Các ngôi chùa ở Việt Nam 
					không đồ sộ nguy nga như các chùa ở Ấn Độ, Trung Hoa, Thái 
					Lan và Cao Miên; nhưng rải rác đó đây, đâu đâu cũng có chùa. 
					Từ những thảo am trong thôn xóm hẻo lánh đến những ngôi chùa 
					kiến trúc bằng những vật liệu kiên cố tại các đô thị, tất cả 
					đều mang sắc thái gọn nhẹ, thanh thoát và tịch mịch. Thiên 
					nhiên đã tô điểm cho cảnh chùa và ngược lại chùa chiền cũng 
					làm tôn vẻ đẹp của thiên nhiên. 
					
					 
					
					Chùa ở Việt Nam không chỉ là chỗ 
					tôn nghiêm thờ phượng để bổn đạo đến lễ Phật mà còn là nơi 
					tụ họp của dân chúng vào những dịp lễ như hành hương, rước 
					đảo vũ, chay đàn, đổ giàn..., thậm chí cả những cuộc vui 
					chơi như bài chòi, hát bội cũng có khi tổ chức tại sân chùa. 
					Dân chúng đến đình làng phải khép nép vì sợ có sự phân biệt 
					rõ ràng giữa thứ dân với hào mục, ngay cả trong hàng quan 
					lại về làng cũng phân biệt nhau theo học vị và phẩm trật. Lệ 
					làng, kẻ có chức tước bao giờ cũng được ăn trên ngồi trốc. 
					Trái lại, cửa thiền luôn luôn rộng mở, chúng sinh được bình 
					đẳng an vui, vì vậy chùa chiền rất gần gũi với dân chúng. 
					Qua ca dao, dân làng bày tỏ tình cảm quyến luyến với chùa 
					chiền: 
					
					 
					
					Dù ai buôn đâu bán đâu,
					
					Hễ trông thấy tháp chùa Dâu 
					thì về.
					
					Dù ai buôn bán trăm nghề,
					
					Nhớ ngày mồng tám thì về hội 
					Dâu.
					
					và cảm thấy mất mát khi xa 
					cách:
					
					Vì ai nên nỗi sầu này
					
					Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa 
					nhau.
					
					 
					
					
					
					
					Chùa 
					Dâu
					
					  
					
					 
					
					Chùa ở Bắc Ninh  
					
					
					 
					
					Ngôi chùa xưa nhất và cũng là 
					ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam có từ thế kỷ thứ 2 sau Tây 
					lịch (thời Sĩ Nhiếp) là chùa Dâu. Chùa được dựng gần nha môn 
					Sĩ Vương, nơi có thành Luy Lâu là thủ phủ của xứ Giao Chỉ 
					(đời Đông Hán) sau đổi là Giao Châu (đời Tam Quốc). Nay chùa 
					thuộc làng Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, 
					tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng 30 km. 
					
					Chùa Dâu tên chữ là Thiền Định 
					tự (thời Lý Trần) hay Diên Ứng và Pháp Vân, vì trong chùa có 
					thờ tượng bà Pháp Vân, vị thần nổi tiếng cầu mưa rất linh 
					ứng, là một trong Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp 
					Điện. Tuy chùa có nhiều tên chữ, nhưng dân chúng vẫn quen 
					gọi tên nôm là chùa Dâu. Có sách cho rằng đó là do tượng bà 
					Man Nương, người sáng lập ngôi chùa này, được tạc bằng gỗ 
					dâu. Sách khác viết rằng vì trước mặt chùa có sông Dâu cũng 
					như tọa lạc trên làng Dâu nên tên chùa được gọi theo đấy.
					
					
					Theo Đại Việt sử ký toàn thư và 
					các tài liệu khác, chùa Dâu được xây cất lại và được trùng 
					tu nhiều lần. Năm Tân Tị (1161) đời Lý Anh Tông (1138-1175), 
					chùa Dâu được xây cất lại. Đến cuối thế kỷ 13, Mạc Đỉnh Chi 
					(1280-1350) sửa sang và dựng tháp 9 tầng, xây cầu 9 nhịp. 
					Tháp cao đến nỗi: “Dù ai buôn đâu bán đâu, hễ trông thấy 
					tháp chùa Dâu thì về”. Ngày nay, tháp chỉ còn có 3 tầng, nhờ 
					tấm bia bằng đá xanh dựng nơi chân tháp, người ta mới biết 
					được tháp này có tên là Hòa Phong, tái thiết vào năm Mậu Ngọ 
					(1738) đời Lê Ý Tông (1735-1740) do Thiền sư Tính Mộ và đệ 
					tử xây dựng trên nền tháp cũ đã đổ nát và chùa cũng được sửa 
					chữa vào dịp này. Đến năm 1917, chùa được trùng tu một lần 
					nữa. 
					
					Hằng năm, hội Dâu mở vào ngày 
					mồng 8 tháng 4 âm lịch. Lễ hội có những đám rước rất lớn, cờ 
					lọng rợp trời, kèn chiêng trống tưng bừng. Theo Chùa xưa 
					tích cũ của Nguyễn Bá Lăng, dân chúng 11 xã trong tổng 
					Khương Tự tham gia lễ hội từ mồng 8 đến mồng 10. Đầu tiên là 
					đám rước Sĩ Nhiếp cùng vương nữ là Ngọc Tiên công chúa đến 
					chùa Dâu làm lễ, xong rước về bản đền ở làng Lũng Khê. Cũng 
					trong ngày mồng 8, ba đám rước cùng lúc các tượng Pháp Vũ ở 
					chùa Thành Đạo làng Đông Cốc, tượng Pháp Lôi ở chùa Phi 
					Tương làng Thanh Tương, và tượng Pháp Diện ở chùa Trí Quả 
					làng Phương Quan đến chùa Dâu, hội cùng với tượng Pháp Vân. 
					Sau đó rước cả 4 vị đến chùa Mãn Xá bên kia sông Dâu, làm lễ 
					kính yết bà Man Nương. Xong, rước 4 tượng về lại chùa Dâu 
					nghỉ đêm. Sáng mồng 9, lại rước Tứ Pháp đến đền Sĩ Nhiếp làm 
					lễ, sau đó rước đi trình diễn khắp tổng, chiều tối lại rước 
					về nghỉ ở chùa Dâu. Ngày mồng 10, rước 3 tượng Pháp Vũ, Pháp 
					Lôi và Pháp Điện trở về chùa riêng của mỗi vị. 
					
