Cội nguồn và
bản chất Sơn Tinh qua tín hiệu hội đền
Và
(Trích từ
Văn Hóa Nghệ Thuật Online)
Lê Thị
Hiền
Hội lễ gắn bó với cuộc sống, nhưng hội
không phải là hoạt động đời thường, nên hành động hội không phải hành động
thông thường, mà bao gồm những hệ thống. Để hiểu đúng hội, chúng ta phải
“đọc” các tín hiệu trong đó. “Chúng ta cần tiếp tục mài sắc cách “đọc”
folklore cũng như “đọc” nghệ thuật ngôn từ và các dạng nghệ thuật khác để
ngày càng tiếp cận hơn với di sản văn hóa của dân tộc, dân gian nói chung,
của Hà Tây - Xứ Đoài nói riêng”(1).
Chúng tôi cố gắng đọc các nhóm tín hiệu chính trong hội đền Và để t́m hiểu
thêm về cội nguồn và bản chất của Sơn Tinh.
Nói đến lễ hội về Sơn Tinh ở Hà Tây trước hết phải kể
đến hội đền Và (đền Đông Cung). Đây là một trong bốn cung lớn thờ Tản Viên (Đông
Cung: Đền Và; Tây Cung: Đền Hạ, Minh Quang, Ba V́; Nam Cung: Đền Hạ, Tản
Lĩnh, Ba V́; Bắc Cung: Đ́nh Tây Đằng huyện Ba V́).
1. Miêu thuật hội đền Và
Đền
Và thuộc xă Trung Hưng, thị xă Sơn Tây, cách Hà Nội 42km, bắc giáp với sông
Hồng, tây giáp huyện Ba V́, đông giáp huyện Phúc Thọ, nam giáp huyện Thạch
Thất. Từ thị xă Sơn Tây, đi bên hữu của thành cổ, rẽ phải qua cầu Treo là
tới con đường dẫn đến đền Và. Đền Và nằm ở phía tây bắc xă Trung Hưng, thuộc
thôn Vân Gia với tổng diện tích 591ha. Vân Gia là phiên từ Và
ra Hán Nôm, do đó làng được gọi với hai tên là làng Và và làng Vân
Gia. Vân Gia theo truyền thuyết c̣n có nghĩa là rẽ mây. Đây là
mảnh đất thiêng mà đức Thánh Tản đă chọn để nghỉ chân.
Theo
ngọc phả c̣n giữ trong đền th́ Tản Viên sinh ngày 15 tháng giêng Đinh Hợi
tại đạo Hưng Hóa, xă Nam Sơn, nay là xă Trung Nghĩa, Thanh Thủy, Phú Thọ.
Tản Viên cùng hai người em con ông chú được sinh ra rất đặc biệt. Đó là kết
quả một lời ước nguyện của hai người cha với Thái Bạch thần tinh. Sinh được
một trăm ngày, con của người anh được đặt tên là Nguyễn Tuấn, con của người
em được đặt là Sùng Công và Hiển Công. Khi lớn lên cả ba anh em đều được đi
học và thông thạo kinh sử. Sau đó Nguyễn Tuấn được Thái Bạch thần tinh trao
cho chiếc gậy “đầu sinh đầu tử” để cứu nhân độ thế. Nguyễn Tuấn đă cứu
được tiểu Long vương, con vua Long vương ở bể Nam và được
tặng sách ước. Nhờ sách ước, Sơn Tinh lấy được Ngọc Hoa (là con vua
Hùng thứ 18). Thủy Tinh đến sau, không lấy được công chúa bèn dâng nước đánh
Sơn Tinh nhưng không thắng nổi đành rút quân về. Sơn Tinh đại thắng mở tiệc
ăn mừng và lập lâu đài kỷ niệm chiến thắng Thủy Tinh. Lâu đài đó chính là
đền Và ngày nay. Về sau Sơn Tinh thường đi các nơi để cứu giúp dân lành, nơi
nào ngài qua cũng đều được dân lập đền thờ.
Cũng theo ngọc phả, đền đă có cách đây 1250 năm, tức
là khoảng thế kỷ thứ XIII. Bia dựng ở nhà tiền tế của đền làm vào năm Tự Đức
36 (1884) khẳng định điều này. Trước đó, ở đây đă có sự thờ cúng nhưng mới
chỉ là miếu nhỏ, sau đó (thời Phùng Hưng - Ngô Quyền) mới xây thành đền. Đền
được xây dựng trên một quả đồi giữa rừng lim nguyên sinh, h́nh con rùa thờ
(con rùa cắp nén nhang), xung quanh đồi là bốn cánh đồng tạo nên địa thế
tuyệt vời. Khách thăm đền Và, đứng cách cổng đền khoảng 100m đă thấy cột mốc
“hạ mă” chứng tỏ rằng, từ xa xưa, đây đă là nơi thờ tự tôn nghiêm. Thời xưa,
vua quan qua đây đều phải xuống ngựa.
