Các ngôi chùa ở Việt Nam
không đồ sộ nguy nga như các chùa ở Ấn Độ, Trung Hoa, Thái
Lan và Cao Miên; nhưng rải rác đó đây, đâu đâu cũng có chùa.
Từ những thảo am trong thôn xóm hẻo lánh đến những ngôi chùa
kiến trúc bằng những vật liệu kiên cố tại các đô thị, tất cả
đều mang sắc thái gọn nhẹ, thanh thoát và tịch mịch. Thiên
nhiên đã tô điểm cho cảnh chùa và ngược lại chùa chiền cũng
làm tôn vẻ đẹp của thiên nhiên.
Chùa ở Việt Nam không chỉ là chỗ
tôn nghiêm thờ phượng để bổn đạo đến lễ Phật mà còn là nơi
tụ họp của dân chúng vào những dịp lễ như hành hương, rước
đảo vũ, chay đàn, đổ giàn..., thậm chí cả những cuộc vui
chơi như bài chòi, hát bội cũng có khi tổ chức tại sân chùa.
Dân chúng đến đình làng phải khép nép vì sợ có sự phân biệt
rõ ràng giữa thứ dân với hào mục, ngay cả trong hàng quan
lại về làng cũng phân biệt nhau theo học vị và phẩm trật. Lệ
làng, kẻ có chức tước bao giờ cũng được ăn trên ngồi trốc.
Trái lại, cửa thiền luôn luôn rộng mở, chúng sinh được bình
đẳng an vui, vì vậy chùa chiền rất gần gũi với dân chúng.
Qua ca dao, dân làng bày tỏ tình cảm quyến luyến với chùa
chiền:
Dù ai buôn đâu bán đâu,
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu
thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Nhớ ngày mồng tám thì về hội
Dâu.
và cảm thấy mất mát khi xa
cách:
Vì ai nên nỗi sầu này
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa
nhau.
Chùa
Dâu
Chùa ở Bắc Ninh
Ngôi chùa xưa nhất và cũng là
ngôi chùa đầu tiên của Việt Nam có từ thế kỷ thứ 2 sau Tây
lịch (thời Sĩ Nhiếp) là chùa Dâu. Chùa được dựng gần nha môn
Sĩ Vương, nơi có thành Luy Lâu là thủ phủ của xứ Giao Chỉ
(đời Đông Hán) sau đổi là Giao Châu (đời Tam Quốc). Nay chùa
thuộc làng Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng 30 km.
Chùa Dâu tên chữ là Thiền Định
tự (thời Lý Trần) hay Diên Ứng và Pháp Vân, vì trong chùa có
thờ tượng bà Pháp Vân, vị thần nổi tiếng cầu mưa rất linh
ứng, là một trong Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện. Tuy chùa có nhiều tên chữ, nhưng dân chúng vẫn quen
gọi tên nôm là chùa Dâu. Có sách cho rằng đó là do tượng bà
Man Nương, người sáng lập ngôi chùa này, được tạc bằng gỗ
dâu. Sách khác viết rằng vì trước mặt chùa có sông Dâu cũng
như tọa lạc trên làng Dâu nên tên chùa được gọi theo đấy.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và
các tài liệu khác, chùa Dâu được xây cất lại và được trùng
tu nhiều lần. Năm Tân Tị (1161) đời Lý Anh Tông (1138-1175),
chùa Dâu được xây cất lại. Đến cuối thế kỷ 13, Mạc Đỉnh Chi
(1280-1350) sửa sang và dựng tháp 9 tầng, xây cầu 9 nhịp.
Tháp cao đến nỗi: “Dù ai buôn đâu bán đâu, hễ trông thấy
tháp chùa Dâu thì về”. Ngày nay, tháp chỉ còn có 3 tầng, nhờ
tấm bia bằng đá xanh dựng nơi chân tháp, người ta mới biết
được tháp này có tên là Hòa Phong, tái thiết vào năm Mậu Ngọ
(1738) đời Lê Ý Tông (1735-1740) do Thiền sư Tính Mộ và đệ
tử xây dựng trên nền tháp cũ đã đổ nát và chùa cũng được sửa
chữa vào dịp này. Đến năm 1917, chùa được trùng tu một lần
nữa.
Hằng năm, hội Dâu mở vào ngày
mồng 8 tháng 4 âm lịch. Lễ hội có những đám rước rất lớn, cờ
lọng rợp trời, kèn chiêng trống tưng bừng. Theo Chùa xưa
tích cũ của Nguyễn Bá Lăng, dân chúng 11 xã trong tổng
Khương Tự tham gia lễ hội từ mồng 8 đến mồng 10. Đầu tiên là
đám rước Sĩ Nhiếp cùng vương nữ là Ngọc Tiên công chúa đến
chùa Dâu làm lễ, xong rước về bản đền ở làng Lũng Khê. Cũng
trong ngày mồng 8, ba đám rước cùng lúc các tượng Pháp Vũ ở
chùa Thành Đạo làng Đông Cốc, tượng Pháp Lôi ở chùa Phi
Tương làng Thanh Tương, và tượng Pháp Diện ở chùa Trí Quả
làng Phương Quan đến chùa Dâu, hội cùng với tượng Pháp Vân.
Sau đó rước cả 4 vị đến chùa Mãn Xá bên kia sông Dâu, làm lễ
kính yết bà Man Nương. Xong, rước 4 tượng về lại chùa Dâu
nghỉ đêm. Sáng mồng 9, lại rước Tứ Pháp đến đền Sĩ Nhiếp làm
lễ, sau đó rước đi trình diễn khắp tổng, chiều tối lại rước
về nghỉ ở chùa Dâu. Ngày mồng 10, rước 3 tượng Pháp Vũ, Pháp
Lôi và Pháp Điện trở về chùa riêng của mỗi vị.
