| 
     
    
    Cội nguồn và 
    bản chất Sơn Tinh qua tín hiệu hội đền 
    Và 
    
    
     (Trích từ 
    Văn Hóa Nghệ Thuật Online) 
    
    Lê Thị 
    Hiền 
    
    Hội lễ gắn bó với cuộc sống, nhưng hội 
    không phải là hoạt động đời thường, nên hành động hội không phải hành động 
    thông thường, mà bao gồm những hệ thống. Để hiểu đúng hội, chúng ta phải 
    “đọc” các tín hiệu trong đó. “Chúng ta cần tiếp tục mài sắc cách “đọc” 
    folklore cũng như “đọc” nghệ thuật ngôn từ và các dạng nghệ thuật khác để 
    ngày càng tiếp cận hơn với di sản văn hóa của dân tộc, dân gian nói chung, 
    của Hà Tây - Xứ Đoài nói riêng”(1). 
    Chúng tôi cố gắng đọc các nhóm tín hiệu chính trong hội đền Và để t́m hiểu 
    thêm về cội nguồn và bản chất của Sơn Tinh. 
    
    Nói đến lễ hội về Sơn Tinh ở Hà Tây trước hết phải kể 
    đến hội đền Và (đền Đông Cung). Đây là một trong bốn cung lớn thờ Tản Viên (Đông 
    Cung: Đền Và; Tây Cung: Đền Hạ, Minh Quang, Ba V́; Nam Cung: Đền Hạ, Tản 
    Lĩnh, Ba V́; Bắc Cung: Đ́nh Tây Đằng huyện Ba V́).  
    
    1. Miêu thuật hội đền Và 
    
    Đền 
    Và thuộc xă Trung Hưng, thị xă Sơn Tây, cách Hà Nội 42km, bắc giáp với sông 
    Hồng, tây giáp huyện Ba V́, đông giáp huyện Phúc Thọ, nam giáp huyện Thạch 
    Thất. Từ thị xă Sơn Tây, đi bên hữu của thành cổ, rẽ phải qua cầu Treo là 
    tới con đường dẫn đến đền Và. Đền Và nằm ở phía tây bắc xă Trung Hưng, thuộc 
    thôn Vân Gia với tổng diện tích 591ha. Vân Gia là phiên từ Và 
    ra Hán Nôm, do đó làng được gọi với hai tên là làng Và và làng Vân 
    Gia. Vân Gia theo truyền thuyết c̣n có nghĩa là rẽ mây. Đây là 
    mảnh đất thiêng mà đức Thánh Tản đă chọn để nghỉ chân.  
    
    Theo 
    ngọc phả c̣n giữ trong đền th́ Tản Viên sinh ngày 15 tháng giêng Đinh Hợi 
    tại đạo Hưng Hóa, xă Nam Sơn, nay là xă Trung Nghĩa, Thanh Thủy, Phú Thọ. 
    Tản Viên cùng hai người em con ông chú được sinh ra rất đặc biệt. Đó là kết 
    quả một lời ước nguyện của hai người cha với Thái Bạch thần tinh. Sinh được 
    một trăm ngày, con của người anh được đặt tên là Nguyễn Tuấn, con của người 
    em được đặt là Sùng Công và Hiển Công. Khi lớn lên cả ba anh em đều được đi 
    học và thông thạo kinh sử. Sau đó Nguyễn Tuấn được Thái Bạch thần tinh trao 
    cho chiếc gậy “đầu sinh đầu tử” để cứu nhân độ thế. Nguyễn Tuấn đă cứu
    được tiểu Long vương, con vua Long vương ở bể Nam và được 
    tặng sách ước. Nhờ sách ước, Sơn Tinh lấy được Ngọc Hoa (là con vua 
    Hùng thứ 18). Thủy Tinh đến sau, không lấy được công chúa bèn dâng nước đánh 
    Sơn Tinh nhưng không thắng nổi đành rút quân về. Sơn Tinh đại thắng mở tiệc 
    ăn mừng và lập lâu đài kỷ niệm chiến thắng Thủy Tinh. Lâu đài đó chính là 
    đền Và ngày nay. Về sau Sơn Tinh thường đi các nơi để cứu giúp dân lành, nơi 
    nào ngài qua cũng đều được dân lập đền thờ. 
    
    Cũng theo ngọc phả, đền đă có cách đây 1250 năm, tức 
    là khoảng thế kỷ thứ XIII. Bia dựng ở nhà tiền tế của đền làm vào năm Tự Đức 
    36 (1884) khẳng định điều này. Trước đó, ở đây đă có sự thờ cúng nhưng mới 
    chỉ là miếu nhỏ, sau đó (thời Phùng Hưng - Ngô Quyền) mới xây thành đền. Đền 
    được xây dựng trên một quả đồi giữa rừng lim nguyên sinh, h́nh con rùa thờ 
    (con rùa cắp nén nhang), xung quanh đồi là bốn cánh đồng tạo nên địa thế 
    tuyệt vời. Khách thăm đền Và, đứng cách cổng đền khoảng 100m đă thấy cột mốc 
    “hạ mă” chứng tỏ rằng, từ xa xưa, đây đă là nơi thờ tự tôn nghiêm. Thời xưa, 
    vua quan qua đây đều phải xuống ngựa. 
    