Lễ hội đền Và được tổ chức hai lần trong một năm: Hội
xuân vào rằm tháng giêng và hội thu vào rằm tháng 9.
- Hội rằm tháng giêng: Cứ ba năm ở đền Và lại
tổ chức hội lớn một lần. Việc chuẩn bị cho hội rằm tháng giêng được bắt đầu
từ lễ hội mùa thu (rằm tháng 9) của năm trước. Sau khi tổ chức hội đánh cá
thờ hàng năm vào ngày 15-9, ban tế cùng các ông thủ từ của các đ́nh, đền ở
các thôn cùng nhau họp bàn cho việc chuẩn bị lễ hội chính, cử chủ tế, phân
công người khiêng kiệu…
Chủ tế (trưởng tṛ) là người được dân bầu theo những
tiêu chuẩn: là người có vai vế trong làng, có đạo đức, có gia đ́nh đề huề,
hạnh phúc, con cái ngoan ngoăn, có cháu nội ngoại. Ban tế - đồng thời là ban
tổ chức lễ hội - cũng do dân bầu, gồm 12 người đạt tiêu chuẩn gần như chủ
tế. Đặc biệt, cả chủ tế và ban tế đều phải là những người trong nhà không có
tang chế. Đội khiêng kiệu chọn những thanh niên tuổi 17.
Xưa kia đền Và có 16 mẫu ruộng, chi phí cho lễ hội
được lấy từ hoa lợi ruộng đất. Ngày tiệc thường sửa lễ gồm: lợn 1 con, gạo
xôi 6 đấu, rượu 1 lít, cau 3 quả, 1 bó vàng, 1 thẻ hương đen. Hiện nay đền
không c̣n ruộng đất, các chi phí phải dựa vào tiền cúng tiến của khách thập
phương và tiền quyên góp.
Quy định hiện nay là, làng Vân Gia là làng sở tại phải
đóng vai tṛ chính, chuẩn bị các kiệu văn, tàn, quạt, các dụng cụ phục vụ
cho lễ hội, sửa lễ. Các kiệu lồng vũ, kiệu hoa …của làng nào th́ làng ấy tự
lo.
Cứ ba năm một lần, vào các năm Tư - Ngọ - Măo - Dậu,
dân làng thuộc hai tỉnh Vĩnh Phúc và Hà Tây lại tổ chức lễ hội đền Và với
quy mô lớn, đặc biệt là lễ rước bài vị của Đức Thánh Tản qua sông Hồng đến
đ́nh Dội (ở thôn Di B́nh, Vĩnh Ninh, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) để làm lễ tắm
ngai.
Theo ngọc phả đền Và th́ đền Và và đền Ngự Dội có quan
hệ mật thiết, v́ thế hàng năm vào ngày 15 tháng giêng và 15-9 âm lịch, hai
bên lại cùng nhau tổ chức lễ hội tưởng niệm Tam vị đức Thánh Tản. Các cụ cho
biết, xưa kia lễ mộc dục được tổ chức trọng thể hàng năm vào dịp 15 tháng
giêng. Sau này hai thôn mới thống nhất xin phép đức Thánh cho phép cứ 3 năm
lại mở hội lớn một lần. Như vậy cứ trong một giáp (12 năm) th́ có 4 năm Di
B́nh không rước nước sang đền Và mà chuẩn bị cho lễ đón ngai và tắm ngai ở
đền Dội, 8 năm c̣n lại thôn Di B́nh rước nước về đền Và để tắm ngai. Cùng
với rước nước c̣n có lễ vật là gạo, thịt lợn sống và những thuyền giấy ghép
lại, nhằm nhắc lại sự tích Thánh Tản Viên cùng quân lính đă đi nhờ thuyền
qua sông và tắm gội trên đất La Phiên, khi đó dân ở đây đă đem lễ vật ra
dâng người nhưng v́ vội nên thịt đă không kịp nấu chín.
Hội xuân đền Và được tổ chức vào rằm tháng giêng.
Chiều 13-1 làm lễ tiến thảo. Nghi lễ này được tiến hành đối với những người
trực tiếp tham gia tổ chức lễ hội, kể cả những người được chọn vào đội
khiêng kiệu, đội rước. Những thành viên này đều phải tắm rửa sạch sẽ, trút
bỏ hết bụi bậm th́ mới được tham gia vào những công việc được phân công.