Bắc Ninh không những có trung
tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành sớm hơn cả hai trung
tâm Phật giáo đầu tiên của Trung Hoa là Bình Thành và Lạc
Dương (kinh đô nhà Hán, bên sông Hoàng Hà), Bắc Ninh còn là
nơi được xây nhiều chùa chiền dưới thời Lý. Theo Đại Nam
nhất thống chí và các tài liệu khác thì ở tổng Lãm Sơn có 16
xã nằm quanh khu núi đồi, cảnh trí sông núi âm u tịch mịch
nên có nhiều chùa cổ. Nơi sườn núi phía nam thuộc xã Nam Sơn
có chùa Đại Lãm, tục gọi là chùa Dạm. Năm 1086, Lý Nhân Tông
cho dựng chùa. Năm sau (Quang Hựu thứ 3), nhà vua ngự giá
khánh thành. Vua mở tiệc đêm tại chùa, đãi yến các quan và
chính nhà vua làm 2 bài thơ Lãm Sơn dạ yến. Năm Long Phù thứ
5 (1105), Nhân Tông còn dựng 3 tháp bằng đá tại chùa này.
Chùa đã đổ nát từ lâu, nay chỉ còn lại vết tích 4 lớp nền xẻ
vào sườn núi với vài dấu vết nền đá và một cây cột đá lớn
dựng ở lối lên bên phải của bậc nền thứ hai, chứng tỏ chùa
được xây trên một diện tích bề dài khoảng 120 mét, bề rộng
70 mét.
Lúc về già, Thái phi Ỷ Lan (thân
mẫu vua Nhân Tông) đến ở chùa Dạm. Bà cho lập chợ ở chân núi
trước chùa và cho đào một con ngòi thẳng ra sông Thiên Đức,
gọi là ngòi Con Tên, để vua tiện việc ngự thuyền rồng vào
thăm mẹ, nay vẫn còn lưu lại qua ca dao:
Trên chùa dưới chợ
Hàng phố hai bên
Núi Rồng ở trên
Ngòi Tên ở dưới.
Bắc Ninh còn có chùa Sùng Khánh,
tức chùa Báo Thiên, ở Đông Xuyên thuộc tổng Nội Trà, huyện
Yên Phong, phủ Từ Sơn. Chùa được xây cất năm Bính Thân
(1056) niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 3. Vua Lý Thánh
Tông còn xuất 12 ngàn cân đồng của công khố để đúc chuông
cho chùa. Nơi đây có tiếng là danh lam thắng cảnh qua ca dao
truyền tụng:
Đông Xuyên có bãi sân chầu
Có chùa Sùng Khánh, có lầu
Bạch Vân.
Chùa ở Sơn Tây
Nếu lấy Thăng Long làm tâm điểm,
thì đối xứng với Bắc Ninh là tỉnh Sơn Tây. Nếu Bắc Ninh có
trung tâm Phật giáo Luy Lâu cổ xưa nhất thì Sơn Tây có chùa
Tây Phương là danh lam cổ tự nổi tiếng nhất của Việt Nam.
Chùa có tên chữ là Sùng Phước tự, nằm trên đỉnh núi Tây
Phương (cao chừng 50 mét), hình núi cong như lưỡi câu nên
còn gọi là núi Câu Lâu, nay thuộc làng Cần Kiệm xã Thạch Xá
huyện Thạch Thất.
Về niên đại của chùa, sách Danh
lam cổ tự đã vin vào bảng lịch sử của chùa mà cho rằng chùa
có từ thế kỷ thứ 3. Có lẽ tác giả dựa vào lời tương truyền
đời Tấn (265-420) có Cát Hồng đến núi Câu Lâu luyện thuốc tu
tiên. Còn theo sách Chùa xưa tích cũ, tác giả căn cứ vào số
lượng tượng Hộ Pháp và La Hán: chùa chỉ có 1 Hộ Pháp là Vi
Thiên Tướng thay vì 2 vị, và chỉ có 16 tượng La Hán chứ
không phải 18 vị như thời Tống nên cho rằng chùa phải được
lập thành trong thời Đường (618-936), hay chậm nhất cũng
phải trước thời Tống (năm 960 về trước). Dù chùa dựng vào
thời nào cũng trên 1000 năm rồi và phải trùng tu nhiều lần.
Sử sách có ghi hai lần trùng tu ở cấp quốc gia là năm 1632
đời Lê Thần Tông và năm 1794 đời vua Cảnh Thịnh. Ngày hội
chùa được nhắc nhở qua ca dao:
Ấy ngày mùng sáu tháng ba
Ăn cơm với cà, đi hội chùa
Tây.
Chùa
Tây Phương
Nhịn ăn nhịn mặc (ăn cơm với cà)
để dành tiền đi xem hội chùa Tây một lần kẻo tiếc. Dự hội
chùa vừa được hưởng một ngày vui, vừa được chiêm ngưỡng kiến
trúc và điêu khắc tuyệt vời của ngôi cổ tự.
Chùa dựng theo hình chữ tam rất
độc đáo. Cả ba dãy nhà đều thiết kế kiểu mái hai tầng, ở bốn
góc chái đều có mái đao cong vút lên nền trời trông rất
mạnh, lại có đắp rồng ngắn ở đầu góc, tạo nét uyển chuyển
hài hòa. Về nghệ thuật điêu khắc, chùa có tất cả 77 pho
tượng lớn nhỏ bằng gỗ mít, son thếp nhiều màu rất công phu.
Đáng kể nhất là tượng Tuyết Sơn, nét nhẫn nại trầm tư nhưng
cương quyết hiện rõ trên khuôn mặt gầy gò của người tu khổ
hạnh. Các tượng La Hán lớn bằng người thật, mỗi vị mang một
dáng điệu, một nét mặt, biểu lộ trạng thái tâm tư khác nhau.
Xong hội chùa Tây, ngày hôm sau
có hội chùa Thầy ở huyện kế cận. Chùa Thầy trong khu vực núi
Sài Sơn, thuộc làng Hoàng Xá xã Phượng Cách huyện Quốc Oai.
Chùa có tên chữ là Thiên Phúc tự, xây năm 1057 đời Lý Thánh
Tông, nguyên là một chùa nhỏ do Thiền sư Từ Đạo Hạnh lập ra
để tu hành, dân chúng gọi là chùa Thầy để tỏ lòng tôn kính.
Chẳng vui cũng thể hội Thầy
Chẳng trong cũng thể hồ Tây
xứ Đoài.
Rửa chân đi hán đi hài,
Rửa chân đi đất cũng hoài rửa
chân.