    Lễ hội đền Và được tổ chức hai lần trong một năm: Hội 
    xuân vào rằm tháng giêng và hội thu vào rằm tháng 9. 
    
    - Hội rằm tháng giêng: Cứ ba năm ở đền Và lại 
    tổ chức hội lớn một lần. Việc chuẩn bị cho hội rằm tháng giêng được bắt đầu 
    từ lễ hội mùa thu (rằm tháng 9) của năm trước. Sau khi tổ chức hội đánh cá 
    thờ hàng năm vào ngày 15-9, ban tế cùng các ông thủ từ của các đ́nh, đền ở 
    các thôn cùng nhau họp bàn cho việc chuẩn bị lễ hội chính, cử chủ tế, phân 
    công người khiêng kiệu… 
    
    Chủ tế (trưởng tṛ) là người được dân bầu theo những 
    tiêu chuẩn: là người có vai vế trong làng, có đạo đức, có gia đ́nh đề huề, 
    hạnh phúc, con cái ngoan ngoăn, có cháu nội ngoại. Ban tế - đồng thời là ban 
    tổ chức lễ hội - cũng do dân bầu, gồm 12 người đạt tiêu chuẩn gần như chủ 
    tế. Đặc biệt, cả chủ tế và ban tế đều phải là những người trong nhà không có 
    tang chế. Đội khiêng kiệu chọn những thanh niên tuổi 17. 
    
    Xưa kia đền Và có 16 mẫu ruộng, chi phí cho lễ hội 
    được lấy từ hoa lợi ruộng đất. Ngày tiệc thường sửa lễ gồm: lợn 1 con, gạo 
    xôi 6 đấu, rượu 1 lít, cau 3 quả, 1 bó vàng, 1 thẻ hương đen. Hiện nay đền 
    không c̣n ruộng đất, các chi phí phải dựa vào tiền cúng tiến của khách thập 
    phương và tiền quyên góp. 
    
    Quy định hiện nay là, làng Vân Gia là làng sở tại phải 
    đóng vai tṛ chính, chuẩn bị các kiệu văn, tàn, quạt, các dụng cụ phục vụ 
    cho lễ hội, sửa lễ. Các kiệu lồng vũ, kiệu hoa …của làng nào th́ làng ấy tự 
    lo. 
    
    Cứ ba năm một lần, vào các năm Tư - Ngọ - Măo - Dậu, 
    dân làng thuộc hai tỉnh Vĩnh Phúc và Hà Tây lại tổ chức lễ hội đền Và với 
    quy mô lớn, đặc biệt là lễ rước bài vị của Đức Thánh Tản qua sông Hồng đến 
    đ́nh Dội (ở thôn Di B́nh, Vĩnh Ninh, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) để làm lễ tắm 
    ngai. 
    
    Theo ngọc phả đền Và th́ đền Và và đền Ngự Dội có quan 
    hệ mật thiết, v́ thế hàng năm vào ngày 15 tháng giêng và 15-9 âm lịch, hai 
    bên lại cùng nhau tổ chức lễ hội tưởng niệm Tam vị đức Thánh Tản. Các cụ cho 
    biết, xưa kia lễ mộc dục được tổ chức trọng thể hàng năm vào dịp 15 tháng 
    giêng. Sau này hai thôn mới thống nhất xin phép đức Thánh cho phép cứ 3 năm 
    lại mở hội lớn một lần. Như vậy cứ trong một giáp (12 năm) th́ có 4 năm Di 
    B́nh không rước nước sang đền Và mà chuẩn bị cho lễ đón ngai và tắm ngai ở 
    đền Dội, 8 năm c̣n lại thôn Di B́nh rước nước về đền Và để tắm ngai. Cùng 
    với rước nước c̣n có lễ vật là gạo, thịt lợn sống và những thuyền giấy ghép 
    lại, nhằm nhắc lại sự tích Thánh Tản Viên cùng quân lính đă đi nhờ thuyền 
    qua sông và tắm gội trên đất La Phiên, khi đó dân ở đây đă đem lễ vật ra 
    dâng người nhưng v́ vội nên thịt đă không kịp nấu chín. 
    