Chiều 14 khi ban nghi lễ làm lễ phong triều (phong các đồ thờ, thay quần áo
mới) và các nghi thức tế lễ trong đền, ở bên ngoài các hoạt động vui chơi
cũng diễn ra rất náo nhiệt. Ngay tại sân đền (phía sau nhà tả mạc) hội đánh
cờ người được tổ chức.
Trong ngày này, lễ tế phụng nghinh là lễ chính mở đầu
cho lễ hội đền Và. Vào lúc 2 giờ sáng, các thôn đă bắt đầu rước lễ vào đền.
Đầu tiên là thôn Vân Gia, sau đó các thôn Nghĩa Phủ, Thanh Tŕ, Mai Đạm
Trai, ái Mỗ, Viên Sơn, Phú Nhi, rồi thôn Di B́nh (Vĩnh Phúc) lần lượt rước
lễ vào đền nhưng không được vào bên trong mà chỉ đặt ở bên ngoài, trước kiệu
văn. Những lễ này sẽ được rước sang bên đền Dội để tế lễ. Đến 3 giờ sáng, lễ
phụng nghinh (đón) các ngài ra kiệu được tiến hành. Bốn cụ già che miệng
bằng những dải vải màu đỏ cẩn trọng khiêng long ngai Tam vị đức Thánh ra
kiệu. Bài vị Tản Viên được đặt ở giữa, bên tả là Cao Sơn, bên hữu là Quư
Minh, phía trước là kiệu lồng vũ, kiệu văn, rồi kiệu lễ của các thôn.
Trước khi xuất phát, các kiệu lễ được sắp đặt ngay
ngắn, hương khói nghi ngút, hai bên kiệu là hai hàng đô ăn mặc chỉnh tề cùng
hai hàng cầm bát bửu lục bộ. Từ trong sân đền, các kiệu lễ dẫn đầu rồi đến
kiệu văn, kiệu lồng vũ, kiệu đặt long ngai bài vị đức Thánh Tản. Ngoài cổng,
đội múa lân, múa rồng cùng đoàn người đứng chờ dài tới 1km. Lễ rước xuất
phát từ đền Và ra cảng Sơn Tây sang đền Dội (Vĩnh Phúc). Đoàn rước bắt đầu
bằng đội múa lân, múa rồng tiếp đến là đội cờ thần, số lượng cờ không quy
định mà tùy thuộc vào số cờ của các làng góp lại. Nối tiếp là kiệu lễ của
các thôn, đội chiêng trống, đội tế, đội dâng hương, đội cầm bát bửu (6 cái
bằng gỗ có chạm h́nh rồng phượng), đội cầm lục bộ. Tiếp theo là kiệu chính
gồm 32 người thay phiên nhau khiêng, kiệu văn do 8 người (mặc áo vàng viền
đỏ) khiêng. Đi trước kiệu là một ông thủ hiệu (cầm trịch đám rước), tay cầm
trống đánh để điều khiển. Tiếp đến là kiệu lồng vũ do 8 người khiêng, những
người này mặc quần trắng, áo xếp thắt lưng bằng vải điều đỏ, nối sau là kiệu
quả có tán che do hai người khiêng.
Đoàn rước đi đến đâu cũng được đón chào rất trịnh
trọng. Những nơi có đ́nh chùa nằm trên tuyến đường của đoàn rước đều dựng
đàn nghênh tiếp. Trong thời gian chờ đợi đám rước Thánh tới, các hoạt động
văn nghệ diễn ra rất sôi nổi.
Đám rước đi rất chậm, xuất phát từ đền Và lúc 4 giờ
sáng mà tới gần 6 giờ mới vào tới thị xă (Đoạn đường chỉ có hơn 1km). Khi
kiệu Thánh đến nơi, tiếng reo ḥ nổi lên, mọi người đều cúi rạp xuống và
chắp tay vái lạy. Kiệu Thánh đến sát đàn đón tiếp th́ bất ngờ được nâng lên
rất cao rồi xoay tṛn rất nhiều ṿng. Các cụ nói đấy là kiệu
bay - linh thiêng lắm. Dọc đường đi, hai bên đường các gia đ́nh tự
bày lễ vật (hương hoa, oản, quả, xôi gà...) nghênh tiếp kiệu Thánh. Số người
gia nhập đoàn rước ngày một đông, hướng ra phía bờ sông.