Nói thế chứ hội chùa Thầy vui
lắm. Không những phong cảnh hữu tình, trước chùa là một hồ
nước rộng có thủy đình trình diễn múa rối nước, mà nơi đây
còn là điểm hẹn của nam thanh nữ tú:
Mồng bảy tháng ba
Vui thay Cắc Cớ
Trai không vợ
Nhớ hội chùa Thầy
Gái không chồng
Nhớ ngày mà đi
Hai bên chùa là hai cây cầu có
mái che mưa nắng do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây vào năm
1602, đặt tên là Nhật Tiên và Nguyệt Tiên. Lối qua cầu
Nguyệt Tiên có đường dẫn lên núi vào hang Cắc Cớ. Đường đi
ngoằn ngoèo nhỏ hẹp lại men theo sườn núi, một bên là vách
đá, một bên là vực sâu, người ra vào dễ đụng chạm vào nhau
hoặc phải nhờ dìu dắt, nhân đó trai gái có dịp làm quen:
Mưa từ trong núi mưa ra
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua
chùa Thầy.
Đôi ta bắt gặp nhau đây,
Như con bò gầy gặp bãi cỏ
hoang.
Và có nhiều cuộc hôn nhân bắt
nguồn từ hội chùa Thầy, trên đường vào hang Cắc Cớ:
Một nhà có bốn chị em
Có tôi là út, tôi thèm đi
chơi.
Cả gan may túi đựng trời
Đem nong sảy đá, giết voi xem
giò
Ngồi buồn đem thước ra đo
Đo từ núi Sở, núi So, chùa
Thầy.
Lên trời đo gió đo mây
Xuống sông đo nước, lại đây
đo người.
Đo từ mười tám, đôi mươi
Đo lên chẳng được, đo người
mười lăm.
Tuổi em vừa đúng trăng rằm
Tuổi anh mười sáu kết trăm
năm vừa.
Lại có người cho rằng hội chùa
Ngo ở xã Tích Giang huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây mới đúng là
nơi hấp dẫn:
Nhất vui là hội chùa Thầy
Vui thì vui vậy, chẳng tày
hội Ngo
Chùa Ngo khánh đá chuông
đồng,
Muốn chơi thì trả của chồng
mà chơi!
Cùng huyện với chùa Ngo, ở xã
Đường Lâm có chùa Viễn là ngôi chùa cổ với bảo vật nổi
tiếng:
Nước giếng đồng chưa hâm đã
nóng
Chuông chùa Viễn chưa gióng
đã kêu!
Nhưng chùa chứa nhiều bảo vật
đứng hàng thứ nhì (sau chùa Tây Phương) của tỉnh Sơn Tây nói
riêng và cả nước nói chung, phải kể là chùa Sùng Nghiêm ở
làng Mía, xã Đường Lâm, huyện Ba Vì. Chùa hiện có 287 pho
tượng lớn nhỏ bằng gỗ hoặc bằng đất luyện, sơn son thếp vàng
công phu. Ba pho tượng có giá trị cao về nghệ thuật là tượng
Quan Âm Tống Tử với đường nét sinh động mềm mại; tượng Bát
Bộ Kim Cang bằng đất luyện, 8 hình tượng diễn tả 8 thế võ
khác nhau, nét mặt biểu lộ tinh thần thượng võ; tượng Tuyết
Sơn cũng rất đạt về nghệ thuật nên có ca dao ca truyền tụng:
Nổi danh chùa Mía làng ta
Có pho Tống Tử Phật Bà Quan
Âm.
Chùa ở Hà Nội
Đất Sơn Tây còn lắm chùa, nhiều
di tích. Nhưng ta hãy tạm rời, theo đoàn người trẩy hội về
Thăng Long cho kịp ngày mồng 8 tháng 3, dự hội chùa Chiêu
Thiền ở làng Yên Lãng, tên nôm là chùa Láng, thuộc phường
Láng Thượng, quận Đống Đa, cách trung tâm Hà Nội khoảng 6 km
về hướng tây. Chùa khởi dựng năm 1164 đời Lý Anh Tông, được
trùng tu nhiều lần, lần gần nhất là giữa thế kỷ 19. Chùa có
một quần thể kiến trúc hài hòa. Bước vào cổng có 4 trụ lớn
bằng gạch vươn cao lên nền trời, đỡ 3 cổng vào với mái cong
thanh thoát. Tiếp đến là sân rộng lát gạch bát tràng, cuối
sân có cổng tam quan, xuyên qua là nhà bát giác, nơi đặt
tượng Lý Thần Tông và Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Vì chùa có phụ
thờ đức Từ Đạo Hạnh nên mở hội tiếp theo hội chùa Thầy:
Nhớ ngày mồng tám tháng ba
Trở về hội Láng, trở qua hội
Thầy.
Hà Nội có một ngôi chùa đẹp nổi
tiếng nhưng yểu mệnh. Đó là chùa Liên Trì, còn gọi là Báo
Ân Tự, nằm bên hồ Hoàn Kiếm, dựng năm Mậu Thân (1848) Tự
Đức nguyên niên, kiến trúc theo hình bát giác, có 36 tòa
nhà, gồm 188 gian. Là một công trình vĩ đại của thế kỷ 19,
do Thượng thư Nguyễn Văn Giai, người Thanh Hóa, xây dựng nên
dân chúng quen gọi là chùa Quan Thượng:
Gần xa nô nức tưng bừng
Vào chùa Quan Thượng xem bằng
động tiên.
Lầu chuông, gác trống đôi bên
Trông ra chợ Mới, Tràng tiền
kinh đô.
Khen ai khéo vẽ họa đồ,
Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ
Hoàn Gươm.
Chùa
Quan Thượng
Nhưng đến năm 1887, niên hiệu
Thành Thái thứ 9, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer lập chế
độ trực trị tại Bắc kỳ, đã triệt hạ chùa Quan Thượng, lấy
đất xây tòa Thống sứ và Bưu điện Hà Nội.
Chùa ở Hà Đông
Phía nam Hà Nội là giáp Hà Đông,
một tỉnh có nhiều cổ tự nổi tiếng như chùa Hương, chùa Trăm
Gian. Hội chùa Hương vào ngày 19 tháng 2 là ngày giáng đản
và ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày thành đạo của đức Quan Âm
chùa Hương, nhưng người đi trẩy hội thường chọn dịp tháng 2.
Du khách đến chùa Hương bằng nhiều ngả. Đi đường bộ thì theo
liên tỉnh lộ 22. Đường thủy thì từ Phủ Lý (Hà Nam) đi ngược
sông Đáy, hoặc từ bến Vân Đình (Hà Đông) xuôi dòng sông Đáy.