					Bắc Ninh không những có trung 
					tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành sớm hơn cả hai trung 
					tâm Phật giáo đầu tiên của Trung Hoa là Bình Thành và Lạc 
					Dương (kinh đô nhà Hán, bên sông Hoàng Hà), Bắc Ninh còn là 
					nơi được xây nhiều chùa chiền dưới thời Lý. Theo Đại Nam 
					nhất thống chí và các tài liệu khác thì ở tổng Lãm Sơn có 16 
					xã nằm quanh khu núi đồi, cảnh trí sông núi âm u tịch mịch 
					nên có nhiều chùa cổ. Nơi sườn núi phía nam thuộc xã Nam Sơn 
					có chùa Đại Lãm, tục gọi là chùa Dạm. Năm 1086, Lý Nhân Tông 
					cho dựng chùa. Năm sau (Quang Hựu thứ 3), nhà vua ngự giá 
					khánh thành. Vua mở tiệc đêm tại chùa, đãi yến các quan và 
					chính nhà vua làm 2 bài thơ Lãm Sơn dạ yến. Năm Long Phù thứ 
					5 (1105), Nhân Tông còn dựng 3 tháp bằng đá tại chùa này. 
					Chùa đã đổ nát từ lâu, nay chỉ còn lại vết tích 4 lớp nền xẻ 
					vào sườn núi với vài dấu vết nền đá và một cây cột đá lớn 
					dựng ở lối lên bên phải của bậc nền thứ hai, chứng tỏ chùa 
					được xây trên một diện tích bề dài khoảng 120 mét, bề rộng 
					70 mét. 
					
					Lúc về già, Thái phi Ỷ Lan (thân 
					mẫu vua Nhân Tông) đến ở chùa Dạm. Bà cho lập chợ ở chân núi 
					trước chùa và cho đào một con ngòi thẳng ra sông Thiên Đức, 
					gọi là ngòi Con Tên, để vua tiện việc ngự thuyền rồng vào 
					thăm mẹ, nay vẫn còn lưu lại qua ca dao: 
					
					 
					
					Trên chùa dưới chợ
					
					Hàng phố hai bên
					
					Núi Rồng ở trên
					
					Ngòi Tên ở dưới.
					
					 
					
					Bắc Ninh còn có chùa Sùng Khánh, 
					tức chùa Báo Thiên, ở Đông Xuyên thuộc tổng Nội Trà, huyện 
					Yên Phong, phủ Từ Sơn. Chùa được xây cất năm Bính Thân 
					(1056) niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 3. Vua Lý Thánh 
					Tông còn xuất 12 ngàn cân đồng của công khố để đúc chuông 
					cho chùa. Nơi đây có tiếng là danh lam thắng cảnh qua ca dao 
					truyền tụng: 
					
					 
					
					Đông Xuyên có bãi sân chầu
					
					Có chùa Sùng Khánh, có lầu 
					Bạch Vân.
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Sơn Tây 
					
					
					 
					
					Nếu lấy Thăng Long làm tâm điểm, 
					thì đối xứng với Bắc Ninh là tỉnh Sơn Tây. Nếu Bắc Ninh có 
					trung tâm Phật giáo Luy Lâu cổ xưa nhất thì Sơn Tây có chùa 
					Tây Phương là danh lam cổ tự nổi tiếng nhất của Việt Nam. 
					Chùa có tên chữ là Sùng Phước tự, nằm trên đỉnh núi Tây 
					Phương (cao chừng 50 mét), hình núi cong như lưỡi câu nên 
					còn gọi là núi Câu Lâu, nay thuộc làng Cần Kiệm xã Thạch Xá 
					huyện Thạch Thất.
					
					Về niên đại của chùa, sách Danh 
					lam cổ tự đã vin vào bảng lịch sử của chùa mà cho rằng chùa 
					có từ thế kỷ thứ 3. Có lẽ tác giả dựa vào lời tương truyền 
					đời Tấn (265-420) có Cát Hồng đến núi Câu Lâu luyện thuốc tu 
					tiên. Còn theo sách Chùa xưa tích cũ, tác giả căn cứ vào số 
					lượng tượng Hộ Pháp và La Hán: chùa chỉ có 1 Hộ Pháp là Vi 
					Thiên Tướng thay vì 2 vị, và chỉ có 16 tượng La Hán chứ 
					không phải 18 vị như thời Tống nên cho rằng chùa phải được 
					lập thành trong thời Đường (618-936), hay chậm nhất cũng 
					phải trước thời Tống (năm 960 về trước). Dù chùa dựng vào 
					thời nào cũng trên 1000 năm rồi và phải trùng tu nhiều lần. 
					Sử sách có ghi hai lần trùng tu ở cấp quốc gia là năm 1632 
					đời Lê Thần Tông và năm 1794 đời vua Cảnh Thịnh. Ngày hội 
					chùa được nhắc nhở qua ca dao: 
					
					 
					
					Ấy ngày mùng sáu tháng ba
					
					Ăn cơm với cà, đi hội chùa 
					Tây.
					
					 
					
					
					
					
					  Chùa 
					Tây Phương
					
					 
					
					Nhịn ăn nhịn mặc (ăn cơm với cà) 
					để dành tiền đi xem hội chùa Tây một lần kẻo tiếc. Dự hội 
					chùa vừa được hưởng một ngày vui, vừa được chiêm ngưỡng kiến 
					trúc và điêu khắc tuyệt vời của ngôi cổ tự. 
					
					Chùa dựng theo hình chữ tam rất 
					độc đáo. Cả ba dãy nhà đều thiết kế kiểu mái hai tầng, ở bốn 
					góc chái đều có mái đao cong vút lên nền trời trông rất 
					mạnh, lại có đắp rồng ngắn ở đầu góc, tạo nét uyển chuyển 
					hài hòa. Về nghệ thuật điêu khắc, chùa có tất cả 77 pho 
					tượng lớn nhỏ bằng gỗ mít, son thếp nhiều màu rất công phu. 
					Đáng kể nhất là tượng Tuyết Sơn, nét nhẫn nại trầm tư nhưng 
					cương quyết hiện rõ trên khuôn mặt gầy gò của người tu khổ 
					hạnh. Các tượng La Hán lớn bằng người thật, mỗi vị mang một 
					dáng điệu, một nét mặt, biểu lộ trạng thái tâm tư khác nhau.
					
					
					Xong hội chùa Tây, ngày hôm sau 
					có hội chùa Thầy ở huyện kế cận. Chùa Thầy trong khu vực núi 
					Sài Sơn, thuộc làng Hoàng Xá xã Phượng Cách huyện Quốc Oai. 
					Chùa có tên chữ là Thiên Phúc tự, xây năm 1057 đời Lý Thánh 
					Tông, nguyên là một chùa nhỏ do Thiền sư Từ Đạo Hạnh lập ra 
					để tu hành, dân chúng gọi là chùa Thầy để tỏ lòng tôn kính.
					
					
					 
					
					Chẳng vui cũng thể hội Thầy
					
					Chẳng trong cũng thể hồ Tây 
					xứ Đoài.
					
					Rửa chân đi hán đi hài,
					
					Rửa chân đi đất cũng hoài rửa 
					chân.
					