    Hội xuân đền Và được tổ chức vào rằm tháng giêng. 
    Chiều 13-1 làm lễ tiến thảo. Nghi lễ này được tiến hành đối với những người 
    trực tiếp tham gia tổ chức lễ hội, kể cả những người được chọn vào đội 
    khiêng kiệu, đội rước. Những thành viên này đều phải tắm rửa sạch sẽ, trút 
    bỏ hết bụi bậm th́ mới được tham gia vào những công việc được phân công. 
    Chiều 14 khi ban nghi lễ làm lễ phong triều (phong các đồ thờ, thay quần áo 
    mới) và các nghi thức tế lễ trong đền, ở bên ngoài các hoạt động vui chơi 
    cũng diễn ra rất náo nhiệt. Ngay tại sân đền (phía sau nhà tả mạc) hội đánh 
    cờ người được tổ chức. 
    
    Trong ngày này, lễ tế phụng nghinh là lễ chính mở đầu 
    cho lễ hội đền Và. Vào lúc 2 giờ sáng, các thôn đă bắt đầu rước lễ vào đền. 
    Đầu tiên là thôn Vân Gia, sau đó các thôn Nghĩa Phủ, Thanh Tŕ, Mai Đạm 
    Trai, ái Mỗ, Viên Sơn, Phú Nhi, rồi thôn Di B́nh (Vĩnh Phúc) lần lượt rước 
    lễ vào đền nhưng không được vào bên trong mà chỉ đặt ở bên ngoài, trước kiệu 
    văn. Những lễ này sẽ được rước sang bên đền Dội để tế lễ. Đến 3 giờ sáng, lễ 
    phụng nghinh (đón) các ngài ra kiệu được tiến hành. Bốn cụ già che miệng 
    bằng những dải vải màu đỏ cẩn trọng khiêng long ngai Tam vị đức Thánh ra 
    kiệu. Bài vị Tản Viên được đặt ở giữa, bên tả là Cao Sơn, bên hữu là Quư 
    Minh, phía trước là kiệu lồng vũ, kiệu văn, rồi kiệu lễ của các thôn. 
    
    Trước khi xuất phát, các kiệu lễ được sắp đặt ngay 
    ngắn, hương khói nghi ngút, hai bên kiệu là hai hàng đô ăn mặc chỉnh tề cùng 
    hai hàng cầm bát bửu lục bộ. Từ trong sân đền, các kiệu lễ dẫn đầu rồi đến 
    kiệu văn, kiệu lồng vũ, kiệu đặt long ngai bài vị đức Thánh Tản. Ngoài cổng, 
    đội múa lân, múa rồng cùng đoàn người đứng chờ dài tới 1km. Lễ rước xuất 
    phát từ đền Và ra cảng Sơn Tây sang đền Dội (Vĩnh Phúc). Đoàn rước bắt đầu 
    bằng đội múa lân, múa rồng tiếp đến là đội cờ thần, số lượng cờ không quy 
    định mà tùy thuộc vào số cờ của các làng góp lại. Nối tiếp là kiệu lễ của 
    các thôn, đội chiêng trống, đội tế, đội dâng hương, đội cầm bát bửu (6 cái 
    bằng gỗ có chạm h́nh rồng phượng), đội cầm lục bộ. Tiếp theo là kiệu chính 
    gồm 32 người thay phiên nhau khiêng, kiệu văn do 8 người (mặc áo vàng viền 
    đỏ) khiêng. Đi trước kiệu là một ông thủ hiệu (cầm trịch đám rước), tay cầm 
    trống đánh để điều khiển. Tiếp đến là kiệu lồng vũ do 8 người khiêng, những 
    người này mặc quần trắng, áo xếp thắt lưng bằng vải điều đỏ, nối sau là kiệu 
    quả có tán che do hai người khiêng. 
    
    Đoàn rước đi đến đâu cũng được đón chào rất trịnh 
    trọng. Những nơi có đ́nh chùa nằm trên tuyến đường của đoàn rước đều dựng 
    đàn nghênh tiếp. Trong thời gian chờ đợi đám rước Thánh tới, các hoạt động 
    văn nghệ diễn ra rất sôi nổi.  
    
    Đám rước đi rất chậm, xuất phát từ đền Và lúc 4 giờ 
    sáng mà tới gần 6 giờ mới vào tới thị xă (Đoạn đường chỉ có hơn 1km). Khi 
    kiệu Thánh đến nơi, tiếng reo ḥ nổi lên, mọi người đều cúi rạp xuống và 
    chắp tay vái lạy. Kiệu Thánh đến sát đàn đón tiếp th́ bất ngờ được nâng lên 
    rất cao rồi xoay tṛn rất nhiều ṿng. Các cụ nói đấy là kiệu 
    bay - linh thiêng lắm. Dọc đường đi, hai bên đường các gia đ́nh tự 
    bày lễ vật (hương hoa, oản, quả, xôi gà...) nghênh tiếp kiệu Thánh. Số người 
    gia nhập đoàn rước ngày một đông, hướng ra phía bờ sông. 
    
