địa đầu của tổ quốc, Lạng 
    Sơn là tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh, non nước hữu t́nh, có nhiều di 
    tích lịch sử với nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, nơi có di tích văn hoá 
    Bắc Sơn, văn hoá Mai Pha. Các danh lam thắng cảnh cùng nhiều di tích lịch sử, 
    văn hoá là những tiềm năng to lớn cho việc phát triển du lịch của tỉnh Lạng 
    Sơn, làm cho Lạng Sơn có sức cuốn hút lạ kỳ với du khách. 
    Từ xa xưa, trong ca dao của người Việt đă có câu: 
    
     
    
    Đồng đăng có phố Kỳ Lừa  
     
    Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. 
    
     
    
    
    Câu ca dao đó đă làm nổi bật 
    tiềm năng du lịch của tỉnh Lạng Sơn. 
    Động Tam 
    Thanh 
    
    
      Động 
    Tam Thanh nằm sát thị xă Lạng Sơn gồm có 3 động là: Nhất Thanh, Nhị Thanh, 
    Tam Thanh. Nổi tiếng nhất là động Tam Thanh ở phía tây phố Kỳ Lừa, trong một 
    dăy núi có h́nh đàn voi phủ phục trên mặt cỏ xanh. Hang động Tam Thanh ở 
    lưng chừng núi. Cửa hang nh́n về hướng đông cao chừng 8 m có lối lên là 30 
    bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um tùm che khuất ánh nắng. Vách 
    động bên phải có khắc bài thơ của Ngô Th́ Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc 
    trấn Lạng Sơn, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Ư của bài thơ là: "Suối 
    trong tuôn chảy trên hàng trăm mỏm đá như đang tṛ chuyện. Quay lưng lại 
    nh́n sang ngọn núi phía trước thấy ḥn Vọng Phu". Trong động có tượng Phật A 
    - di - đà và nhiều nhũ đá ngoạn mục.
    
    Ngô Th́ Sĩ c̣n là người phát hiện ra động Nhị Thanh và cho tu sửa tôn tạo 
    thành nơi du ngoạn. Động Nhị Thanh khá rộng, có nhiều ngóc ngách, nhiều nhũ 
    đá rơi xuống muôn h́nh vạn dạng. Động Nhị Thanh ở gần động Tam Thanh. Từ cửa 
    động chính nh́n lên là ngôi chùa Tam Giác thờ cả Khổng Tử, Lăo Tử, Thích Ca. 
    Trong động có tượng truyền thần Ngô Th́ Sĩ tạc vào vách đá và trên vách động 
    c̣n ghi nhiều bài kư phú của ông.  
    
    Ải Chi 
    Lăng 
    (Lạng 
    Sơn) 
    
     Ải 
    Chi Lăng - vùng đất địa linh nhân kiệt và rực rỡ chiến công ở miền biên ải 
    phía Bắc của Tổ quốc. Với địa thế hiểm yếu, ải Chi Lăng được coi là bức 
    tường thành của kinh thành Thăng Long trong việc chặn đứng các cuộc viễn 
    chinh khét tiếng từ phương Bắc tràn sang. Chi Lăng là ải có quy mô hoành 
    tráng và đồ sộ chạy dài gần 20km, rộng 3km nối liền hai huyện Chi Lăng và 
    Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Ải Chi Lăng là thắng cảnh được bao bọc bởi dăy 
    núi đá Kai Kinh ở phía Tây và dăy núi Bảo Đài ở phía Đông. Hai đầu ải có 
    những ngọn núi đá độc lập, cao chót vót tạo thành thế hiểm. Lịch sử oai hùng 
    của Chi Lăng gắn liền với những hoạt động của các nhà quân sự thiên tài như 
    Lư Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và những thủ lĩnh tài năng của xứ Lạng: Pḥ 
    mă Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Đại Huề...
    Ngược ḍng lịch sử xa xăm, 
    con người c̣n để lại ở Chi Lăng những vết tích của nền văn hóa Bắc Sơn - Mai 
    Pha nổi tiếng với những hang động đẹp như trong huyền thoại và những ŕu đá, 
    mảnh gốm... minh chứng cho những giai đoạn sơ sử, tiền sử của con người sinh 
    sống ở nước ta. 
     