Dù đường bộ hay thủy, cũng đổ bến tại Hà Đoan, quen gọi là
bến Đục. Nơi đây quán trọ, hàng ăn san sát. Các gian hàng
bán sản phẩm địa phương nổi tiếng như rau sắng, quả mơ, hồng
trà, củ mài... với các cô gái bán hàng xinh xắn, liến thoắng
mời khách.
Ai đi trẩy hội chùa Hương
Làm ơn gặp khách thập phương
hỏi giùm
Mớ rau sắng, quả mơ non
Mơ chua sắng ngọt, biết còn
thương chăng?
Từ bến Đục đến bến đò Suối chừng
nửa cây số. Tại bến đò, du khách thuê đò đi chừng 2 cây số
thì đến bến Trò. Bước lên bờ, thấy ngay tam quan của chùa
Thiên Trù, quen gọi là chùa Ngoài. Đi bộ thêm khoảng vài giờ
đường núi, gặp ba chùa nữa là chùa Tiên, chùa suối Giải Oan,
chùa Cửa Võng, rồi leo lên gần đến đỉnh một trái núi, mới
tới động Hương Tích. Đây là chùa Trong, còn gọi là chùa
Hang. Đường núi gập ghềnh, chim kêu vượn hót, du khách tốp
năm tốp bảy ra vào tấp nập. Họ có thể không biết nhau, nhưng
gặp nhau vẫn tươi cười với câu chào “A Di Đà Phật”, “Nam mô
Phật” hay “Quan Thế Âm Bồ Tát”:
Ngày xuân cái én xôn xao
Con công cái bán ra vào chùa
Hương.
Chim đón lối, vượn đưa đường
Nam mô đức Phật bốn phương
chùa này.
Trong động, trên dải thạch nhũ
có khắc 5 chữ đại tự “Nam thiên đệ nhất động” đẹp sắc sảo,
tương truyền là nét bút của chúa Trịnh Sâm (1767-1782),
nhưng có sách lại cho là của vua Lê Thánh Tông.
Chùa nào mà lại có hang?
Ở đâu lắm của thời chàng biết
không?
Chùa Hương mà lại có hang
Trên rừng lắm của thời nàng
biết không.
Phía Bắc tỉnh Hà Đông, gần đường
liên tỉnh 11, tại làng Tiên Lữ xã Tiên Phương, huyện Hoài
Đức, trên một quả đồi cao chừng 50 mét có một ngôi chùa nổi
tiếng về phong cảnh đẹp, kiến trúc qui mô, có nhiều bảo vật
và tượng quý. Đó là chùa Trăm Gian, theo làng sở tại còn có
tên là chùa So hay chùa Tiên Lữ, tên chữ là Quảng Nghiêm tự.
Theo Danh lam cổ tự, chùa được lập năm Ất Tị (1185) niên
hiệu Trinh Phù thứ 10 đời Lý Cao Tông, nhưng theo Nguyễn Bá
Lăng trong Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thì chùa do Minh Đức
chân nhân Nguyễn Bình An lập từ thế kỷ 13 triều Trần và được
trùng tu khoảng thế kỷ 17, 18. Chùa có 4 dãy nhà kết thành
bình đồ chữ nhật rộng 24 mét, dài 42 mét. Nếu tính 4 cột là
1 gian thì chùa có 104 gian, tính cả phần phụ thuộc nối dài
sau chùa thì cả thảy 107 gian, vì thế nên có câu ca dao
truyền tụng:
Đình So, quán Giá, chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm
Gian
Chùa ở Hưng Yên
Nếu theo quốc lộ 5 đi Hưng Yên,
cách Hà Nội chừng 20 km về phía đông nam, tại làng Ôn Xá
huyện Văn Lâm có chùa Un với hội rước Tứ Pháp cầu đảo vũ.
Hội tổ chức qui mô lớn, cả tổng tham dự nên còn gọi hội tổng
Ôn Xá. Lễ hội không mở định kỳ hàng năm, chỉ khi nào hạn hán
trầm trọng mới mở hội. Theo tục lệ, dân địa phương rất sợ uy
linh của Pháp Điện nên không ai dám xê dịch tượng ngài,
người ta chỉ mở đám rước các tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
Lôi thờ ở các chùa khác về chùa Un để cùng với Pháp Điện
linh ứng lễ hợp tế cầu mưa nên có câu:
Ba bà trẩy hội chùa Un
Mưa gió đùng đùng mới dễ làm
ăn!
Chùa ở Hải Dương
Rời Hưng Yên, cũng theo quốc lộ
5 đi qua tỉnh lỵ Hải Dương rồi rẽ trái vào tỉnh lộ 17 đến
thị trấn Phả Lại thuộc huyện Chí Linh, gần chỗ hợp lưu của
sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam làm thành sông Thái
Bình. Tại chân núi Phao Sơn, có chùa Phả Lại vươn cao, soi
mình trên sông nước. Sơn thủy hữu tình đã tô điểm cho cảnh
chùa vẻ đẹp mơ màng, đi vào ca dao muôn thuở:
Xa đưa văng vẳng tiếng chuông
Kìa chùa Phả Lại chập chùng
bên sông.
Chùa ở Lạng Sơn
Ở tận cùng miền biên giới Việt
Hoa là tỉnh Lạng Sơn, nổi tiếng về sơn thủy hữu tình. Sông
Kỳ Cùng chảy dọc theo chiều dài của tỉnh, chia thị xã Lạng
Sơn làm hai phần, phía nam là khu lỵ sở và phố xá, phía bắc
có chợ Kỳ Lừa lập từ đời Lê Thái Tông (1434-1442), xưa nay
nổi tiếng sầm uất. Cách chợ Kỳ Lừa chừng 2 km (đường chim
bay) về phía tây có dãy núi đá vôi, trong núi là một hệ
thống hang động gồm Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh; trên
sườn núi Tô Thị có tượng đá Vọng Phu nhô cao lên nền trời
dáng người đàn bà ôm con chờ chồng, một tuyệt tác thiên
nhiên có từ ngàn xưa.