    Đoàn rước xuống tới gần mép nước, các cụ làm lễ độ hà 
    (xin phép được qua sông). Lúc này đă hơn 10 giờ trưa, tất cả xuống thuyền 
    theo thứ tự. Thuyền thứ nhất là cờ thần và quốc kỳ, thuyền thứ hai là kiệu 
    lễ của 7 thôn thuộc Hà Tây, thuyền thứ ba là bát bửu và chiêng trống, thuyền 
    thứ tư là kiệu văn, thuyền thứ năm là kiệu lồng vũ, thuyền thứ sáu là các 
    kiệu ngai, rồi đến thuyền của đội dâng hương, đội tế, của người dự hội. Mặc 
    dù đă xuống thuyền nhưng các kiệu vẫn ở trên vai những người khiêng kiệu. 
    Đến 11 giờ trưa các thuyền bắt đầu qua sông. Trước khi cập bến, tất cả các 
    thuyền đều lượn một ṿng trên một khúc sông dài tạo nên một cảnh tượng hùng 
    tráng gợi lại không khí xa xưa khi Thánh Tản cho quân qua sông sang Di B́nh.
     
    
    Khi cập bến, đoàn rước lên bờ hướng vào đền Dội. Tại 
    đây, dân thôn Di B́nh chuẩn bị đón tiếp rất trọng thể, các đồ tế lễ đă sẵn 
    sàng. Một con lợn chừng 30 cân đă được làm sạch sẽ và đặt trước ban thờ Tam 
    vị đức Thánh Tản. Con lợn này được nuôi và chăm sóc rất cẩn thận. Người ta 
    chỉ cho ăn cháo và hàng ngày tắm rửa cho nó rất sạch sẽ. Người được nuôi lợn 
    cũng phải lựa chọn cẩn thận. ở ban thờ chính ngoài ngai thờ Tam vị đức Thánh 
    Tản, phía bên dưới c̣n thờ cả cô cắt cỏ và cạnh đó có một đôi sọt, đ̣n gánh 
    và chiếc liềm - tất cả đều nhằm nhắc lại sự tích đức thánh.  
    
    Sau khi ba cỗ ngai của Tam vị đức Thánh được đặt lên 
    ban thờ chính trong hậu cung th́ cuộc tế bắt đầu. Đầu tiên là tế “yên vị”, 
    rồi đến tế “cung đốn” và tế “mộc dục” (tắm rửa). Nước dùng vào lễ này được 
    dân thôn Di B́nh lấy ở giữa sông Hồng lúc sáng sớm rước về. Nghi thức lấy 
    nước diễn ra rất trang nghiêm thành kính. Người ta đặt chóe có nắp đậy và 
    phủ một tấm vải đỏ, lên kiệu, xung quanh quấn những miếng vải to, sao cho 
    chóe nước không bị nghiêng ngả khi khiêng đi. Kiệu đựng chóe nước được 
    khiêng xuống thuyền, khi ra đến giữa ḍng sông, các con thuyền theo hiệu 
    lệnh quây quần lại thành ṿng tṛn quanh chiếc thuyền mang chóe nước. Ông 
    chủ tế cùng một số người có trách nhiệm khấn vái xin được thực hiện nghi lễ. 
    Sau một hồi lâu th́ cuộc múc nước bắt đầu. Người được giao múc nước là một 
    cụ già đức độ, khỏe mạnh, mặc lễ phục. Cụ cầm chiếc gậy, đầu gậy là một 
    chiếc ṿng tṛn làm bằng thanh tre bọc dây ngũ sắc ném xuống mặt nước cốt 
    cho bụi bậm không lẫn vào, sau đó cụ dùng gáo múc nước đổ vào chóe sứ. Các 
    cụ nói nước ở giữa ṿng tṛn đó luôn trong hơn bên ngoài, khi được lọc qua 
    vải đỏ trên miệng chóe th́ càng trở nên thanh sạch, tinh khiết, linh thiêng. 
    Theo một số nhà nghiên cứu th́ ṿng tṛn đó tượng trưng cho mặt trời, mang 
    dương khí, ném xuống ḍng sông là âm - âm dương đối đăi lại được lọc qua tấm 
    vải đỏ mang mầu của sinh khí, của sự sống nên nguồn nước đó trở thành nước 
    thiêng. Nước rước về được dùng cho tế mộc dục. Khi tế mộc dục kết thúc các 
    cụ bô lăo thực hiện nghi lễ tế khải hoàn. Những năm hội lệ th́ lễ rước nước 
    được tiến hành theo hành tŕnh từ thôn Di B́nh (Vĩnh Phúc) sang đền Và (Sơn 
    Tây) - nước đó dùng để bao sái các thần vị được thờ trong đền. Năm đại hội 
    th́ nước không rước sang đền Và nữa mà rước về đền Ngự Dội để làm lễ mộc 
    dục. 
    