    Vào những năm trước và sau công nguyên, ải Chi Lăng đă gắn liền với sự 
    nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, đấu tranh chống các triều đại 
    phong kiến Trung Quốc xâm lược. Thế kỷ XIV, tể tướng nhà Trần là Phạm Sư 
    Mạnh khi cưỡi ngựa qua biên ải đă hạ một câu thơ bất hủ: "Chi Lăng ải hiểm 
    tựa lên trời". 
     
    Năm 1077, phụ quốc Thái uư Lư Thường Kiệt đi thân hành về Chi Lăng gặp pḥ 
    mă Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lư và Giáp Khẩu 
    (Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đă góp sức đánh tan bọn xâm 
    lược Tống lần thứ hai. 
    Thế kỷ XIII, cả thế giới 
    kinh hoàng trước vó ngựa của đế quốc Nguyên Mông. Tuy nhiên, năm 1284, khi 
    cánh quân Nguyên qua ải Chi Lăng đă bị quân ta chặn đánh kịch liệt và tướng 
    Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Đạo Đại vương Trần 
    Quốc Tuấn đă thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, 
    phục binh của ta từ dưới hố dùng mă tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên 
    Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt chúng... 
    Thế kỷ XV, ải Chi Lăng lại 
    ghi vào lịch sử Việt Nam một trang chói lọi, đó là chiến thắng 1427, giết 
    chết Nguyên soái An Viễn hầu Liễu Thăng - chủ tướng của giặc cùng 1 vạn quân 
    Minh, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân 
    Minh, giải phóng đất nước. Thế kỷ XVIII, dưới thời Hoàng đế Quang Trung - 
    một nhà quân sự thiên tài, Chi Lăng lại một lần nữa cùng quân dân cả nước 
    đánh tan tành quân xâm lược nhà Thanh... Vào các thế kỷ XIX và XX, ải Chi 
    Lăng lại chứng kiến những chiến công đánh Pháp, đuổi Nhật của quân dân ta. 
    Ải Chi Lăng đă được nhiều 
    quan khách quốc tế, các nguyên thủ quốc gia, các tướng lĩnh, nhà sử học, 
    khách du lịch... đến thăm với một sự trân trọng đặc biệt. Slôvắcxốc - nhà 
    dân tộc học nổi tiếng Tiệp Khắc trước đây trong chuyến đi thăm ải Chi Lăng 
    đă từng đánh giá: "Có lẽ đây là chiến luỹ h́nh thang độc nhất trên thế giới, 
    nó thể hiện đầu óc thông minh và tài trí quân sự tuyệt vời của một dân tộc 
    luôn phải chống trả với một đội quân xâm lược mạnh hơn ḿnh gấp trăm lần 
    trong quá tŕnh lâu dài dựng nước và giữ nước. Thể hiện một tầm nh́n chiến 
    lược nổi tiếng: "Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh". 
    
    Ḥn Vọng Phu 
    
    Ngày xưa, ở thị trấn 
    Kinh Bắc có một người đàn bà goá chồng từ sớm, ngày ngày đi ṃ cua, bắt ốc 
    để nuôi hai con, một trai, một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, đứa 
    con trai độ mười tuổi và Tô Thị, con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa 
    nghịch với nhau, không ai kiềm chế nổi. 
     
    Một hôm, Tô Văn chơi 
    ném đá, rồi không biết thế nào ném trúng ngay vào giữa đầu em. Tô Thị ngă 
    vật xuống đất chết ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy 
    thẳng một mạch ra đường không c̣n dám ngoái cổ lại. 
     