					 
					
					Nói thế chứ hội chùa Thầy vui 
					lắm. Không những phong cảnh hữu tình, trước chùa là một hồ 
					nước rộng có thủy đình trình diễn múa rối nước, mà nơi đây 
					còn là điểm hẹn của nam thanh nữ tú: 
					
					 
					
					Mồng bảy tháng ba
					
					Vui thay Cắc Cớ
					
					Trai không vợ
					
					Nhớ hội chùa Thầy
					
					Gái không chồng
					
					Nhớ ngày mà đi
					
					 
					
					Hai bên chùa là hai cây cầu có 
					mái che mưa nắng do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây vào năm 
					1602, đặt tên là Nhật Tiên và Nguyệt Tiên. Lối qua cầu 
					Nguyệt Tiên có đường dẫn lên núi vào hang Cắc Cớ. Đường đi 
					ngoằn ngoèo nhỏ hẹp lại men theo sườn núi, một bên là vách 
					đá, một bên là vực sâu, người ra vào dễ đụng chạm vào nhau 
					hoặc phải nhờ dìu dắt, nhân đó trai gái có dịp làm quen:
					
					
					 
					
					Mưa từ trong núi mưa ra
					
					Mưa khắp thiên hạ, mưa qua 
					chùa Thầy.
					
					Đôi ta bắt gặp nhau đây,
					
					Như con bò gầy gặp bãi cỏ 
					hoang.
					
					 
					
					Và có nhiều cuộc hôn nhân bắt 
					nguồn từ hội chùa Thầy, trên đường vào hang Cắc Cớ: 
					
					
					 
					
					Một nhà có bốn chị em
					
					Có tôi là út, tôi thèm đi 
					chơi.
					
					Cả gan may túi đựng trời
					
					Đem nong sảy đá, giết voi xem 
					giò
					
					Ngồi buồn đem thước ra đo
					
					Đo từ núi Sở, núi So, chùa 
					Thầy.
					
					Lên trời đo gió đo mây
					
					Xuống sông đo nước, lại đây 
					đo người.
					
					Đo từ mười tám, đôi mươi
					
					Đo lên chẳng được, đo người 
					mười lăm.
					
					Tuổi em vừa đúng trăng rằm
					
					Tuổi anh mười sáu kết trăm 
					năm vừa.
					
					 
					
					Lại có người cho rằng hội chùa 
					Ngo ở xã Tích Giang huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây mới đúng là 
					nơi hấp dẫn: 
					
					 
					
					Nhất vui là hội chùa Thầy
					
					Vui thì vui vậy, chẳng tày 
					hội Ngo
					
					Chùa Ngo khánh đá chuông 
					đồng,
					
					Muốn chơi thì trả của chồng 
					mà chơi!
					
					 
					
					Cùng huyện với chùa Ngo, ở xã 
					Đường Lâm có chùa Viễn là ngôi chùa cổ với bảo vật nổi 
					tiếng: 
					
					 
					
					Nước giếng đồng chưa hâm đã 
					nóng
					
					Chuông chùa Viễn chưa gióng 
					đã kêu!
					
					 
					
					Nhưng chùa chứa nhiều bảo vật 
					đứng hàng thứ nhì (sau chùa Tây Phương) của tỉnh Sơn Tây nói 
					riêng và cả nước nói chung, phải kể là chùa Sùng Nghiêm ở 
					làng Mía, xã Đường Lâm, huyện Ba Vì. Chùa hiện có 287 pho 
					tượng lớn nhỏ bằng gỗ hoặc bằng đất luyện, sơn son thếp vàng 
					công phu. Ba pho tượng có giá trị cao về nghệ thuật là tượng 
					Quan Âm Tống Tử với đường nét sinh động mềm mại; tượng Bát 
					Bộ Kim Cang bằng đất luyện, 8 hình tượng diễn tả 8 thế võ 
					khác nhau, nét mặt biểu lộ tinh thần thượng võ; tượng Tuyết 
					Sơn cũng rất đạt về nghệ thuật nên có ca dao ca truyền tụng:
					
					
					 
					
					Nổi danh chùa Mía làng ta
					
					Có pho Tống Tử Phật Bà Quan 
					Âm.
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Hà Nội 
					
					 
					
					Đất Sơn Tây còn lắm chùa, nhiều 
					di tích. Nhưng ta hãy tạm rời, theo đoàn người trẩy hội về 
					Thăng Long cho kịp ngày mồng 8 tháng 3, dự hội chùa Chiêu 
					Thiền ở làng Yên Lãng, tên nôm là chùa Láng, thuộc phường 
					Láng Thượng, quận Đống Đa, cách trung tâm Hà Nội khoảng 6 km 
					về hướng tây. Chùa khởi dựng năm 1164 đời Lý Anh Tông, được 
					trùng tu nhiều lần, lần gần nhất là giữa thế kỷ 19. Chùa có 
					một quần thể kiến trúc hài hòa. Bước vào cổng có 4 trụ lớn 
					bằng gạch vươn cao lên nền trời, đỡ 3 cổng vào với mái cong 
					thanh thoát. Tiếp đến là sân rộng lát gạch bát tràng, cuối 
					sân có cổng tam quan, xuyên qua là nhà bát giác, nơi đặt 
					tượng Lý Thần Tông và Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Vì chùa có phụ 
					thờ đức Từ Đạo Hạnh nên mở hội tiếp theo hội chùa Thầy:
					
					
					 
					
					Nhớ ngày mồng tám tháng ba
					
					Trở về hội Láng, trở qua hội 
					Thầy.
					
					 
					
					Hà Nội có một ngôi chùa đẹp nổi 
					tiếng nhưng yểu mệnh. Đó là chùa Liên Trì, còn gọi là Báo 
					Ân  Tự, nằm bên hồ Hoàn Kiếm, dựng năm Mậu Thân (1848) Tự 
					Đức nguyên niên, kiến trúc theo hình bát giác, có 36 tòa 
					nhà, gồm 188 gian. Là một công trình vĩ đại của thế kỷ 19, 
					do Thượng thư Nguyễn Văn Giai, người Thanh Hóa, xây dựng nên 
					dân chúng quen gọi là chùa Quan Thượng: 
					
					 
					
					Gần xa nô nức tưng bừng
					
					Vào chùa Quan Thượng xem bằng 
					động tiên.
					
					Lầu chuông, gác trống đôi bên
					
					Trông ra chợ Mới, Tràng tiền 
					kinh đô.
					
					Khen ai khéo vẽ họa đồ,
					
					Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ 
					Hoàn Gươm.
					
					 
					
					
					
					
					Chùa 
					Quan Thượng
					
					 
					
					Nhưng đến năm 1887, niên hiệu 
					Thành Thái thứ 9, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer lập chế 
					độ trực trị tại Bắc kỳ, đã triệt hạ chùa Quan Thượng, lấy 
					đất xây tòa Thống sứ và Bưu điện Hà Nội. 
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Hà Đông 
					
					
					 
					
					Phía nam Hà Nội là giáp Hà Đông, 
					một tỉnh có nhiều cổ tự nổi tiếng như chùa Hương, chùa Trăm 
					Gian. Hội chùa Hương vào ngày 19 tháng 2 là ngày giáng đản 
					và ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày thành đạo của đức Quan Âm 
					chùa Hương, nhưng người đi trẩy hội thường chọn dịp tháng 2. 
					Du khách đến chùa Hương bằng nhiều ngả. Đi đường bộ thì theo 
					liên tỉnh lộ 22. Đường thủy thì từ Phủ Lý (Hà Nam) đi ngược 
					sông Đáy, hoặc từ bến Vân Đình (Hà Đông) xuôi dòng sông Đáy. 
					Dù đường bộ hay thủy, cũng đổ bến tại Hà Đoan, quen gọi là 
					bến Đục. Nơi đây quán trọ, hàng ăn san sát. Các gian hàng 
					bán sản phẩm địa phương nổi tiếng như rau sắng, quả mơ, hồng 
					trà, củ mài... với các cô gái bán hàng xinh xắn, liến thoắng 
					mời khách. 
					