Đoàn rước xuống tới gần mép nước, các cụ làm lễ độ hà
(xin phép được qua sông). Lúc này đă hơn 10 giờ trưa, tất cả xuống thuyền
theo thứ tự. Thuyền thứ nhất là cờ thần và quốc kỳ, thuyền thứ hai là kiệu
lễ của 7 thôn thuộc Hà Tây, thuyền thứ ba là bát bửu và chiêng trống, thuyền
thứ tư là kiệu văn, thuyền thứ năm là kiệu lồng vũ, thuyền thứ sáu là các
kiệu ngai, rồi đến thuyền của đội dâng hương, đội tế, của người dự hội. Mặc
dù đă xuống thuyền nhưng các kiệu vẫn ở trên vai những người khiêng kiệu.
Đến 11 giờ trưa các thuyền bắt đầu qua sông. Trước khi cập bến, tất cả các
thuyền đều lượn một ṿng trên một khúc sông dài tạo nên một cảnh tượng hùng
tráng gợi lại không khí xa xưa khi Thánh Tản cho quân qua sông sang Di B́nh.
Khi cập bến, đoàn rước lên bờ hướng vào đền Dội. Tại
đây, dân thôn Di B́nh chuẩn bị đón tiếp rất trọng thể, các đồ tế lễ đă sẵn
sàng. Một con lợn chừng 30 cân đă được làm sạch sẽ và đặt trước ban thờ Tam
vị đức Thánh Tản. Con lợn này được nuôi và chăm sóc rất cẩn thận. Người ta
chỉ cho ăn cháo và hàng ngày tắm rửa cho nó rất sạch sẽ. Người được nuôi lợn
cũng phải lựa chọn cẩn thận. ở ban thờ chính ngoài ngai thờ Tam vị đức Thánh
Tản, phía bên dưới c̣n thờ cả cô cắt cỏ và cạnh đó có một đôi sọt, đ̣n gánh
và chiếc liềm - tất cả đều nhằm nhắc lại sự tích đức thánh.
Sau khi ba cỗ ngai của Tam vị đức Thánh được đặt lên
ban thờ chính trong hậu cung th́ cuộc tế bắt đầu. Đầu tiên là tế “yên vị”,
rồi đến tế “cung đốn” và tế “mộc dục” (tắm rửa). Nước dùng vào lễ này được
dân thôn Di B́nh lấy ở giữa sông Hồng lúc sáng sớm rước về. Nghi thức lấy
nước diễn ra rất trang nghiêm thành kính. Người ta đặt chóe có nắp đậy và
phủ một tấm vải đỏ, lên kiệu, xung quanh quấn những miếng vải to, sao cho
chóe nước không bị nghiêng ngả khi khiêng đi. Kiệu đựng chóe nước được
khiêng xuống thuyền, khi ra đến giữa ḍng sông, các con thuyền theo hiệu
lệnh quây quần lại thành ṿng tṛn quanh chiếc thuyền mang chóe nước. Ông
chủ tế cùng một số người có trách nhiệm khấn vái xin được thực hiện nghi lễ.
Sau một hồi lâu th́ cuộc múc nước bắt đầu. Người được giao múc nước là một
cụ già đức độ, khỏe mạnh, mặc lễ phục. Cụ cầm chiếc gậy, đầu gậy là một
chiếc ṿng tṛn làm bằng thanh tre bọc dây ngũ sắc ném xuống mặt nước cốt
cho bụi bậm không lẫn vào, sau đó cụ dùng gáo múc nước đổ vào chóe sứ. Các
cụ nói nước ở giữa ṿng tṛn đó luôn trong hơn bên ngoài, khi được lọc qua
vải đỏ trên miệng chóe th́ càng trở nên thanh sạch, tinh khiết, linh thiêng.
Theo một số nhà nghiên cứu th́ ṿng tṛn đó tượng trưng cho mặt trời, mang
dương khí, ném xuống ḍng sông là âm - âm dương đối đăi lại được lọc qua tấm
vải đỏ mang mầu của sinh khí, của sự sống nên nguồn nước đó trở thành nước
thiêng. Nước rước về được dùng cho tế mộc dục. Khi tế mộc dục kết thúc các
cụ bô lăo thực hiện nghi lễ tế khải hoàn. Những năm hội lệ th́ lễ rước nước
được tiến hành theo hành tŕnh từ thôn Di B́nh (Vĩnh Phúc) sang đền Và (Sơn
Tây) - nước đó dùng để bao sái các thần vị được thờ trong đền. Năm đại hội
th́ nước không rước sang đền Và nữa mà rước về đền Ngự Dội để làm lễ mộc
dục.