    Cuộc tế lễ ở đền Dội kéo dài chừng hơn một giờ đồng 
    hồ. Trong khoảng thời gian này, khách dự hội có thể tận hưởng không khí linh 
    thiêng của lễ hội khi chứng kiến các cuộc tế lễ, cũng có thể tham gia các 
    hoạt động vui chơi được tổ chức xung quanh khu vực di tích.  
    
    Buổi chiều, khi nào thấy lá cờ hội to nhất gặp gió bắc 
    nổi lên, phất đuôi cờ về phía nam (hướng về bên kia sông) th́ sẽ làm lễ tế 
    triệu hồi, đưa kiệu, đồ rước, đồ tế tự trở về đền Và. Các cụ nói cứ mỗi kỳ 
    hội lớn đều thấy hiện tượng như vậy, đó là Thánh hiện. Đây là hiện tượng 
    “phù hợp với diễn biến thời tiết vùng ven sông Hồng vào tháng giêng, độ cuối 
    ngày thường hay có hiện tượng đổi gió”(2). Đoàn rước giữ nguyên đội h́nh và 
    quay trở về đền Và, phụng nghinh các ngài vào đền. Khoảng 5 giờ chiều các cụ 
    làm lễ yên vị. 
    
    Ngày 16, các hoạt đồng lễ hội tiếp tục được tổ chức. 
    Các thôn lại sửa lễ, rước lễ của thôn ḿnh lên đền - ban tế thực hiện các 
    nghi thức tế lễ trong đền, 11 giờ mới kết thúc lễ tế. Ngày 16, 17 nhiều tṛ 
    chơi được tổ chức như cờ tướng, chọi gà, kéo co, nấu cơm thi, đấu vật… Vào 
    lúc 4 giờ chiều ngày 17 các cụ làm lễ tạ, lễ tạ xong, thế nào cũng có mưa 
    rào. 
    
    - Hội rằm tháng 9: Hội khai mở vào ngày 14-9 âm 
    lịch. 
    
    Trước đây, vào ngày hội, dân làng các thôn Vân Gia, 
    Nghĩa Phủ Thanh Tŕ, Mai Trai, Đạm Trai, tập trung ra đoạn sông Tích từ 
    Thượng Cầu Vang (giáp xă Đường Lâm) đến Hạ Mả Mang (Giáp thôn ái Mỗ) để cùng 
    đánh bắt cá tập thể ở đoạn sông trên. Tục đánh cá thờ ở đền Và được giải 
    thích bằng việc Thánh Tản đă giúp ông già kéo vó, kéo một lần được cả trăm 
    con. Ngài thấy một con trê chửa sắp đến ngày đẻ bèn thả nó xuống nước. Thánh 
    Tản c̣n dạy ông cách bắt cá và chế biến cá thành các món ăn ngay tại nơi kéo 
    cá nên đă không kịp về nhà lấy muối. V́ vậy tất cả các món cá được chế biến 
    đều phải ăn nhạt. Ăn xong, thấy miệng nhạt và tanh, Thánh Tản đă dạy cụ hái 
    cau tươi và lá trầu, lấy vỏ cây vỏ quạch nhai gọi là ăn trầu. Cụ thấy người 
    bừng nóng, miệng thơm và trở nên sảng khoái. Sau đó, cụ dạy dân trong vùng 
    làm theo. Kể từ đó dân có tục ăn trầu và đánh cá thờ - Thờ cá để ghi nhớ 
    công ơn của Ngài. 
    
    Trước đây tṛ đánh cá tập thể của năm làng diễn ra rất 
    tưng bừng náo nhiệt. Cỗ thờ cần có 99 con cá to, v́ thế nếu ai bắt được cá 
    to th́ sẽ góp vào để làm cỗ và cũng tâm niệm rằng, năm ấy Thánh sẽ phù hộ 
    cho ḿnh gặp nhiều may mắn.  
    
     Cá để làm cỗ được chế biến làm nhiều món: Món cá 
    luộc (Để vẩy, mổ moi, bỏ ruột ra cho gừng vào bụng đem luộc chín); 
    Món cá nướng (Để vẩy, mổ moi, bỏ ruột, cho gừng vào bụng bọc lá nghệ và 
    nướng. Nền gạch dùng vào việc nướng cá được làm sạch, họ đốt củi cho gạch 
    được sạch hơn rồi mới bọc lá nghệ vào cá để nướng. Chỉ nam giới mới được làm 
    việc này); Món gỏi cá (Đánh sạch vẩy, bóc lấy thịt nạc cá, thái 
    miếng, trộn với hoa chuối rồi cho vừng giă nhỏ và vắt chanh vào); Món 
    nham (Cá mổ, móc bỏ ruột, cho mật và gừng vào, đem đun sôi làm nước 
    chấm). Cá được chế biến xong th́ bày làm 10 tựa (mười mâm). Mỗi mâm có đầy 
    đủ các món luộc, gỏi, nướng và đĩa nham chấm. Chín mâm cỗ được bày lên trước 
    ba ngai, c̣n một mâm để cúng ông thần bếp giữ lửa. Cúng xong, mọi người làm 
    lễ thụ lộc. 
    