					 
					
					Ai đi trẩy hội chùa Hương
					
					Làm ơn gặp khách thập phương 
					hỏi giùm
					
					Mớ rau sắng, quả mơ non
					
					Mơ chua sắng ngọt, biết còn 
					thương chăng?
					
					 
					
					Từ bến Đục đến bến đò Suối chừng 
					nửa cây số. Tại bến đò, du khách thuê đò đi chừng 2 cây số 
					thì đến bến Trò. Bước lên bờ, thấy ngay tam quan của chùa 
					Thiên Trù, quen gọi là chùa Ngoài. Đi bộ thêm khoảng vài giờ 
					đường núi, gặp ba chùa nữa là chùa Tiên, chùa suối Giải Oan, 
					chùa Cửa Võng, rồi leo lên gần đến đỉnh một trái núi, mới 
					tới động Hương Tích. Đây là chùa Trong, còn gọi là chùa 
					Hang. Đường núi gập ghềnh, chim kêu vượn hót, du khách tốp 
					năm tốp bảy ra vào tấp nập. Họ có thể không biết nhau, nhưng 
					gặp nhau vẫn tươi cười với câu chào “A Di Đà Phật”, “Nam mô 
					Phật” hay “Quan Thế Âm Bồ Tát”: 
					
					 
					
					Ngày xuân cái én xôn xao
					
					Con công cái bán ra vào chùa 
					Hương.
					
					Chim đón lối, vượn đưa đường
					
					Nam mô đức Phật bốn phương 
					chùa này.
					
					 
					
					Trong động, trên dải thạch nhũ 
					có khắc 5 chữ đại tự “Nam thiên đệ nhất động” đẹp sắc sảo, 
					tương truyền là nét bút của chúa Trịnh Sâm (1767-1782), 
					nhưng có sách lại cho là của vua Lê Thánh Tông. 
					
					 
					
					Chùa nào mà lại có hang?
					
					Ở đâu lắm của thời chàng biết 
					không?
					
					Chùa Hương mà lại có hang
					
					Trên rừng lắm của thời nàng 
					biết không.
					
					 
					
					Phía Bắc tỉnh Hà Đông, gần đường 
					liên tỉnh 11, tại làng Tiên Lữ xã Tiên Phương, huyện Hoài 
					Đức, trên một quả đồi cao chừng 50 mét có một ngôi chùa nổi 
					tiếng về phong cảnh đẹp, kiến trúc qui mô, có nhiều bảo vật 
					và tượng quý. Đó là chùa Trăm Gian, theo làng sở tại còn có 
					tên là chùa So hay chùa Tiên Lữ, tên chữ là Quảng Nghiêm tự. 
					Theo Danh lam cổ tự, chùa được lập năm Ất Tị (1185) niên 
					hiệu Trinh Phù thứ 10 đời Lý Cao Tông, nhưng theo Nguyễn Bá 
					Lăng trong Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thì chùa do Minh Đức 
					chân nhân Nguyễn Bình An lập từ thế kỷ 13 triều Trần và được 
					trùng tu khoảng thế kỷ 17, 18. Chùa có 4 dãy nhà kết thành 
					bình đồ chữ nhật rộng 24 mét, dài 42 mét. Nếu tính 4 cột là 
					1 gian thì chùa có 104 gian, tính cả phần phụ thuộc nối dài 
					sau chùa thì cả thảy 107 gian, vì thế nên có câu ca dao 
					truyền tụng: 
					
					 
					
					Đình So, quán Giá, chùa Thầy
					
					Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm 
					Gian
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Hưng Yên 
					
					
					 
					
					Nếu theo quốc lộ 5 đi Hưng Yên, 
					cách Hà Nội chừng 20 km về phía đông nam, tại làng Ôn Xá 
					huyện Văn Lâm có chùa Un với hội rước Tứ Pháp cầu đảo vũ. 
					Hội tổ chức qui mô lớn, cả tổng tham dự nên còn gọi hội tổng 
					Ôn Xá. Lễ hội không mở định kỳ hàng năm, chỉ khi nào hạn hán 
					trầm trọng mới mở hội. Theo tục lệ, dân địa phương rất sợ uy 
					linh của Pháp Điện nên không ai dám xê dịch tượng ngài, 
					người ta chỉ mở đám rước các tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp 
					Lôi thờ ở các chùa khác về chùa Un để cùng với Pháp Điện 
					linh ứng lễ hợp tế cầu mưa nên có câu: 
					
					 
					
					Ba bà trẩy hội chùa Un
					
					Mưa gió đùng đùng mới dễ làm 
					ăn!
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Hải Dương 
					
					
					 
					
					Rời Hưng Yên, cũng theo quốc lộ 
					5 đi qua tỉnh lỵ Hải Dương rồi rẽ trái vào tỉnh lộ 17 đến 
					thị trấn Phả Lại thuộc huyện Chí Linh, gần chỗ hợp lưu của 
					sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam làm thành sông Thái 
					Bình. Tại chân núi Phao Sơn, có chùa Phả Lại vươn cao, soi 
					mình trên sông nước. Sơn thủy hữu tình đã tô điểm cho cảnh 
					chùa vẻ đẹp mơ màng, đi vào ca dao muôn thuở: 
					
					 
					
					Xa đưa văng vẳng tiếng chuông
					
					Kìa chùa Phả Lại chập chùng 
					bên sông.
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Lạng Sơn 
					
					
					 
					
					Ở tận cùng miền biên giới Việt 
					Hoa là tỉnh Lạng Sơn, nổi tiếng về sơn thủy hữu tình. Sông 
					Kỳ Cùng chảy dọc theo chiều dài của tỉnh, chia thị xã Lạng 
					Sơn làm hai phần, phía nam là khu lỵ sở và phố xá, phía bắc 
					có chợ Kỳ Lừa lập từ đời Lê Thái Tông (1434-1442), xưa nay 
					nổi tiếng sầm uất. Cách chợ Kỳ Lừa chừng 2 km (đường chim 
					bay) về phía tây có dãy núi đá vôi, trong núi là một hệ 
					thống hang động gồm Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh; trên 
					sườn núi Tô Thị có tượng đá Vọng Phu nhô cao lên nền trời 
					dáng người đàn bà ôm con chờ chồng, một tuyệt tác thiên 
					nhiên có từ ngàn xưa. 
					