Cuộc tế lễ ở đền Dội kéo dài chừng hơn một giờ đồng
hồ. Trong khoảng thời gian này, khách dự hội có thể tận hưởng không khí linh
thiêng của lễ hội khi chứng kiến các cuộc tế lễ, cũng có thể tham gia các
hoạt động vui chơi được tổ chức xung quanh khu vực di tích.
Buổi chiều, khi nào thấy lá cờ hội to nhất gặp gió bắc
nổi lên, phất đuôi cờ về phía nam (hướng về bên kia sông) th́ sẽ làm lễ tế
triệu hồi, đưa kiệu, đồ rước, đồ tế tự trở về đền Và. Các cụ nói cứ mỗi kỳ
hội lớn đều thấy hiện tượng như vậy, đó là Thánh hiện. Đây là hiện tượng
“phù hợp với diễn biến thời tiết vùng ven sông Hồng vào tháng giêng, độ cuối
ngày thường hay có hiện tượng đổi gió”(2). Đoàn rước giữ nguyên đội h́nh và
quay trở về đền Và, phụng nghinh các ngài vào đền. Khoảng 5 giờ chiều các cụ
làm lễ yên vị.
Ngày 16, các hoạt đồng lễ hội tiếp tục được tổ chức.
Các thôn lại sửa lễ, rước lễ của thôn ḿnh lên đền - ban tế thực hiện các
nghi thức tế lễ trong đền, 11 giờ mới kết thúc lễ tế. Ngày 16, 17 nhiều tṛ
chơi được tổ chức như cờ tướng, chọi gà, kéo co, nấu cơm thi, đấu vật… Vào
lúc 4 giờ chiều ngày 17 các cụ làm lễ tạ, lễ tạ xong, thế nào cũng có mưa
rào.
- Hội rằm tháng 9: Hội khai mở vào ngày 14-9 âm
lịch.
Trước đây, vào ngày hội, dân làng các thôn Vân Gia,
Nghĩa Phủ Thanh Tŕ, Mai Trai, Đạm Trai, tập trung ra đoạn sông Tích từ
Thượng Cầu Vang (giáp xă Đường Lâm) đến Hạ Mả Mang (Giáp thôn ái Mỗ) để cùng
đánh bắt cá tập thể ở đoạn sông trên. Tục đánh cá thờ ở đền Và được giải
thích bằng việc Thánh Tản đă giúp ông già kéo vó, kéo một lần được cả trăm
con. Ngài thấy một con trê chửa sắp đến ngày đẻ bèn thả nó xuống nước. Thánh
Tản c̣n dạy ông cách bắt cá và chế biến cá thành các món ăn ngay tại nơi kéo
cá nên đă không kịp về nhà lấy muối. V́ vậy tất cả các món cá được chế biến
đều phải ăn nhạt. Ăn xong, thấy miệng nhạt và tanh, Thánh Tản đă dạy cụ hái
cau tươi và lá trầu, lấy vỏ cây vỏ quạch nhai gọi là ăn trầu. Cụ thấy người
bừng nóng, miệng thơm và trở nên sảng khoái. Sau đó, cụ dạy dân trong vùng
làm theo. Kể từ đó dân có tục ăn trầu và đánh cá thờ - Thờ cá để ghi nhớ
công ơn của Ngài.
Trước đây tṛ đánh cá tập thể của năm làng diễn ra rất
tưng bừng náo nhiệt. Cỗ thờ cần có 99 con cá to, v́ thế nếu ai bắt được cá
to th́ sẽ góp vào để làm cỗ và cũng tâm niệm rằng, năm ấy Thánh sẽ phù hộ
cho ḿnh gặp nhiều may mắn.
Cá để làm cỗ được chế biến làm nhiều món: Món cá
luộc (Để vẩy, mổ moi, bỏ ruột ra cho gừng vào bụng đem luộc chín);
Món cá nướng (Để vẩy, mổ moi, bỏ ruột, cho gừng vào bụng bọc lá nghệ và
nướng. Nền gạch dùng vào việc nướng cá được làm sạch, họ đốt củi cho gạch
được sạch hơn rồi mới bọc lá nghệ vào cá để nướng. Chỉ nam giới mới được làm
việc này); Món gỏi cá (Đánh sạch vẩy, bóc lấy thịt nạc cá, thái
miếng, trộn với hoa chuối rồi cho vừng giă nhỏ và vắt chanh vào); Món
nham (Cá mổ, móc bỏ ruột, cho mật và gừng vào, đem đun sôi làm nước
chấm). Cá được chế biến xong th́ bày làm 10 tựa (mười mâm). Mỗi mâm có đầy
đủ các món luộc, gỏi, nướng và đĩa nham chấm. Chín mâm cỗ được bày lên trước
ba ngai, c̣n một mâm để cúng ông thần bếp giữ lửa. Cúng xong, mọi người làm
lễ thụ lộc.