Từ lỵ sở Lạng Sơn đến chợ Kỳ
Lừa, qua cầu Kỳ Cùng rẽ trái vào phố Muối là đường lên hang
động. Đầu tiên gặp động Nhất Thanh thờ Phật và có thờ tượng
Ngô Thì Sĩ (cựu Đốc trấn Lạng Sơn). Động Nhị Thanh khá rộng,
trần và vách đầy nhũ đá, có ngôi chùa Tam giáo thờ đức Khổng
Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca. Xuyên qua động Nhị Thanh, men
theo con đường suối trong hang dẫn tới động Tam Thanh ở lưng
chừng núi. Đường hang dài, chỗ phình ra trên trần có lỗ
“cổng trời” rọi nắng phản chiếu vào nhũ đá lên màu rực rỡ.
Trong động Tam Thanh trần cao đến 8 mét, nền rộng và phẳng,
có chùa thờ nhiều tượng Phật, có cửa thông ra ngoài cả hai
hướng đông và tây, lại có dòng suối nhỏ róc rách chảy vào
“ao địa ngục” âm u lạnh lẽo. Trên vách khắc bài thơ tuyệt
tác của Ngô Thì Sĩ, nét chữ đẹp và phóng khoáng như rồng
bay. Tất cả tạo nên khung cảnh vừa lộng lẫy, vừa thơ mộng,
huyền ảo xứng đáng nổi danh qua câu ca dao:
Lạng Sơn có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam
Thanh.
Chùa ở Quảng Ninh
Vùng đồi núi giáp giới ba tỉnh
Bắc Giang, Hải Dương và Quảng Ninh có ngọn núi Yên Tử cao
nhất vùng. Vào thời Trần, Yên Tử là một trung tâm Phật giáo
khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, lên
đây tu hành, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm là thiền phái
thứ ba trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Từ chân núi đến ngôi chùa Cả nằm
chót vót trên ngọn - còn gọi là chùa Yên Tử - đường dài 30
km. Dọc đường có hơn 20 cảnh chùa gắn liền với địa danh,
mang sự tích Thượng hoàng Nhân Tông xuất gia. Đầu tiên là
suối Tắm, nơi Thượng hoàng dừng lại tắm gội bụi trần trước
khi lên núi tu hành. Bên suối Tắm có chùa Cầm Thực (nhịn
ăn), tương truyền khi Thượng hoàng đến đây chỉ ăn rau quả
thay cơm. Đi nữa, gặp chùa Long Động, tục gọi là chùa Lân vì
chùa dựng sát núi giống hình con lân, nơi Thượng hoàng mở
trường thuyết pháp, độ tăng cho cả vạn người. Đường còn dài,
phải vượt qua chín con suối nữa thì gặp dốc Voi Xô, rồi núi
Hạ Kiệu, đánh dấu nơi vua Trần Anh Tông mỗi lần lên thăm cha
phải xuống kiệu đi bộ từ quãng này. Đường lên Yên Tử khó
khăn và thử thách nên mới có câu:
Nào ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng
tu.
Chùa
Yên Tử
Chùa ở Thái Bình
Từ Hải Phòng theo liên tỉnh lộ
10 đi về hướng Nam Định, khi ra khỏi tỉnh lỵ Thái Bình thì
gặp huyện Vũ Tiên. Nơi làng Dũng Nghĩa, nay là Dũng Nhuệ, xã
Duy Nhất, huyện Vũ Thư có ngôi chùa cổ nổi tiếng. Đó là chùa
Keo (gọi theo tên làng), tên chữ là Thần Quang tự, do Quốc
sư Không Lộ lập từ thời Lý Thần Tông (1128-1138). Chùa nằm
sát tả ngạn sông Hồng nên bị xói lở, năm 1609 chùa được dời
đến địa điểm ngày nay, tọa lạc trên thửa đất rộng gần 6 mẫu
tây. Toàn cảnh chùa là một quần thể kiến trúc gồm 14 công
trình. Trên đường trục tim, đầu tiên là cột cờ. Tiếp đến là
sân lát đá xanh, dẫn đến tam quan ngoài có 4 góc mái vươn
cong. Tiếp nữa, ao chữ nhật dài 25 mét rộng 10 mét chắn
ngang, có đường lát đá viền quanh dẫn đến tam quan trong.
Bước qua sân đất rộng, tới khu kiến trúc chính của chùa như
tiền đường tức chùa Hộ, thượng điện tức chùa Phật, sân gạch,
tòa Giá Roi, tòa Thiêu Hương, tòa Phục Quốc, tòa Hậu Cung.
Cuối cùng là gác chuông với 12 góc mái vươn cong, xếp chồng
3 tầng, cao hơn 11 mét. Theo văn bia dựng năm 1630, chùa có
tất cả 21 dãy nhà gồm 154 gian, nhưng nay chỉ còn 107 gian,
đặc biệt sườn nhà toàn bằng gỗ lim lắp mộng, không dùng
đinh.
Chùa Keo hàng năm mở hội từ ngày
13 đến hết đêm rằm tháng 9. Hội chùa rất lớn, không những
chỉ dân tỉnh Thái Bình mà còn cả dân các tỉnh lân cận như
Kiến An (nay là Hải Phòng), Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định...
cũng về dự. Hội trẩy đông đảo, vui không kể xiết, các cô gái
đã bày tỏ lòng nao nức dự hội qua phong dao:
Dẫu mà cha đánh, mẹ treo
Cũng không bỏ hội chùa Keo
đêm rằm.
Chùa ở Nam Định
Rời Thái Bình, tiếp tục theo
liên tỉnh lộ 10 đến tỉnh lỵ Nam Định, rồi theo liên tỉnh lộ
21 về chùa Giao Thủy ở làng Hành Thiện, tổng Hành Thiện,
huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường nay là huyện Xuân Thủy.
Tương truyền ngày xưa Thiền sư Nguyễn Minh Không tu ở đây,
tục gọi là chùa Keo Trên để phân biệt với chùa Keo ở Thái
Bình. Cả hai chùa đều có tên chữ là Thần Quang tự và đều thờ
sư Minh Không tức Quốc sư Không Lộ. Các sách sử xưa có chép
việc Lý Thần Tông mắc bệnh hóa hổ, được Thiền sư Minh Không
chữa khỏi nên phong làm quốc sư. Sách Thành ngữ Điển tích
Danh nhân Từ điển còn cho rằng tiền kiếp của vua Thần Tông
chính là Thiền sư Từ Đạo Hạnh, bạn tu hành với các sư Giác
Hải, Minh Không, bởi có lời nguyền kiếp trước nên kiếp này
nhà vua mới mắc phải bệnh ấy. Dù câu chuyện có thế nào chăng
nữa, sự kiện vẫn được đồng dao ghi lại:
Tập tầm vông, tập tầm vông
Có ông Nguyễn Minh Không
Chữa được Thần Tông hoàng
đế...