					Từ lỵ sở Lạng Sơn đến chợ Kỳ 
					Lừa, qua cầu Kỳ Cùng rẽ trái vào phố Muối là đường lên hang 
					động. Đầu tiên gặp động Nhất Thanh thờ Phật và có thờ tượng 
					Ngô Thì Sĩ (cựu Đốc trấn Lạng Sơn). Động Nhị Thanh khá rộng, 
					trần và vách đầy nhũ đá, có ngôi chùa Tam giáo thờ đức Khổng 
					Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca. Xuyên qua động Nhị Thanh, men 
					theo con đường suối trong hang dẫn tới động Tam Thanh ở lưng 
					chừng núi. Đường hang dài, chỗ phình ra trên trần có lỗ 
					“cổng trời” rọi nắng phản chiếu vào nhũ đá lên màu rực rỡ. 
					Trong động Tam Thanh trần cao đến 8 mét, nền rộng và phẳng, 
					có chùa thờ nhiều tượng Phật, có cửa thông ra ngoài cả hai 
					hướng đông và tây, lại có dòng suối nhỏ róc rách chảy vào 
					“ao địa ngục” âm u lạnh lẽo. Trên vách khắc bài thơ tuyệt 
					tác của Ngô Thì Sĩ, nét chữ đẹp và phóng khoáng như rồng 
					bay. Tất cả tạo nên khung cảnh vừa lộng lẫy, vừa thơ mộng, 
					huyền ảo xứng đáng nổi danh qua câu ca dao:
					
					 
					
					Lạng Sơn có phố Kỳ Lừa
					
					Có nàng Tô Thị, có chùa Tam 
					Thanh.
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Quảng Ninh
					
					 
					
					Vùng đồi núi giáp giới ba tỉnh 
					Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh có ngọn núi Yên Tử cao 
					nhất vùng. Vào thời Trần, Yên Tử là một trung tâm Phật giáo 
					khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, lên 
					đây tu hành, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm là thiền phái 
					thứ ba trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. 
					
					Từ chân núi đến ngôi chùa Cả nằm 
					chót vót trên ngọn - còn gọi là chùa Yên Tử - đường dài 30 
					km. Dọc đường có hơn 20 cảnh chùa gắn liền với địa danh, 
					mang sự tích Thượng hoàng Nhân Tông xuất gia. Đầu tiên là 
					suối Tắm, nơi Thượng hoàng dừng lại tắm gội bụi trần trước 
					khi lên núi tu hành. Bên suối Tắm có chùa Cầm Thực (nhịn 
					ăn), tương truyền khi Thượng hoàng đến đây chỉ ăn rau quả 
					thay cơm. Đi nữa, gặp chùa Long Động, tục gọi là chùa Lân vì 
					chùa dựng sát núi giống hình con lân, nơi Thượng hoàng mở 
					trường thuyết pháp, độ tăng cho cả vạn người. Đường còn dài, 
					phải vượt qua chín con suối nữa thì gặp dốc Voi Xô, rồi núi 
					Hạ Kiệu, đánh dấu nơi vua Trần Anh Tông mỗi lần lên thăm cha 
					phải xuống kiệu đi bộ từ quãng này. Đường lên Yên Tử khó 
					khăn và thử thách nên mới có câu: 
					
					 
					
					Nào ai quyết chí tu hành
					
					Có về Yên Tử mới đành lòng 
					tu.
					
					 
					
					
					
					
					Chùa 
					Yên Tử
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Thái Bình 
					
					
					 
					
					Từ Hải Phòng theo liên tỉnh lộ 
					10 đi về hướng Nam Định, khi ra khỏi tỉnh lỵ Thái Bình thì 
					gặp huyện Vũ Tiên. Nơi làng Dũng Nghĩa, nay là Dũng Nhuệ, xã 
					Duy Nhất, huyện Vũ Thư có ngôi chùa cổ nổi tiếng. Đó là chùa 
					Keo (gọi theo tên làng), tên chữ là Thần Quang tự, do Quốc 
					sư Không Lộ lập từ thời Lý Thần Tông (1128-1138). Chùa nằm 
					sát tả ngạn sông Hồng nên bị xói lở, năm 1609 chùa được dời 
					đến địa điểm ngày nay, tọa lạc trên thửa đất rộng gần 6 mẫu 
					tây. Toàn cảnh chùa là một quần thể kiến trúc gồm 14 công 
					trình. Trên đường trục tim, đầu tiên là cột cờ. Tiếp đến là 
					sân lát đá xanh, dẫn đến tam quan ngoài có 4 góc mái vươn 
					cong. Tiếp nữa, ao chữ nhật dài 25 mét rộng 10 mét chắn 
					ngang, có đường lát đá viền quanh dẫn đến tam quan trong. 
					Bước qua sân đất rộng, tới khu kiến trúc chính của chùa như 
					tiền đường tức chùa Hộ, thượng điện tức chùa Phật, sân gạch, 
					tòa Giá Roi, tòa Thiêu Hương, tòa Phục Quốc, tòa Hậu Cung. 
					Cuối cùng là gác chuông với 12 góc mái vươn cong, xếp chồng 
					3 tầng, cao hơn 11 mét. Theo văn bia dựng năm 1630, chùa có 
					tất cả 21 dãy nhà gồm 154 gian, nhưng nay chỉ còn 107 gian, 
					đặc biệt sườn nhà toàn bằng gỗ lim lắp mộng, không dùng 
					đinh. 
					
					Chùa Keo hàng năm mở hội từ ngày 
					13 đến hết đêm rằm tháng 9. Hội chùa rất lớn, không những 
					chỉ dân tỉnh Thái Bình mà còn cả dân các tỉnh lân cận như 
					Kiến An (nay là Hải Phòng), Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định... 
					cũng về dự. Hội trẩy đông đảo, vui không kể xiết, các cô gái 
					đã bày tỏ lòng nao nức dự hội qua phong dao: 
					
					 
					
					Dẫu mà cha đánh, mẹ treo
					
					Cũng không bỏ hội chùa Keo 
					đêm rằm.
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Nam Định 
					
					
					 
					
					Rời Thái Bình, tiếp tục theo 
					liên tỉnh lộ 10 đến tỉnh lỵ Nam Định, rồi theo liên tỉnh lộ 
					21 về chùa Giao Thủy ở làng Hành Thiện, tổng Hành Thiện, 
					huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường nay là huyện Xuân Thủy. 
					Tương truyền ngày xưa Thiền sư Nguyễn Minh Không tu ở đây, 
					tục gọi là chùa Keo Trên để phân biệt với chùa Keo ở Thái 
					Bình. Cả hai chùa đều có tên chữ là Thần Quang tự và đều thờ 
					sư Minh Không tức Quốc sư Không Lộ. Các sách sử xưa có chép 
					việc Lý Thần Tông mắc bệnh hóa hổ, được Thiền sư Minh Không 
					chữa khỏi nên phong làm quốc sư. Sách Thành ngữ Điển tích 
					Danh nhân Từ điển còn cho rằng tiền kiếp của vua Thần Tông 
					chính là Thiền sư Từ Đạo Hạnh, bạn tu hành với các sư Giác 
					Hải, Minh Không, bởi có lời nguyền kiếp trước nên kiếp này 
					nhà vua mới mắc phải bệnh ấy. Dù câu chuyện có thế nào chăng 
					nữa, sự kiện vẫn được đồng dao ghi lại: 
					
					 
					
					Tập tầm vông, tập tầm vông
					
					Có ông Nguyễn Minh Không
					
					Chữa được Thần Tông hoàng 
					đế...
					