Tục lệ xưa ở đền Và quy định, các món ăn đều không
được dùng muối, và khi ăn xong mọi người uống nước ăn trầu, nhưng không được
dùng vôi. Tất cả đều nhằm nhắc lại sự tích xưa khi Thánh Tản dạy ông già kéo
vó làm các món ăn từ cá và cách ăn trầu. Riêng tục lệ không dùng vôi có liên
quan đến sự tích ở hội Dô khi các cô gái (v́ không biết là Thánh) đă lấy cứt
c̣ giả làm vôi mời ngài ăn. Từ đó trầu không được dùng vôi.
Hiện nay, hội thu ở đền Và khác trước rất nhiều. Người
ta không tổ chức đánh cá nữa v́ sông Tích không có nhiều cá như xưa. Từ sáng
14, các thôn đă đi mua cá và chiều 14 bắt đầu chuẩn bị cho tiệc cá. Xă Trung
Hưng có 5 thôn: Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Tŕ, Mai Trai, Đạm Trai đều làm cỗ
cúng. Mỗi thôn chỉ chuẩn bị 9 con chia làm ba mâm. Ngoài ra đồ cúng c̣n có
cả thịt gà, thịt lợn, hoa quả…
Cỗ cá được chuẩn bị suốt buổi chiều 14, có thôn làm cỗ
vào ban đêm. Các món cá cũng được chế biến khác trước và giản tiện đi rất
nhiều. Cỗ cúng, món cá, chỉ có cá nướng và cá rán chứ không làm được năm món
như trước đây. Cá nướng không làm cầu kỳ như trước. Người ta vẫn dùng lá
nghệ bọc cá và không cho nuối nhưng thay v́ nướng bằng than, hiện nay lại
cho vào ḷ để nướng, hấp. Trước đây chỉ có nam giới chưa lấy vợ mới được làm
cỗ cúng nhưng hiện nay, tất cả mọi người đều được chuẩn bị cỗ. Ngày 15, lễ
rước cỗ được tiến hành.
Các thôn Vân Gia, Phù Xa và Di B́nh rước cỗ, riêng Di
B́nh th́ rước cả nước lên đền Và. Lễ tế ở đền Và chỉ bắt đầu khi đă có nước
từ Di B́nh rước sang. Ngoài ra, đồ lễ c̣n có 9 con cá chép sống được thả
trong bể bằng thủy tinh. Các thôn khác (Mai Trai, Đạm Trai, ái Mỗ, Nghĩa
Phủ, Thanh Tŕ) làm cỗ cá, nhưng chỉ rước lễ c̣n cá th́ thờ bái vọng ở đ́nh
của thôn. Lễ vật để rước có một quả lễ gồm: 1 thủ lợn, 3 khuôn xôi (3 tảng
xôi), 1 tảng cơm. Ngoài ra, c̣n có mâm ngũ quả, vàng, hương, hoa… Lễ rước cỗ
lên đền Và cũng khác xưa. Nếu thôn nào làm xong cỗ, đến trước th́ được rước
vào trước. Khoảng 8 giờ, kiệu lễ của các thôn đă tập hợp đầy đủ. Thường
thường, rước cỗ vào trước vẫn là thôn Vân Gia. Khi kiệu rước tới nơi th́
bỗng nhiên quay tít ba ṿng, mọi người nhất loạt vái lạy rồi tiếng reo ḥ
nổi lên. Các cụ nói đó là múa mừng Thánh. Kiệu cỗ và kiệu lễ của các thôn
lần lượt được rước vào đền. Mỗi khi có một kiệu tiến vào th́ cảnh trên lại
diễn ra. Khi lễ rước kết thúc, mọi người tạm nghỉ ngơi tại những địa điểm
quy định đă đóng biển ghi rơ từ hôm trước (vị trí ở phía sau nhà tả mạc).
Lễ tế bắt đầu vào khoảng 9 giờ 30 phút. Chủ tế là
người thuộc thôn Vân Gia đứng ở phía trên, một bồi tế người thôn Phù Xa đứng
ở giữa, một bồi tế người thôn Di B́nh đứng sau. Cũng có khi số người trong
ban tế nhiều hơn (mỗi thôn 2 người). Lễ tế kéo dài gần 2 giờ. Tế xong, các
thôn có thể đem lễ về để dân thôn ḿnh cùng hưởng lộc Thánh.