    May sao, sau khi xảy 
    ra tai nạn, một bà hàng xóm biết chuyện chạy sang cứu Tô Thị cầm được máu. 
    Đến khi người mẹ trở về th́ con gái đă ngồi dậy được. 
     
    Nhưng c̣n Tô Văn th́ 
    biệt tăm, ngày một ngày hai cũng không thấy trở về, t́m khắp nơi mà không 
    thấy. Người mẹ nhớ con trai, buồn phiền ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm 
    nặng rồi qua đời, bỏ lại Tô Thị một ḿnh. Đứa con gái nhỏ được hai vợ chồng 
    người láng giềng nhận đem về nuôi. Sau đó ít lâu, họ dời lên xứ Lạng để làm 
    ăn nên đem Tô Thị đi theo. 
     
    Lớn lên, Tô Thị xinh 
    đẹp lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ư. Dành dụm được ít 
    vốn, nàng xin phép bố mẹ cho nàng được mở một cửa hàng buôn bán, hai vợ 
    chồng người hàng xóm thấy con ḿnh đă trưởng thành nên đều ưng thuận. Học 
    được nghề làm nem từ bố mẹ, Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở hàng Cưa tại chợ 
    Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. 
    Người ta đến thưởng thức nem ngon, nhưng cũng có người vừa thích nem lại vừa 
    yêu bóng yêu gió nàng. Chiều khách th́ thật là khéo chiều, nhưng nàng rất 
    đứng đắn làm cho mọi người càng thêm vị nể. 
     
    Thấm thoát Tô Thị đă 
    hai mươi tuổi. Tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào. 
     
    Một hôm, có một 
    thanh niên tuổi ngoài hai mươi vẻ ngoài tuấn tú, đem thuốc Bắc từ Cao Bằng 
    về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở Hàng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon lại có chỗ 
    cho trọ rộng răi, chàng thanh niên liền t́m đến. Chàng thấy nem quả thật là 
    ngon và cô bán hàng cũng thật tươi gịn. Biết cửa hàng một hai lần rồi cứ 
    mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại đến hàng nem. Chàng thanh niên 
    và Tô Thị trở nên thân thiết, trước c̣n mến nhau sau yêu nhau. Hai người lấy 
    nhau được hơn một năm th́ Tô Thị có mang sinh được một gái. Hai người yêu 
    nhau rất mực. Lại thêm mụn con mối t́nh càng khăng khít.  
     
    Một hôm người chồng 
    về nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hè. Anh bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ 
    gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt nhận thấy đầu vợ có cái sẹo 
    to, anh nói: 
     
    - Đầu em có cái sẹo 
    to, thế mà bây giờ anh mới biết. 
     
    - Bây giờ anh mới 
    biết à? Anh cho là xấu phải không? - Tô Thị hỏi. 
     
    - Có xấu ǵ đâu! Tóc 
    che, có ai mà biết ! Em đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to thế ? 
     
    Thấy chồng hỏi một 
    cách vui vẻ, nhân vui câu chuyện. Tô Thị mới kể tỉ mỉ cho chồng nghe những 
    ǵ xảy ra hồi c̣n bé. Trấn Kinh Bắc, nơi quê cũ, người anh đi mất tích, mẹ 
    chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng, rồi ở luôn ở đấy cho đến bây 
    giờ. Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn. 
     
    Biết bao đau thương 
    buồn thảm. Chàng tự nhủ thầm : " Sao ḿnh không là một kẻ khác mà lại là Tô 
    Văn. Thôi ḿnh đă lấy lầm em ruột rồi " Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, 
    cái ngày chàng đă lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đă đi lang 
    thang không dám trở về nhà, rồi được một người buôn thuốc bắc đem về nuôi ở 
    Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là Lư. Chàng 
    thường đem hàng xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. 
    Ngoài con đường Lạng Sơn - Cao Bằng - Lạng Sơn chàng cũng không đi đến đâu 
    cả. Hơn mười năm qua, chàng yên trí gia đ́nh ở miền xuôi chắc không c̣n một 
    ai nữa, quê cũ đối với chàng bây giờ như trong sương mù, không c̣n nghĩ về 
    đó làm ǵ. 
     