					 
					
					 
					
					Chùa ở Hà Nam 
					
					 
					
					Đến với Hà Nam, một tỉnh mới 
					thành lập từ năm 1890, tách ra từ tỉnh Hà Nội, thấy có chùa 
					Tiên thuộc làng Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân. 
					Tương truyền chùa có 99 cây thông, người ta cố trồng thêm 1 
					cây nữa cho chẵn 100 mà trồng mãi vẫn không sống, nên ca dao 
					có câu:
					
					 
					
					Chùa Tiên chín chín cây thông
					
					Ai không trồng đủ, làng không 
					cho về.
					
					 
					
					Chùa Tiên nằm trên đỉnh đồi, 
					đường dốc thoai thoải, cảnh trí nên thơ, tiếng đồn còn lưu 
					mãi trong ca dao: 
					
					 
					
					Ngày xuân liệu liệu còn dài
					
					Chơi chùa Tiên kẻo một mai 
					nữa già.
					
					 
					
					Cũng trong tỉnh Hà Nam có một 
					ngôi chùa cổ để lại trong ngôn ngữ Việt Nam một thành ngữ: 
					“Vắng như chùa Bà Đanh”. Đó là chùa Bảo Sơn, được xây cất 
					trong vùng rừng núi, thuộc làng Đinh Xá tổng Thụy Lôi huyện 
					Kim Bảng phủ Lý Nhân. Nơi đây, xưa có tiếng là nhiều cọp, ít 
					người dám lui tới nên chùa vắng vẻ: 
					
					 
					
					Còn duyên kẻ đón người đưa
					
					Hết duyên vắng ngắt như chùa 
					Bà Đanh.
					
					 
					
					Chùa ở Ninh Bình 
					
					
					 
					
					Là một tỉnh ở vị trí cửa ngỏ của 
					miền Bắc thông với miền Trung, tại tỉnh lỵ Ninh Bình có núi 
					Dục Thúy nằm ngay trên sông Vân Sàng. Núi được ba mặt sông 
					bao bọc, trông như hòn ngọc khổng lồ nhô lên trong biển 
					nước. Trên núi có ngôi chùa cổ tên chữ là Thúy Sơn tự nhưng 
					dân chúng vẫn quen gọi là chùa Non Nước và gọi luôn núi Dục 
					Thúy là núi Non Nước. Gần tỉnh lỵ còn có núi Cánh Diều và 
					núi Hồi Hạc, tô điểm cho sông Vân núi Thúy thành bức tranh 
					sơn thủy thiên nhiên tuyệt đẹp, cảnh trí hữu tình: 
					
					
					 
					
					Đất Ninh Bình có chùa Non 
					Nước
					
					Núi Phi Diên, Hồi Hạc chung 
					quanh.
					
					Chung quanh những chị em cười
					
					Giữa chùa Non Nước một tôi 
					với nàng.
					
					 
					
					
					
					
					Chùa 
					Non Nước
					
					 
					
					Chùa ở Thanh Hóa 
					
					
					 
					
					Rời miền Bắc, theo quốc lộ 1 vào 
					Thanh Hóa. Ở huyện Nông Cống có mạch núi từ huyện Thọ Xuân 
					kéo đến, tới địa phận tổng Cổ Định thì trồi lên thành nhiều 
					trái núi, ngọn cao nhất là núi Nưa tức Na Sơn cao 536 mét. 
					Phong cảnh rất đẹp, bên ngoài có 4 dòng suối giao lưu như 
					những chiếc vòi bạch tuộc. Trên đỉnh có hang động lập thành 
					chùa gọi là Khánh Long tự, đã mãi mãi đi vào thi ca bình 
					dân: 
					
					 
					
					Huyện Nông cao nhất rừng Na
					
					Tối linh vạn cổ nhất chùa 
					Khánh Long
					
					Lại thêm khánh đá chuông đồng
					
					Long Quân tại tả, hữu ông Thổ 
					thần.
					
					Phật đà phù hộ cho dân,
					
					Thời xin cải cựu tùng tân từ 
					rày.
					
					 
					
					Chùa ở Huế 
					
					 
					
					Huế không những là kinh đô của 
					triều Nguyễn, Huế còn là trung tâm Phật giáo miền Trung và 
					miền Nam, kể từ khi xứ Đàng Trong được thành lập. Nơi đây 
					vừa có nhiều chùa, vừa là những chùa danh tiếng. Tiêu biểu 
					nhất có chùa Thiên Mụ dựng trên đồi Hà Khê, làng An Ninh, 
					huyện Hương Trà, cách thành phố Huế chừng 5 km về phía tây 
					và trên tả ngạn sông Hương. 
					
					Theo Đại Nam nhất thống chí Thái 
					tổ Nguyễn Hoàng (1558-1612) thấy phong thủy vùng này giống 
					như con rồng ngoảnh đầu lại, lại nghe trong dân gian lưu 
					truyền câu chuyện về một bà già mặc áo đỏ quần xanh, hiện 
					lên ngồi trên đồi Hà Khê, nói với dân làng: “Phải có chân 
					chúa đến dựng chùa ở đây để thu góp khí thiêng mà giữ vững 
					long mạch”, chúa bèn tin lời, cho dựng chùa tại đồi năm 1601 
					và đặt tên là Thiên Mụ. Từ ấy, chùa Thiên Mụ được các chúa 
					Nguyễn và nhà Nguyễn bảo tồn, coi là đệ nhất quốc tự, đời 
					đời mở mang và trùng tu. Vì thế dân chúng đã sánh sự bền 
					vững của ngôi chùa với tình yêu đôi lứa qua câu hát ví:
					
					
					 
					
					Lấy nhau cho trọn đạo trời
					
					Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau 
					ra.
					
					 
					
					Chùa được dựng trên vùng đất gò 
					cao ráo, bên dòng sông Hương thoát nước. Địa thế rất tốt cho 
					một công trình lâu dài: 
					
					 
					
					Bao giờ lụt lút đến vai
					
					Lút chùa Thiên Mụ, em mới 
					phai nghĩa chàng.
					
					 
					
					Cũng tại ngôi chùa này, năm Canh 
					Dần (1710), chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc đại hồng chung lớn 
					nhất ở Huế với đường kính 1,4m cao 2,5m nặng 3.285kg có khắc 
					bài văn của chúa. Tiếng chuông ấy đã được đưa vào ca dao của 
					dân tộc: 
					
					 
					
					Gió đưa cành trúc la đà
					
					Tiếng chuông Thiên Mụ, canh 
					gà Thọ Xương.
					
					 
					
					hoặc: 
					
					 
					
					Thương thời thương, chẳng 
					thương thời chớ
					
					Làm chi cho lỡ dở thêm buồn
					
					Bên chùa Thiên Mụ đã gióng 
					tiếng chuông
					
					Gà thượng thôn đã gáy, tiếng 
					chim nguồn đã kêu!
					