Chùa ở Hà Nam
Đến với Hà Nam, một tỉnh mới
thành lập từ năm 1890, tách ra từ tỉnh Hà Nội, thấy có chùa
Tiên thuộc làng Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm, phủ Lý Nhân.
Tương truyền chùa có 99 cây thông, người ta cố trồng thêm 1
cây nữa cho chẵn 100 mà trồng mãi vẫn không sống, nên ca dao
có câu:
Chùa Tiên chín chín cây thông
Ai không trồng đủ, làng không
cho về.
Chùa Tiên nằm trên đỉnh đồi,
đường dốc thoai thoải, cảnh trí nên thơ, tiếng đồn còn lưu
mãi trong ca dao:
Ngày xuân liệu liệu còn dài
Chơi chùa Tiên kẻo một mai
nữa già.
Cũng trong tỉnh Hà Nam có một
ngôi chùa cổ để lại trong ngôn ngữ Việt Nam một thành ngữ:
“Vắng như chùa Bà Đanh”. Đó là chùa Bảo Sơn, được xây cất
trong vùng rừng núi, thuộc làng Đinh Xá tổng Thụy Lôi huyện
Kim Bảng phủ Lý Nhân. Nơi đây, xưa có tiếng là nhiều cọp, ít
người dám lui tới nên chùa vắng vẻ:
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên vắng ngắt như chùa
Bà Đanh.
Chùa ở Ninh Bình
Là một tỉnh ở vị trí cửa ngỏ của
miền Bắc thông với miền Trung, tại tỉnh lỵ Ninh Bình có núi
Dục Thúy nằm ngay trên sông Vân Sàng. Núi được ba mặt sông
bao bọc, trông như hòn ngọc khổng lồ nhô lên trong biển
nước. Trên núi có ngôi chùa cổ tên chữ là Thúy Sơn tự nhưng
dân chúng vẫn quen gọi là chùa Non Nước và gọi luôn núi Dục
Thúy là núi Non Nước. Gần tỉnh lỵ còn có núi Cánh Diều và
núi Hồi Hạc, tô điểm cho sông Vân núi Thúy thành bức tranh
sơn thủy thiên nhiên tuyệt đẹp, cảnh trí hữu tình:
Đất Ninh Bình có chùa Non
Nước
Núi Phi Diên, Hồi Hạc chung
quanh.
Chung quanh những chị em cười
Giữa chùa Non Nước một tôi
với nàng.
Chùa
Non Nước
Chùa ở Thanh Hóa
Rời miền Bắc, theo quốc lộ 1 vào
Thanh Hóa. Ở huyện Nông Cống có mạch núi từ huyện Thọ Xuân
kéo đến, tới địa phận tổng Cổ Định thì trồi lên thành nhiều
trái núi, ngọn cao nhất là núi Nưa tức Na Sơn cao 536 mét.
Phong cảnh rất đẹp, bên ngoài có 4 dòng suối giao lưu như
những chiếc vòi bạch tuộc. Trên đỉnh có hang động lập thành
chùa gọi là Khánh Long tự, đã mãi mãi đi vào thi ca bình
dân:
Huyện Nông cao nhất rừng Na
Tối linh vạn cổ nhất chùa
Khánh Long
Lại thêm khánh đá chuông đồng
Long Quân tại tả, hữu ông Thổ
thần.
Phật đà phù hộ cho dân,
Thời xin cải cựu tùng tân từ
rày.
Chùa ở Huế
Huế không những là kinh đô của
triều Nguyễn, Huế còn là trung tâm Phật giáo miền Trung và
miền Nam, kể từ khi xứ Đàng Trong được thành lập. Nơi đây
vừa có nhiều chùa, vừa là những chùa danh tiếng. Tiêu biểu
nhất có chùa Thiên Mụ dựng trên đồi Hà Khê, làng An Ninh,
huyện Hương Trà, cách thành phố Huế chừng 5 km về phía tây
và trên tả ngạn sông Hương.
Theo Đại Nam nhất thống chí Thái
tổ Nguyễn Hoàng (1558-1612) thấy phong thủy vùng này giống
như con rồng ngoảnh đầu lại, lại nghe trong dân gian lưu
truyền câu chuyện về một bà già mặc áo đỏ quần xanh, hiện
lên ngồi trên đồi Hà Khê, nói với dân làng: “Phải có chân
chúa đến dựng chùa ở đây để thu góp khí thiêng mà giữ vững
long mạch”, chúa bèn tin lời, cho dựng chùa tại đồi năm 1601
và đặt tên là Thiên Mụ. Từ ấy, chùa Thiên Mụ được các chúa
Nguyễn và nhà Nguyễn bảo tồn, coi là đệ nhất quốc tự, đời
đời mở mang và trùng tu. Vì thế dân chúng đã sánh sự bền
vững của ngôi chùa với tình yêu đôi lứa qua câu hát ví:
Lấy nhau cho trọn đạo trời
Đổ chùa Thiên Mụ mới rời nhau
ra.
Chùa được dựng trên vùng đất gò
cao ráo, bên dòng sông Hương thoát nước. Địa thế rất tốt cho
một công trình lâu dài:
Bao giờ lụt lút đến vai
Lút chùa Thiên Mụ, em mới
phai nghĩa chàng.
Cũng tại ngôi chùa này, năm Canh
Dần (1710), chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc đại hồng chung lớn
nhất ở Huế với đường kính 1,4m cao 2,5m nặng 3.285kg có khắc
bài văn của chúa. Tiếng chuông ấy đã được đưa vào ca dao của
dân tộc:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh
gà Thọ Xương.
hoặc:
Thương thời thương, chẳng
thương thời chớ
Làm chi cho lỡ dở thêm buồn
Bên chùa Thiên Mụ đã gióng
tiếng chuông
Gà thượng thôn đã gáy, tiếng
chim nguồn đã kêu!