Lễ tế kết thúc, mọi người vào đền thắp hương, thăm
viếng… Buổi chiều, các hoạt động vui chơi giải trí diễn ra sôi nổi, đặc biệt
nhất vẫn là thi đánh cờ người. Lễ hội kết thúc nhưng dư âm của nó th́ vẫn
c̣n lan tỏa và lắng đọng trong ḷng mỗi người dân và du khách dự hội.
2. Đọc các nhóm tín hiệu chính.
2.1. Hội đền Và cùng với vệ tinh của nó là hội đền Dội
kéo dài trong nhiều ngày chứa đựng rất nhiều tín hiệu. Theo chúng tôi, tập
trung vào 4 nhóm tín hiệu chính.
- Nhóm tín hiệu về nước và mưa gió
Việc lấy nước giữa sông được tiến hành rất trang trọng
và thiêng liêng, bao gồm cả việc một đoàn thuyền vỗ nước bơi trên sông, là
tín hiệu cầu mưa. Nước đó được đem về tắm rửa tượng và đồ thờ tự, gọi là tế
mộc dục (nghĩa là tắm gội). Nghi lễ này cùng một ư nghĩa với hành động té
nước lên người hoặc té nước lên tượng rất phổ biến ở Đông Nam á là “té nước
cầu mưa”, gốc ở ma thuật bắt chước.
Đoàn thuyền chờ gió Bắc để quay về Đông Cung và gió
hiển nhiên đến. Đây là sự cầu gió. Gió thường đi với mưa. Nhóm tín hiệu trên
có cội nguồn sâu xa từ cuộc sống và nguyện vọng của cư dân nông nghiệp ruộng
nước vùng khí hậu gió mùa.
Trên cơ sở cội nguồn đó, truyền thuyết làm cho sinh
động thêm, đồng thời khắc họa sâu thần tích của Sơn Tinh. Truyện kể cô gái
cắt cỏ múc nước bằng sọt để Sơn Tinh tắm. T́nh tiết tắm này được đưa vào
nghi lễ thành tế mộc dục. Có dị bản nói Sơn Tinh làm ra mưa. Truyền thuyết
đă tôn vinh Thánh Tản là vị thần linh thiêng, đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân là lấy nước, làm mưa, làm gió một cách thần kỳ.
- Nhóm tín hiệu về cá
Nhóm này bao gồm hành động đánh bắt cá thờ, việc chế
biến cá, dâng cúng các món cá rất phong phú và đặc sắc (luộc với gừng, nướng
với gừng nghệ, gỏi cá, nham cá). Tất cả là tín hiệu của cuộc sống gắn với
sông nước của cư dân lúa nước. Công thức bữa ăn của họ là cơm - cá chứ không
phải cơm (chính xác là ngũ cốc) - thịt như cư dân chăn nuôi. Chi tiết chế
biến cá không có muối, phải chăng là dấu hiệu của một thời xa xưa, lúc mà
muối chưa được sử dụng phổ biến.
Truyền thuyết kể Thánh Tản dạy cho ông lăo làm vó,
đánh bắt cá và chế biến cá nhằm tôn vinh vai tṛ của Thánh trong việc khai
hóa cho dân. Cá dâng lên Ngài không được bỏ muối. Đó là một điều kỵ hèm, mà
đă là kỵ hèm th́ không được sửa đổi, phải trung thành với truyền thống.
Nhưng đây là một điều khó hiểu đối với người về sau, khi muối đă được dùng
phổ biến. Truyền thuyết lư giải, vá kín chỗ hở bằng chi tiết ‘không kịp về
nhà lấy muối”.
Một chi tiết đáng quan tâm là Thánh đă nêu gương về
ḷng nhân từ không giết hại cá chửa. Điều này chắc là gây ấn tượng răn dạy
sâu sắc, qua nhiều đời, đối với người dân địa phương, gắn liền với biểu
tượng con cá trê đá ở trước Đông Cung. Ngày nay chi tiết này có tác dụng
giáo dục việc bảo vệ môi trường sinh thái.
- Tín hiệu đồ thờ,
sọt, đ̣n gánh, liềm
Đây là dấu hiệu của sự xuất hiện công cụ lao động thô
sơ. Tuy là thô sơ nhưng với con người thời cổ, nó cũng góp phần đáng kể cho
việc giải phóng sức lao động, v́ vậy các công cụ này được thờ phụng.