					 
					
					Trong 20 thắng cảnh của đất Thần 
					kinh được vua Thiệu Trị xếp hạng và ca tụng bằng 20 bài thất 
					ngôn đường luật thì tiếng chuông Thiên Mụ được liệt vào hàng 
					thứ 14 qua bài Thiên Mụ chung thanh. 
					
					Ở Huế còn có chùa Diệu Đế là 
					ngôi đệ tam quốc tự của đất Thần Kinh. Trước khi dựng chùa, 
					đất này là phủ của Miên Tông, khi lên ngôi lấy đế hiệu là 
					Hiến Tổ, năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) cho xây chùa với qui mô 
					lớn trên chỗ ở cũ. Nay chùa nằm trên đường Bạch Đằng thuộc 
					phường Phú Cát, với thửa đất rộng chừng nửa mẫu tây, ngó ra 
					Hàng Bè tức sông Đào chảy về Bao Vinh. Chùa ở khoảng giữa 
					cầu Gia Hội phía đông nam và cầu Đông Ba phía đông kinh 
					thành: 
					
					 
					
					Đông Ba, Gia Hội hai cầu
					
					Ngó qua Diệu Đế bốn lầu hai 
					chuông.
					
					 
					
					hoặc: 
					
					 
					
					Đông Ba ngó qua Diệu Đế
					
					Nghe thầy kinh kệ cúng lễ 
					giao thừa.
					
					 
					
					Chùa ở Quảng Nam 
					
					
					 
					
					Cách thành phố Đà Nẵng 8 km về 
					phía đông nam, ở xã Hòa Long huyện Hòa Vang có vùng đá vôi 
					nổi lên 5 ngọn núi, gọi là Ngũ Hành Sơn gồm hòn Kim, hòn 
					Mộc, hòn Thủy, hòn Hỏa, hòn Thổ. Nhờ địa thế ứng với ngũ 
					hành nên Quảng Nam trở thành đất địa linh nhân kiệt. Quần 
					sơn này nằm sát biển nên dân chúng quen gọi là núi Non Nước. 
					Trên núi có nhiều hang động thạch nhũ, có cả chùa nên cũng 
					được gọi là chùa Non Nước. Tuy không lớn lắm, nhưng nhờ ở vị 
					trí đặc biệt với cảnh trí thiên nhiên đẹp đẽ, chùa trở thành 
					một danh lam cổ tự bậc nhất của tỉnh Quảng Nam và cả miền 
					nam Trung bộ: 
					
					 
					
					Em đứng nơi cửa sông Hàn
					
					Ngó sang bãi Tiên Sa
					
					Ngũ Hành Sơn ở trên
					
					Mũi Sơn Trà ngoài khơi
					
					Nghe chuông chùa Non Nước
					
					Em nhớ mấy lời thề ước
					
					Anh làm sao cho duyên nợ được 
					vuông tròn
					
					Kẻo lòng người xứ Quảng mỏi 
					mòn đợi trông.
					
					 
					
					Phố cổ Hội An cách Đà Nẵng chừng 
					32 km về phía tây bắc, ở cuối dãy phố, trên con lạch thông 
					ra sông chảy vào sông Thu Bồn đổ ra cửa Đại, có một ngôi 
					chùa rất khác lạ, trên là chùa dưới là cầu bắc ngang con 
					lạch ấy. Chùa cầu này do người Nhật vào buôn bán ở Hội An 
					dựng lên khoảng thế kỷ 16 nên gọi là chùa Cầu Nhật Bản. Năm 
					1719, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) viếng Hội An, đặt cầu 
					là Lai Viễn Kiều nhưng dân vẫn quen gọi là chùa Cầu. Nhìn 
					chung, chùa Cầu có nét độc đáo, khoáng đạt, kiến trúc nhẹ 
					nhàng. Mặt cầu cong vòng lên ở giữa vừa chịu sức nặng vừa 
					tạo dáng xinh xắn hòa hợp với mái chùa cũng uốn cong mềm 
					mại, sàn chùa dựng lan can thơ mộng. Với cảnh sắc ấy, chùa 
					đã đi vào ca dao trữ tình: 
					
					 
					
					Ai ra phố Hội chùa Cầu
					
					Để thương để nhớ để sầu cho 
					ai?
					
					Để sầu cho khách vãng lai
					
					Để thương để nhớ cho ai chịu 
					sầu!
					
					 
					
					Chùa ở Quảng Ngãi 
					
					
					 
					
					Trên quốc lộ 1 từ Nam ra hay từ 
					Bắc vào, đến cầu Trà Khúc rồi xuôi theo tả ngạn sông Trà 
					chừng 1 km sẽ gặp núi Thiên Ấn, cao 105 mét, trên đỉnh bằng 
					phẳng rộng chừng 10 mẫu tây có chùa Thiên Ấn. Núi và chùa là 
					thắng cảnh nhất tỉnh, thuộc xã Tịnh Ấn huyện Sơn Tịnh, cách 
					thị xã Quảng Ngãi chừng 3 km. 
					
					Chùa Thiên Ấn do Thiền sư Pháp 
					Hóa (1670-1754) người Phúc Kiến khai sơn dựng vào năm 1694, 
					thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Năm 1716, chùa được chúa ban biển 
					ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự”. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận, 
					khi sư Pháp Hóa khởi công đào giếng chùa thì có một vị tăng 
					trẻ từ đâu không rõ tông tích, lên núi tình nguyện đào giúp. 
					Hai người đào suốt ba năm (có sách chép 3 tháng) ròng rã, 
					sâu được 21 mét mà không gặp nước, lại có tảng đá lớn chắn 
					ngang, họ vẫn không nản lòng, hì hục đục đá, bỗng có mạch 
					nước ở giữa khối đá phụt lên. Trong lúc mọi người mừng rỡ 
					thì nhà sư trẻ ấy lại lẳng lặng ra đi biệt tích, không ai 
					hay biết. Ngày nay giếng ấy vẫn còn và địa phương vẫn truyền 
					tụng câu ca dao về sự tích ấy: 
					
					 
					
					Ông thầy đào giếng trên non
					
					Đến khi có nước không còn tăm 
					hơi.
					
					 
					
					
					
					
					Chùa 
					Thiên Ấn
					
					 
					
					Chùa ở Bình Định 
					
					
					 
					
					Cũng theo quốc lộ 1, từ Qui Nhơn 
					đi về hướng bắc chừng 35 km, đến thị trấn An Hành, tức huyện 
					lỵ Phù Cát, rẽ phải theo hương lộ đi về đông chừng 24 km thì 
					gặp chùa Ông Núi. Nếu đi đường biển, từ Qui Nhơn xuống 
					thuyền dọc theo đầm Thị Nại về hướng bắc, đến bến đò Phú 
					Hậu. Lên bờ, đi bộ một quãng ngắn gặp chợ Phương Phi tức chợ 
					cửa Thử (còn gọi là Cách Thử) sẽ đến chân núi, lên chùa. Từ 
					đây tới chùa phải qua 11 chặng đường gãy men theo sườn núi, 
					mỗi chặng gồm nhiều bậc đá thiên nhiên xếp sẵn. Chùa dựa 
					lưng vào sườn núi phía nam của ngọn núi Bà cao nhất vùng 
					(1122 mét) thuộc địa phận thôn Phương Phi, xã Cát Chánh, 
					huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Sau chùa có khe nước trong 
					vắt chia làm hai nhánh bọc quanh, nhánh lớn lại có nhiều 
					nhánh nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuyên qua sân sau, quanh bếp chùa 
					để rồi đổ vào hồ sen trước chùa. Gần chùa có một hang đá 
					rộng, sâu hút vào lòng núi và thông ngầm ra biển, làm cho 
					cảnh chùa tăng thêm vẻ hoang vu và huyền bí: 
					
					 
					
					Cây che đá chất chập chồng
					
					Biển giăng dưới núi chùa lồng 
					trong mây.
					