    Tục lệ xưa ở đền Và quy định, các món ăn đều không 
    được dùng muối, và khi ăn xong mọi người uống nước ăn trầu, nhưng không được 
    dùng vôi. Tất cả đều nhằm nhắc lại sự tích xưa khi Thánh Tản dạy ông già kéo 
    vó làm các món ăn từ cá và cách ăn trầu. Riêng tục lệ không dùng vôi có liên 
    quan đến sự tích ở hội Dô khi các cô gái (v́ không biết là Thánh) đă lấy cứt 
    c̣ giả làm vôi mời ngài ăn. Từ đó trầu không được dùng vôi. 
    
    Hiện nay, hội thu ở đền Và khác trước rất nhiều. Người 
    ta không tổ chức đánh cá nữa v́ sông Tích không có nhiều cá như xưa. Từ sáng 
    14, các thôn đă đi mua cá và chiều 14 bắt đầu chuẩn bị cho tiệc cá. Xă Trung 
    Hưng có 5 thôn: Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Tŕ, Mai Trai, Đạm Trai đều làm cỗ 
    cúng. Mỗi thôn chỉ chuẩn bị 9 con chia làm ba mâm. Ngoài ra đồ cúng c̣n có 
    cả thịt gà, thịt lợn, hoa quả… 
    
    Cỗ cá được chuẩn bị suốt buổi chiều 14, có thôn làm cỗ 
    vào ban đêm. Các món cá cũng được chế biến khác trước và giản tiện đi rất 
    nhiều. Cỗ cúng, món cá, chỉ có cá nướng và cá rán chứ không làm được năm món 
    như trước đây. Cá nướng không làm cầu kỳ như trước. Người ta vẫn dùng lá 
    nghệ bọc cá và không cho nuối nhưng thay v́ nướng bằng than, hiện nay lại 
    cho vào ḷ để nướng, hấp. Trước đây chỉ có nam giới chưa lấy vợ mới được làm 
    cỗ cúng nhưng hiện nay, tất cả mọi người đều được chuẩn bị cỗ. Ngày 15, lễ 
    rước cỗ được tiến hành. 
    
    Các thôn Vân Gia, Phù Xa và Di B́nh rước cỗ, riêng Di 
    B́nh th́ rước cả nước lên đền Và. Lễ tế ở đền Và chỉ bắt đầu khi đă có nước 
    từ Di B́nh rước sang. Ngoài ra, đồ lễ c̣n có 9 con cá chép sống được thả 
    trong bể bằng thủy tinh. Các thôn khác (Mai Trai, Đạm Trai, ái Mỗ, Nghĩa 
    Phủ, Thanh Tŕ) làm cỗ cá, nhưng chỉ rước lễ c̣n cá th́ thờ bái vọng ở đ́nh 
    của thôn. Lễ vật để rước có một quả lễ gồm: 1 thủ lợn, 3 khuôn xôi (3 tảng 
    xôi), 1 tảng cơm. Ngoài ra, c̣n có mâm ngũ quả, vàng, hương, hoa… Lễ rước cỗ 
    lên đền Và cũng khác xưa. Nếu thôn nào làm xong cỗ, đến trước th́ được rước 
    vào trước. Khoảng 8 giờ, kiệu lễ của các thôn đă tập hợp đầy đủ. Thường 
    thường, rước cỗ vào trước vẫn là thôn Vân Gia. Khi kiệu rước tới nơi th́ 
    bỗng nhiên quay tít ba ṿng, mọi người nhất loạt vái lạy rồi tiếng reo ḥ 
    nổi lên. Các cụ nói đó là múa mừng Thánh. Kiệu cỗ và kiệu lễ của các thôn 
    lần lượt được rước vào đền. Mỗi khi có một kiệu tiến vào th́ cảnh trên lại 
    diễn ra. Khi lễ rước kết thúc, mọi người tạm nghỉ ngơi tại những địa điểm 
    quy định đă đóng biển ghi rơ từ hôm trước (vị trí ở phía sau nhà tả mạc). 
    
    Lễ tế bắt đầu vào khoảng 9 giờ 30 phút. Chủ tế là 
    người thuộc thôn Vân Gia đứng ở phía trên, một bồi tế người thôn Phù Xa đứng 
    ở giữa, một bồi tế người thôn Di B́nh đứng sau. Cũng có khi số người trong 
    ban tế nhiều hơn (mỗi thôn 2 người). Lễ tế kéo dài gần 2 giờ. Tế xong, các 
    thôn có thể đem lễ về để dân thôn ḿnh cùng hưởng lộc Thánh.  
    