    Văn nghĩ ngợi, rầu 
    rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ư đến. Nàng vẫn vui vẻ, 
    hồn nhiên, không biết chồng ḿnh đang ở những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy 
    Tô Thị ngây 
    thơ, vui vẻ như thế. Tô Văn càng không muốn cho nàng biết sự thực. Ai lại để 
    cho một người em gái ḿnh c̣n non trẻ như thế kia biết được một vụ loạn luân 
    như thế bao giờ! Một việc loạn hôn không do ư hai người định, nhưng chàng 
    quyết tâm giải quyết cho xong. Thôi hay lại đi biệt chuyến nữa, em gái ḿnh 
    trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm ǵ chả lấy được một người chồng khác. Văn 
    nghĩ thế, rồi anh t́m cách để đi.  
     
    Giữa lúc tâm trạng 
    Văn như thế th́ có việc bắt lính thú. Anh xin đăng lính, không bàn với vợ 
    nửa lời. Măi đến lúc sắp lên đường, anh mới nói với
    vợ: 
     
    - Anh đă đăng lính 
    rồi, em ạ! Sớm mai lên đường. Đi chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và 
    cũng có khi lâu hơn. Em ở nhà nuôi con, c̣n về phần em, em cứ định liệu. 
     
    Tô Thị nghe chồng 
    nói như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà 
    chồng ḿnh lại bỏ đi một cách quái gở như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, 
    khóc măi không nói nửa lời. C̣n Văn chỉ những bứt rứt âm thầm cho việc ḿnh 
    đi như vậy là giải thoát. 
     
    Từ ngày chồng đi rồi. 
    Tô Thị chẳng thiết ǵ đến việc bán hàng, ngày ngày nàng bế con lên chùa Tam 
    Thanh cầu cho chồng đi được b́nh yên, chóng đến ngày về lại cùng nhau sum 
    họp. Nhưng ba năm qua, bốn năm qua, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ 
    cho là chồng nàng chết, muốn hỏi nàng về làm vợ, nhưng nàng nhất định chối 
    từ. Có một tên kỳ hào có tiếng hống hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. 
    Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con c̣n thơ dại không dám chối 
    từ ngay, sợ rước vạ vào thân chỉ t́m cách khất lần. Nhưng khất lần măi cũng 
    không được, nên cuối cùng nàng hẹn với lăo một kỳ hạn, để sau này t́m mưu kế 
    khác. " Biết đâu đến ngày ấy chồng ḿnh lại chả về!" 
    Nàng nghĩ thế. Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đến đỏ con mắt mà 
    vẫn không thấy về cho. Nàng ôm con lên Chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời 
    bỗng nổi cơn giông. Nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo 
    lên một mỏm đá cao chót vót nh́n về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. 
    Gió rít lên từng hồi qua khe đá. Mưa như trút nước. Chớp loé khắp núi. Nàng 
    vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nh́n về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi 
    rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một lớn. Tô Thị vẫn 
    bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao chót vót. 
     
    Sáng hôm sau, mưa 
    tạnh, gió yên, mặt trời toả ánh sáng xuống núi rừng. Rất nhiều người dân 
    xung quanh khi nh́n lên đỉnh núi th́ đă thấy nàng Tô Thị bế con đă hóa đá từ 
    bao giờ. Ngày nay ḥn đá ấy vẫn c̣n ở tỉnh Lạng Sơn, gây cho khách tham quan 
    nhiều nỗi vấn vương khi nhớ lại câu chuyện truyền kỳ éo le của một thời. Vẫn 
    c̣n đó câu ca dao xưa : 
    
    Đồng Đăng có phố 
    Kỳ Lừa 
    Có nàng Tô 
    Thị, có chùa Tam Thanh.  
    