Trong 20 thắng cảnh của đất Thần
kinh được vua Thiệu Trị xếp hạng và ca tụng bằng 20 bài thất
ngôn đường luật thì tiếng chuông Thiên Mụ được liệt vào hàng
thứ 14 qua bài Thiên Mụ chung thanh.
Ở Huế còn có chùa Diệu Đế là
ngôi đệ tam quốc tự của đất Thần Kinh. Trước khi dựng chùa,
đất này là phủ của Miên Tông, khi lên ngôi lấy đế hiệu là
Hiến Tổ, năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) cho xây chùa với qui mô
lớn trên chỗ ở cũ. Nay chùa nằm trên đường Bạch Đằng thuộc
phường Phú Cát, với thửa đất rộng chừng nửa mẫu tây, ngó ra
Hàng Bè tức sông Đào chảy về Bao Vinh. Chùa ở khoảng giữa
cầu Gia Hội phía đông nam và cầu Đông Ba phía đông kinh
thành:
Đông Ba, Gia Hội hai cầu
Ngó qua Diệu Đế bốn lầu hai
chuông.
hoặc:
Đông Ba ngó qua Diệu Đế
Nghe thầy kinh kệ cúng lễ
giao thừa.
Chùa ở Quảng Nam
Cách thành phố Đà Nẵng 8 km về
phía đông nam, ở xã Hòa Long huyện Hòa Vang có vùng đá vôi
nổi lên 5 ngọn núi, gọi là Ngũ Hành Sơn gồm hòn Kim, hòn
Mộc, hòn Thủy, hòn Hỏa, hòn Thổ. Nhờ địa thế ứng với ngũ
hành nên Quảng Nam trở thành đất địa linh nhân kiệt. Quần
sơn này nằm sát biển nên dân chúng quen gọi là núi Non Nước.
Trên núi có nhiều hang động thạch nhũ, có cả chùa nên cũng
được gọi là chùa Non Nước. Tuy không lớn lắm, nhưng nhờ ở vị
trí đặc biệt với cảnh trí thiên nhiên đẹp đẽ, chùa trở thành
một danh lam cổ tự bậc nhất của tỉnh Quảng Nam và cả miền
nam Trung bộ:
Em đứng nơi cửa sông Hàn
Ngó sang bãi Tiên Sa
Ngũ Hành Sơn ở trên
Mũi Sơn Trà ngoài khơi
Nghe chuông chùa Non Nước
Em nhớ mấy lời thề ước
Anh làm sao cho duyên nợ được
vuông tròn
Kẻo lòng người xứ Quảng mỏi
mòn đợi trông.
Phố cổ Hội An cách Đà Nẵng chừng
32 km về phía tây bắc, ở cuối dãy phố, trên con lạch thông
ra sông chảy vào sông Thu Bồn đổ ra cửa Đại, có một ngôi
chùa rất khác lạ, trên là chùa dưới là cầu bắc ngang con
lạch ấy. Chùa cầu này do người Nhật vào buôn bán ở Hội An
dựng lên khoảng thế kỷ 16 nên gọi là chùa Cầu Nhật Bản. Năm
1719, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) viếng Hội An, đặt cầu
là Lai Viễn Kiều nhưng dân vẫn quen gọi là chùa Cầu. Nhìn
chung, chùa Cầu có nét độc đáo, khoáng đạt, kiến trúc nhẹ
nhàng. Mặt cầu cong vòng lên ở giữa vừa chịu sức nặng vừa
tạo dáng xinh xắn hòa hợp với mái chùa cũng uốn cong mềm
mại, sàn chùa dựng lan can thơ mộng. Với cảnh sắc ấy, chùa
đã đi vào ca dao trữ tình:
Ai ra phố Hội chùa Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho
ai?
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai chịu
sầu!
Chùa ở Quảng Ngãi
Trên quốc lộ 1 từ Nam ra hay từ
Bắc vào, đến cầu Trà Khúc rồi xuôi theo tả ngạn sông Trà
chừng 1 km sẽ gặp núi Thiên Ấn, cao 105 mét, trên đỉnh bằng
phẳng rộng chừng 10 mẫu tây có chùa Thiên Ấn. Núi và chùa là
thắng cảnh nhất tỉnh, thuộc xã Tịnh Ấn huyện Sơn Tịnh, cách
thị xã Quảng Ngãi chừng 3 km.
Chùa Thiên Ấn do Thiền sư Pháp
Hóa (1670-1754) người Phúc Kiến khai sơn dựng vào năm 1694,
thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Năm 1716, chùa được chúa ban biển
ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự”. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận,
khi sư Pháp Hóa khởi công đào giếng chùa thì có một vị tăng
trẻ từ đâu không rõ tông tích, lên núi tình nguyện đào giúp.
Hai người đào suốt ba năm (có sách chép 3 tháng) ròng rã,
sâu được 21 mét mà không gặp nước, lại có tảng đá lớn chắn
ngang, họ vẫn không nản lòng, hì hục đục đá, bỗng có mạch
nước ở giữa khối đá phụt lên. Trong lúc mọi người mừng rỡ
thì nhà sư trẻ ấy lại lẳng lặng ra đi biệt tích, không ai
hay biết. Ngày nay giếng ấy vẫn còn và địa phương vẫn truyền
tụng câu ca dao về sự tích ấy:
Ông thầy đào giếng trên non
Đến khi có nước không còn tăm
hơi.
Chùa
Thiên Ấn
Chùa ở Bình Định
Cũng theo quốc lộ 1, từ Qui Nhơn
đi về hướng bắc chừng 35 km, đến thị trấn An Hành, tức huyện
lỵ Phù Cát, rẽ phải theo hương lộ đi về đông chừng 24 km thì
gặp chùa Ông Núi. Nếu đi đường biển, từ Qui Nhơn xuống
thuyền dọc theo đầm Thị Nại về hướng bắc, đến bến đò Phú
Hậu. Lên bờ, đi bộ một quãng ngắn gặp chợ Phương Phi tức chợ
cửa Thử (còn gọi là Cách Thử) sẽ đến chân núi, lên chùa. Từ
đây tới chùa phải qua 11 chặng đường gãy men theo sườn núi,
mỗi chặng gồm nhiều bậc đá thiên nhiên xếp sẵn. Chùa dựa
lưng vào sườn núi phía nam của ngọn núi Bà cao nhất vùng
(1122 mét) thuộc địa phận thôn Phương Phi, xã Cát Chánh,
huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Sau chùa có khe nước trong
vắt chia làm hai nhánh bọc quanh, nhánh lớn lại có nhiều
nhánh nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuyên qua sân sau, quanh bếp chùa
để rồi đổ vào hồ sen trước chùa. Gần chùa có một hang đá
rộng, sâu hút vào lòng núi và thông ngầm ra biển, làm cho
cảnh chùa tăng thêm vẻ hoang vu và huyền bí:
Cây che đá chất chập chồng
Biển giăng dưới núi chùa lồng
trong mây.