    Lễ tế kết thúc, mọi người vào đền thắp hương, thăm 
    viếng… Buổi chiều, các hoạt động vui chơi giải trí diễn ra sôi nổi, đặc biệt 
    nhất vẫn là thi đánh cờ người. Lễ hội kết thúc nhưng dư âm của nó th́ vẫn 
    c̣n lan tỏa và lắng đọng trong ḷng mỗi người dân và du khách dự hội. 
    
    2. Đọc các nhóm tín hiệu chính. 
    
    2.1. Hội đền Và cùng với vệ tinh của nó là hội đền Dội 
    kéo dài trong nhiều ngày chứa đựng rất nhiều tín hiệu. Theo chúng tôi, tập 
    trung vào 4 nhóm tín hiệu chính. 
    
    - Nhóm tín hiệu về nước và mưa gió 
    
    Việc lấy nước giữa sông được tiến hành rất trang trọng 
    và thiêng liêng, bao gồm cả việc một đoàn thuyền vỗ nước bơi trên sông, là 
    tín hiệu cầu mưa. Nước đó được đem về tắm rửa tượng và đồ thờ tự, gọi là tế 
    mộc dục (nghĩa là tắm gội). Nghi lễ này cùng một ư nghĩa với hành động té 
    nước lên người hoặc té nước lên tượng rất phổ biến ở Đông Nam á là “té nước 
    cầu mưa”, gốc ở ma thuật bắt chước. 
    
    Đoàn thuyền chờ gió Bắc để quay về Đông Cung và gió 
    hiển nhiên đến. Đây là sự cầu gió. Gió thường đi với mưa. Nhóm tín hiệu trên 
    có cội nguồn sâu xa từ cuộc sống và nguyện vọng của cư dân nông nghiệp ruộng 
    nước vùng khí hậu gió mùa. 
    
    Trên cơ sở cội nguồn đó, truyền thuyết làm cho sinh 
    động thêm, đồng thời khắc họa sâu thần tích của Sơn Tinh. Truyện kể cô gái 
    cắt cỏ múc nước bằng sọt để Sơn Tinh tắm. T́nh tiết tắm này được đưa vào 
    nghi lễ thành tế mộc dục. Có dị bản nói Sơn Tinh làm ra mưa. Truyền thuyết 
    đă tôn vinh Thánh Tản là vị thần linh thiêng, đáp ứng được nguyện vọng của 
    nhân dân là lấy nước, làm mưa, làm gió một cách thần kỳ. 
    
    - Nhóm tín hiệu về cá 
    
    Nhóm này bao gồm hành động đánh bắt cá thờ, việc chế 
    biến cá, dâng cúng các món cá rất phong phú và đặc sắc (luộc với gừng, nướng 
    với gừng nghệ, gỏi cá, nham cá). Tất cả là tín hiệu của cuộc sống gắn với 
    sông nước của cư dân lúa nước. Công thức bữa ăn của họ là cơm - cá chứ không 
    phải cơm (chính xác là ngũ cốc) - thịt như cư dân chăn nuôi. Chi tiết chế 
    biến cá không có muối, phải chăng là dấu hiệu của một thời xa xưa, lúc mà 
    muối chưa được sử dụng phổ biến. 
    
    Truyền thuyết kể Thánh Tản dạy cho ông lăo làm vó, 
    đánh bắt cá và chế biến cá nhằm tôn vinh vai tṛ của Thánh trong việc khai 
    hóa cho dân. Cá dâng lên Ngài không được bỏ muối. Đó là một điều kỵ hèm, mà 
    đă là kỵ hèm th́ không được sửa đổi, phải trung thành với truyền thống. 
    Nhưng đây là một điều khó hiểu đối với người về sau, khi muối đă được dùng 
    phổ biến. Truyền thuyết lư giải, vá kín chỗ hở bằng chi tiết ‘không kịp về 
    nhà lấy muối”. 
    
    Một chi tiết đáng quan tâm là Thánh đă nêu gương về 
    ḷng nhân từ không giết hại cá chửa. Điều này chắc là gây ấn tượng răn dạy 
    sâu sắc, qua nhiều đời, đối với người dân địa phương, gắn liền với biểu 
    tượng con cá trê đá ở trước Đông Cung. Ngày nay chi tiết này có tác dụng 
    giáo dục việc bảo vệ môi trường sinh thái.  
    
    - Tín hiệu đồ thờ, 
    sọt, đ̣n gánh, liềm 
    
    Đây là dấu hiệu của sự xuất hiện công cụ lao động thô 
    sơ. Tuy là thô sơ nhưng với con người thời cổ, nó cũng góp phần đáng kể cho 
    việc giải phóng sức lao động, v́ vậy các công cụ này được thờ phụng. 
    