    
      
        | LỄ HỘI 
        THÁNG GIÊNG  | 
       
      
        | 
        Hội đầu pháo Kỳ Lừa | 
       
      
        |   | 
       
      
        | 
         Từ xa xưa, 
        trong ca dao của người Việt đă có câu:  
        Đồng Đăng 
        có phố Kỳ Lừa    
        Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.  
        
          
            
              
              
              
               
               | 
             
            
              | 
               
              
              Phố Kỳ Lừa năm 1885  | 
             
           
         
        Từ thế kỷ 
        17, hằng năm, vào dịp đầu xuân - bắt đầu từ ngày 22 đến 27 tháng giêng (âm 
        lịch) tại thị xă Lạng Sơn lại diễn ra lễ hội Đầu pháo Kỳ Lừa với quy mô, 
        h́nh thức và nội dung phong phú như múa sư tử, chơi cờ người, đặc biệt 
        là tṛ chơi cướp đầu pháo và rước kiệu từ đền Kỳ Cùng lên đền Tả Phủ và 
        quay lại. Sở dĩ nội dung rước kiệu được coi là nội dung chính; quan 
        trọng và hấp dẫn nhất, v́ theo truyền thuyết sự việc trên có mối quan hệ 
        mật thiết với nhau giữa đền Kỳ Cùng và đền Tả Phủ.  
        Theo lịch 
        sử ghi lại đền Tả Phủ được xây dựng từ năm Chính Ḥa thứ 4 (1683) để thờ 
        viên tướng thời Hậu Lê là Thân Công Tài - chức Tả đô đốc Hán quận công, 
        v́ thế nhân dân địa phương ngày xưa quen gọi là đền Tả Phủ. Ông Thân 
        Công Tài là người có học, có tài được Trịnh Tạc trọng dụng bổ nhiệm lên 
        Lạng Sơn làm phó tướng nhận chức Đô đốc giúp việc cho Vi Đức Thắng, trấn 
        giữ nơi biên thùy. Trước kia, khu Kỳ Lừa khi ông chưa khai phá mở chợ 
        thường hay bị lũ lụt ngập úng, khi dựng chợ ông cho mua sắm lễ đưa xuống 
        đền Kỳ Cùng để cúng thần Giao Long (thần sông nước). Từ đó, chợ Kỳ Lừa 
        không bị ngập úng nữa, nhân dân địa phương yên tâm họp chợ và họ cho 
        rằng ông Thân Công Tài được thần sông phù hộ để lo việc đời, nên sau khi 
        ông mất, nhân dân lập miếu thờ ông; hằng năm tổ chức lễ hội, rước thần 
        Giao Long lên đền Tả Phủ, nhằm mục đích cầu mong thần Giao Long luôn phù 
        hộ cho ông Thân Công Tài và nhân dân địa phương luôn gặp những điều may 
        mắn, có được cuộc sống yên vui tốt lành.  
        Đền Kỳ Cùng 
        xây dựng từ bao giờ cho đến nay chưa có tài liệu nào xác định chứng minh 
        chính xác, theo hồi ức của nhân dân th́ đền có từ rất lâu và đă qua 
        nhiều lần sửa chữa. Đền Kỳ Cùng hiện nay thờ Tuần Tranh. Tương truyền, 
        ông Tuần Tranh là một vị quan dưới thời nhà Trần, được cử lên Lạng Sơn 
        đánh giặc, trấn ải biên thùy. Do chủ quan, nên binh sĩ của ông hay bị ốm 
        đau, lúc lâm trận với giặc thường hay bị thương vong, thiệt hại. Sợ quay 
        về triều đ́nh sẽ bị phạt nặng, bước đường cùng ông nhảy xuống sông tự 
        vẫn và con sông này được gọi là sông "Kỳ Cùng". Khi ông Thân Công Tài 
        lên Lạng Sơn nhậm chức, được biết chuyện ông đă viết sớ về tâu với Vua 
        để minh oan cho ông Tuần Tranh. Trong tiềm thức của ḿnh, nhân dân địa 
        phương cảm phục ḷng nghĩa hiệp của ông Thân Công Tài nên đă mở hội hằng 
        năm và rước ông Tuần Tranh (đền Kỳ Cùng) lên tạ nghĩa với ông Thân Công 
        Tài (đền Tả Phủ). V́ vậy mới có nội dung rước kiệu từ đền Kỳ Cùng lên 
        đền Tả Phủ.  
        Hội Đầu 
        pháo Kỳ Lừa bắt đầu từ sáng ngày 22 tháng Giêng (âm lịch). Cùng với đoàn 
        người trang phục lộng lẫy, đủ các loại cờ, vơng lọng, một tốp thanh niên 
        trai tráng y phục chỉnh tề gọi là "Đồng nam" để khiêng kiệu; một tốp 
        thiếu niên vận đồng phục gọi là "Đồng tử" khiêng đỉnh được đội sư tử múa 
        vây quanh, đi qua các khu dăy phố Kỳ Lừa rồi thẳng xuống đền Kỳ Cùng đón 
        rước ông Tuần Tranh (hay Thần sông) lên kiệu. Đúng giờ ngọ bắt đầu làm 
        lễ. Lễ xong, đoàn người rước kiệu đến đền Tả Phủ hạ kiệu làm lễ tạ ơn.
         