Một lần nữa, nhân dân thổi thêm sức sống cho nghi lễ
bằng truyện kể cô gái cắt cỏ được Thánh dạy cho cách làm liềm, và một lần
nữa Sơn Tinh được tôn vinh là vị thần khai hóa, dạy cho dân chế tạo công cụ
lao động.
- Nhóm tín hiệu trầu
cau
Ai cũng biết tục nhai trầu là phong tục đặc biệt và
lâu đời của người Việt và nhiều cư dân Đông Nam á, v́ vậy trầu cau được
lưu lại trong nghi lễ là điều dễ hiểu. Kỵ hèm không têm trầu với vôi, phải
chăng phản ánh thời kỳ xa xưa, lúc nhai trầu chưa dùng vôi. Cũng như hiện
tượng trên, truyền thuyết đă làm việc “hợp lư hóa” bằng một t́nh tiết xem ra
không có lư mấy là “lấy cứt c̣ giả làm vôi mời ngài ăn”.
2.2. Qua việc giải mă các nhóm tín hiệu trên, chúng ta
có thể rút ra việc thờ phụng Sơn Tinh ở hội đền Và có cội nguồn từ cuộc sống
của người Việt kể từ thời xa xưa, với đặc điểm là cư dân nông nghiệp, vùng
gió mùa. Họ có nguyện vọng tha thiết ngh́n đời là mưa thuận gió ḥa.
Bên cạnh lúa gạo, đời sống của nhân dân ta gắn liền
với cá, (đánh bắt cá, chế biến cá, thức cúng bằng cá). Vào thời xa xưa đó,
việc sáng tạo nên các công cụ lao động thô sơ như quang gánh, sọt, liềm, vó,
là sự kiện ảnh hưởng nhiều đến lao động và đời sống do vậy có ấn tượng sâu
sắc và được tôn thờ.
Việc phụng thờ Sơn Tinh ở đền Và và đền Dội có cội
nguồn từ đời sống tinh thần và lao động sản xuất của nhân dân ta thời xưa,
trong đó c̣n lưu những dấu vết của thời tối cổ.
Trên cơ sở lịch sử xă hội người Việt thời cổ, như đă
nêu trên, ngự trị trên cao và bao quát tất cả là Thánh Tản, vị thần thượng
đẳng, hiển linh, có sức mạnh hô phong hoán vũ, chuyên làm việc phù dân hộ
quốc, đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của mọi người dân; là vị thần khai
hóa dạy dân mọi điều, làm ruộng, đắp bờ, đánh bắt cá, chế biến cá, chế tạo
công cụ lao động,...
Trên đây là việc khảo sát Sơn Tinh trong một phạm vi
và địa bàn hạn hẹp. Ngoài ra có thể t́m hiểu ở phạm vi và địa bàn rộng hơn,
ví dụ:
- Các tín ngưỡng nguyên thủy liên quan đến Sơn Tinh:
thờ cây, thờ đá, thờ núi...
- Truyền thuyết và tục thờ thành hoàng Sơn Tinh ở khắp
miền Bắc nước ta.
- Tín ngưỡng thờ Thánh Tản ở vùng Mường.v.v...
Nếu mở rộng tầm nghiên cứu như trên, chúng ta sẽ có
nhiều hiểu biết sâu rộng hơn, đầy đủ hơn về cội nguồn và bản chất của Sơn
Tinh.
L.T.H
_______________
1. Trần Quốc Vượng, Tổng kết hội thảo về Sơn Tinh
và vùng văn hóa cổ Ba V́, Trong sách, Sơn Tinh và vùng văn hóa cổ Ba
V́, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây, 1997, tr.163.
2. Nguyễn Hữu Thức, Lễ hội đền Và, trong sách,
Lễ hội cổ truyền Hà Tây, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây 1999, tr.104.
Những người cung cấp thông tin:
- Nguyễn
Văn Cận: Trưởng Ban văn hóa xă Trung Hưng, thị xă Sơn Tây.
- Phùng Văn Khản: Ban quản lư di tích đền Và.
- Vũ Thiên Lư: Chi hội phó, chi hội người cao tuổi,
chủ tế hội đền Dội, thôn Di B́nh.
- Lă Văn Nông: Chi hội trưởng, chi hội người cao tuổi,
xă Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
- Trần Văn Nho: Trưởng Ban tổ chức lễ hội thôn Phù Xa,
xă Trung Hưng.
- Nguyễn Văn Thân: xóm Long Tượng, thôn Vân Gia, xă
Trung Hưng. |