    Một lần nữa, nhân dân thổi thêm sức sống cho nghi lễ 
    bằng truyện kể cô gái cắt cỏ được Thánh dạy cho cách làm liềm, và một lần 
    nữa Sơn Tinh được tôn vinh là vị thần khai hóa, dạy cho dân chế tạo công cụ 
    lao động. 
    
    - Nhóm tín hiệu trầu 
    cau 
    
    Ai cũng biết tục nhai trầu là phong tục đặc biệt và 
    lâu đời của người Việt và nhiều cư dân Đông Nam á, v́ vậy trầu cau được 
    lưu lại trong nghi lễ là điều dễ hiểu. Kỵ hèm không têm trầu với vôi, phải 
    chăng phản ánh thời kỳ xa xưa, lúc nhai trầu chưa dùng vôi. Cũng như hiện 
    tượng trên, truyền thuyết đă làm việc “hợp lư hóa” bằng một t́nh tiết xem ra 
    không có lư mấy là “lấy cứt c̣ giả làm vôi mời ngài ăn”. 
    
    2.2. Qua việc giải mă các nhóm tín hiệu trên, chúng ta 
    có thể rút ra việc thờ phụng Sơn Tinh ở hội đền Và có cội nguồn từ cuộc sống 
    của người Việt kể từ thời xa xưa, với đặc điểm là cư dân nông nghiệp, vùng 
    gió mùa. Họ có nguyện vọng tha thiết ngh́n đời là mưa thuận gió ḥa. 
     
    
    Bên cạnh lúa gạo, đời sống của nhân dân ta gắn liền 
    với cá, (đánh bắt cá, chế biến cá, thức cúng bằng cá). Vào thời xa xưa đó, 
    việc sáng tạo nên các công cụ lao động thô sơ như quang gánh, sọt, liềm, vó, 
    là sự kiện ảnh hưởng nhiều đến lao động và đời sống do vậy có ấn tượng sâu 
    sắc và được tôn thờ. 
    
    Việc phụng thờ Sơn Tinh ở đền Và và đền Dội có cội 
    nguồn từ đời sống tinh thần và lao động sản xuất của nhân dân ta thời xưa, 
    trong đó c̣n lưu những dấu vết của thời tối cổ. 
    
    Trên cơ sở lịch sử xă hội người Việt thời cổ, như đă 
    nêu trên, ngự trị trên cao và bao quát tất cả là Thánh Tản, vị thần thượng 
    đẳng, hiển linh, có sức mạnh hô phong hoán vũ, chuyên làm việc phù dân hộ 
    quốc, đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của mọi người dân; là vị thần khai 
    hóa dạy dân mọi điều, làm ruộng, đắp bờ, đánh bắt cá, chế biến cá, chế tạo 
    công cụ lao động,... 
    
    Trên đây là việc khảo sát Sơn Tinh trong một phạm vi 
    và địa bàn hạn hẹp. Ngoài ra có thể t́m hiểu ở phạm vi và địa bàn rộng hơn, 
    ví dụ: 
    
    - Các tín ngưỡng nguyên thủy liên quan đến Sơn Tinh: 
    thờ cây, thờ đá, thờ núi... 
    
    - Truyền thuyết và tục thờ thành hoàng Sơn Tinh ở khắp 
    miền Bắc nước ta. 
    
    - Tín ngưỡng thờ Thánh Tản ở vùng Mường.v.v... 
    
    Nếu mở rộng tầm nghiên cứu như trên, chúng ta sẽ có 
    nhiều hiểu biết sâu rộng hơn, đầy đủ hơn về cội nguồn và bản chất của Sơn 
    Tinh. 
    
    L.T.H 
    
    _______________ 
    
    1. Trần Quốc Vượng, Tổng kết hội thảo về Sơn Tinh 
    và vùng văn hóa cổ Ba V́, Trong sách, Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba 
    V́, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây, 1997, tr.163. 
    
    2. Nguyễn Hữu Thức, Lễ hội đền Và, trong sách,
    Lễ hội cổ truyền Hà Tây, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây 1999, tr.104. 
    
    Những người cung cấp thông tin: 
    
    - Nguyễn 
    Văn Cận: Trưởng Ban văn hóa xă Trung Hưng, thị xă Sơn Tây. 
    
    - Phùng Văn Khản: Ban quản lư di tích đền Và. 
    
    - Vũ Thiên Lư: Chi hội phó, chi hội người cao tuổi, 
    chủ tế hội đền Dội, thôn Di B́nh. 
    
    - Lă Văn Nông: Chi hội trưởng, chi hội người cao tuổi, 
    xă Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. 
    
    - Trần Văn Nho: Trưởng Ban tổ chức lễ hội thôn Phù Xa, 
    xă Trung Hưng. 
    
    - Nguyễn Văn Thân: xóm Long Tượng, thôn Vân Gia, xă 
    Trung Hưng.  |