					Bụi đời không gợn mảy may
					
					Chút thân rộng tháng dài ngày 
					thảnh thơi.
					
					 
					
					Tương truyền thời chúa Nguyễn 
					Phúc Chu có vị thiền sư người Trung Hoa đến xây dựng chùa 
					tranh, gọi là Dũng Tuyền tự (chùa Suối). Nhà sư dùng vỏ cây 
					kết làm áo mặc, không ai rõ tông tích nên chỉ gọi là Ông 
					Núi, hằng ngày đốn củi đem xuống núi đặt bên đường rồi bỏ 
					đi. Dân làng đem gạo, rau cũng đặt tại đấy đổi lấy củi, ít 
					nhiều tùy ý, nhà tu hành không hề so đo. Sau chúa Nguyễn 
					Phúc Chú (1725-1738) nghe tin, cho là đáng bậc chân tu, năm 
					Quí Sửu (1733) truyền dựng nơi đây ngôi chùa ngói, đặt tên 
					là Linh Phong Thiền tự, gọi tắt là chùa Linh Phong, nhưng 
					dân chúng vẫn quen gọi là chùa Ông Núi. 
					
					 
					
					Ông Núi đi đâu
					
					Bỏ bầu sơn thủy
					
					Đủ nhân đủ trí
					
					Thêm vĩ thêm kỳ
					
					Chùa xưa nhạt bóng tà huy
					
					Xuôi lòng non nước nặng vì 
					nước non.
					
					 
					
					Chùa ở Khánh Hòa 
					
					
					 
					
					Về chùa chiền, tỉnh Khánh Hòa có 
					ba đặc điểm: nhiều chùa nhất so với các tỉnh miền nam Trung 
					phần, chùa không lớn lắm và các vị tổ khai sơn chùa hầu hết 
					là người Việt. 
					
					Ở quận Vĩnh Xương thuộc tả ngạn 
					sông Nha Trang, trên núi có một ngôi chùa nằm bên con suối 
					có nhiều rau ngổ mọc hoang ven bờ nên dân chúng gọi là suối 
					Ngổ và chùa cũng là chùa Ngổ luôn. Chùa nổi tiếng đẹp nhờ 
					cảnh sắc thiên nhiên, được truyền tụng qua câu: 
					
					 
					
					Ở trên suối Ngổ có chùa
					
					Hai bên non nước, bốn mùa 
					khói mây.
					
					 
					
					Tại Nha Trang, trong ngõ hẻm 
					mang số 153/2 đường Hoàng tử Cảnh thuộc khu Phương Sài, có 
					ngôi Hội Phước tự. Dân chúng quen gọi là chùa Cát và câu ca 
					dao ghi lại cảnh biến đổi của chùa: 
					
					 
					
					Ngày xưa chùa Cát mênh mông
					
					Ngày nay chùa Cát nằm trong 
					xóm làng.
					
					 
					
					Nguyên chùa Hội Phước có từ đời 
					Lê Cảnh Hưng (1740-1786), tổ khai sơn là Thiền sư Phật Ấn 
					thuộc phái Lâm Tế. Đời thứ hai, Thiền sư Đại Thông dời chùa 
					đến địa điểm hiện nay, cách chỗ cũ chừng 300 mét, nhưng vẫn 
					là chùa tranh. Đời thứ ba, Thiền sư Tánh Minh cất lại thành 
					chùa ngói. Chùa mới, tọa lạc trên một bãi cát mênh mông nên 
					bổn đạo gọi là chùa Cát. Đến đầu thời Pháp thuộc, vùng này 
					dân cư thưa thớt, vườn chùa rộng đến vài mẫu, chung quanh có 
					tường phân ranh giới. Nhưng rồi thành phố mở rộng, dân cư 
					ngày một nhiều chen lấn khiến vườn chùa thu hẹp dần. Nay sân 
					trước chùa chỉ còn một lối đi hẹp, vách hông chùa sát với 
					nhà dân, cây me cổ thụ vườn chùa tách hẳn khỏi khuông viên 
					chùa, đứng gần đường Hoàng tử Cảnh. 
					
					Nha Trang còn có một con đường 
					mang tên đường Hai Chùa, ngày nay đường vẫn còn đó nhưng hai 
					chùa đã bị che khuất hoặc tan biến mất rồi. Xưa kia sát bên 
					chùa Cát có một ngôi cổ tự nữa cùng chịu chung cảnh biến 
					đổi, đó là chùa Duyên Sanh. Nguyên chùa là một thảo am dựng 
					vào khoảng cuối triều Tự Đức (1847-1883) do Thiền sư Viên 
					Giác khai lập. Năm 1891, Thành Thái thứ 3, được xây thành 
					một ngôi chùa khang trang và đổi tên là Hải Đức tự. Những 
					ngày lễ Phật, bổn đạo về chùa đông đúc. Thấy quang cảnh tấp 
					nập, chùa được dân địa phương gọi là chùa Hội. Đến đời Bích 
					Không đại sư, chùa đã hư nát lại thêm dân cư chung quanh mỗi 
					lúc một đông, không thích hợp với thiền môn, chùa phải dời 
					về núi Trại Thủy, một dãy núi nhỏ thuộc phía tây thành phố. 
					Chùa khởi công năm 1943, xây cất hai năm mới xong. Ở địa 
					điểm mới, tuy gần thành phố mà vẫn giữ được vẻ u tịch của 
					núi đồi, phản ánh qua ca dao: 
					
					 
					
					Lòng mong nương chốn Bồ Đề
					
					Lên chùa Hải Đức gần kề Nha 
					Trang.
					
					 
					
					Trên đây là một số ngôi chùa của 
					miền Trung và miền Bắc được nhắc nhở qua ca dao. Trong kho 
					tàng văn chương bình dân còn rất nhiều câu nữa nói đến chùa. 
					Vì khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, phần viết về chùa 
					chiền miền Nam xin hẹn lại ở một bài khác với những câu ca 
					dao hiền hòa, lênh láng tình cảm như dòng sông Đồng Nai và 
					Cửu Long, êm đềm cả hai mùa mưa nắng: 
					
					 
					
					Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
					
					Nghiêng chùa Châu Thới mới 
					sai lời nguyền.
					
					 
					
					 
					
					Theo tác giả Đào Đức Chương