        Bước sang 
        ngày 23, 24 tháng Giêng, lễ hội đầu pháo bắt đầu. Đầu pháo có gắn đầu 
        kim loại, cuốn vải cẩn thận, chuẩn bị xong rước ra sau đền làm lễ cúng 
        thần, xong đầu pháo được đem ra đốt. Khi pháo nổ, ṿng kim loại hất lên 
        không trung rơi xuống, mọi người tranh nhau cướp. Những ai tranh được 
        đầu pháo th́ đem đến tŕnh với thần đền và Ban Tổ chức lễ hội lấy phần 
        thưởng, phần thưởng ở đây thường là bức tranh vẽ khung cảnh hữu t́nh và 
        có các chữ Phúc - Lộc - Thọ (h́nh đầu pháo). Người ta đem vật này về thờ 
        tại gia đ́nh và tin rằng trong năm sẽ làm ăn may mắn b́nh yên. Trong 
        thời gian hội có các đầu pháo theo thứ tự 1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, 9, 10 (không 
        có số 7 v́ kiêng). Cùng với phần thưởng được trao, những người thắng 
        cuộc thường mang đầu pháo về cầu may, mỗi đầu pháo chỉ được thờ một năm. 
        Đến mùa hội sang năm những gia đ́nh có đầu pháo đem ra đền làm lễ tạ rồi 
        trao lại đầu pháo cho đền.  
        27 tháng 
        Giêng là ngày kết thúc hội. Cũng vào giờ ngọ, mọi người tập trung ở đền 
        Tả Phủ làm lễ tạm biệt ông Tuần Tranh. Sau tuần lễ, kiệu bắt đầu được 
        rước trở lại đền Kỳ Cùng với nghi thức ban đầu.  
        Ḥa với tṛ 
        chơi cướp đầu pháo, lễ rước kiệu, ở đây c̣n có nhiều h́nh thức vui chơi 
        như thi đấu cờ người, múa sư tử, hát giao duyên (hát sli, hát lượn)... 
        tạo nên không khí nhộn nhịp vui tươi cho cả một vùng thị xă trong những 
        ngày xuân. 
        HVN  | 
       
     
    
      
    Phố Kỳ Lừa hồi 1885 
      
    
      
    
       |