Bụi đời không gợn mảy may
Chút thân rộng tháng dài ngày
thảnh thơi.
Tương truyền thời chúa Nguyễn
Phúc Chu có vị thiền sư người Trung Hoa đến xây dựng chùa
tranh, gọi là Dũng Tuyền tự (chùa Suối). Nhà sư dùng vỏ cây
kết làm áo mặc, không ai rõ tông tích nên chỉ gọi là Ông
Núi, hằng ngày đốn củi đem xuống núi đặt bên đường rồi bỏ
đi. Dân làng đem gạo, rau cũng đặt tại đấy đổi lấy củi, ít
nhiều tùy ý, nhà tu hành không hề so đo. Sau chúa Nguyễn
Phúc Chú (1725-1738) nghe tin, cho là đáng bậc chân tu, năm
Quí Sửu (1733) truyền dựng nơi đây ngôi chùa ngói, đặt tên
là Linh Phong Thiền tự, gọi tắt là chùa Linh Phong, nhưng
dân chúng vẫn quen gọi là chùa Ông Núi.
Ông Núi đi đâu
Bỏ bầu sơn thủy
Đủ nhân đủ trí
Thêm vĩ thêm kỳ
Chùa xưa nhạt bóng tà huy
Xuôi lòng non nước nặng vì
nước non.
Chùa ở Khánh Hòa
Về chùa chiền, tỉnh Khánh Hòa có
ba đặc điểm: nhiều chùa nhất so với các tỉnh miền nam Trung
phần, chùa không lớn lắm và các vị tổ khai sơn chùa hầu hết
là người Việt.
Ở quận Vĩnh Xương thuộc tả ngạn
sông Nha Trang, trên núi có một ngôi chùa nằm bên con suối
có nhiều rau ngổ mọc hoang ven bờ nên dân chúng gọi là suối
Ngổ và chùa cũng là chùa Ngổ luôn. Chùa nổi tiếng đẹp nhờ
cảnh sắc thiên nhiên, được truyền tụng qua câu:
Ở trên suối Ngổ có chùa
Hai bên non nước, bốn mùa
khói mây.
Tại Nha Trang, trong ngõ hẻm
mang số 153/2 đường Hoàng tử Cảnh thuộc khu Phương Sài, có
ngôi Hội Phước tự. Dân chúng quen gọi là chùa Cát và câu ca
dao ghi lại cảnh biến đổi của chùa:
Ngày xưa chùa Cát mênh mông
Ngày nay chùa Cát nằm trong
xóm làng.
Nguyên chùa Hội Phước có từ đời
Lê Cảnh Hưng (1740-1786), tổ khai sơn là Thiền sư Phật Ấn
thuộc phái Lâm Tế. Đời thứ hai, Thiền sư Đại Thông dời chùa
đến địa điểm hiện nay, cách chỗ cũ chừng 300 mét, nhưng vẫn
là chùa tranh. Đời thứ ba, Thiền sư Tánh Minh cất lại thành
chùa ngói. Chùa mới, tọa lạc trên một bãi cát mênh mông nên
bổn đạo gọi là chùa Cát. Đến đầu thời Pháp thuộc, vùng này
dân cư thưa thớt, vườn chùa rộng đến vài mẫu, chung quanh có
tường phân ranh giới. Nhưng rồi thành phố mở rộng, dân cư
ngày một nhiều chen lấn khiến vườn chùa thu hẹp dần. Nay sân
trước chùa chỉ còn một lối đi hẹp, vách hông chùa sát với
nhà dân, cây me cổ thụ vườn chùa tách hẳn khỏi khuông viên
chùa, đứng gần đường Hoàng tử Cảnh.
Nha Trang còn có một con đường
mang tên đường Hai Chùa, ngày nay đường vẫn còn đó nhưng hai
chùa đã bị che khuất hoặc tan biến mất rồi. Xưa kia sát bên
chùa Cát có một ngôi cổ tự nữa cùng chịu chung cảnh biến
đổi, đó là chùa Duyên Sanh. Nguyên chùa là một thảo am dựng
vào khoảng cuối triều Tự Đức (1847-1883) do Thiền sư Viên
Giác khai lập. Năm 1891, Thành Thái thứ 3, được xây thành
một ngôi chùa khang trang và đổi tên là Hải Đức tự. Những
ngày lễ Phật, bổn đạo về chùa đông đúc. Thấy quang cảnh tấp
nập, chùa được dân địa phương gọi là chùa Hội. Đến đời Bích
Không đại sư, chùa đã hư nát lại thêm dân cư chung quanh mỗi
lúc một đông, không thích hợp với thiền môn, chùa phải dời
về núi Trại Thủy, một dãy núi nhỏ thuộc phía tây thành phố.
Chùa khởi công năm 1943, xây cất hai năm mới xong. Ở địa
điểm mới, tuy gần thành phố mà vẫn giữ được vẻ u tịch của
núi đồi, phản ánh qua ca dao:
Lòng mong nương chốn Bồ Đề
Lên chùa Hải Đức gần kề Nha
Trang.
Trên đây là một số ngôi chùa của
miền Trung và miền Bắc được nhắc nhở qua ca dao. Trong kho
tàng văn chương bình dân còn rất nhiều câu nữa nói đến chùa.
Vì khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, phần viết về chùa
chiền miền Nam xin hẹn lại ở một bài khác với những câu ca
dao hiền hòa, lênh láng tình cảm như dòng sông Đồng Nai và
Cửu Long, êm đềm cả hai mùa mưa nắng:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nghiêng chùa Châu Thới mới
sai lời nguyền.
Theo tác giả Đào Đức Chương