Cuộc chiến với ma rừng
		 
		
		Người Ba Na 
		ở xă Đăk Pne, H.Kon Rẫy (Kon Tum) có tục khi sinh con ra chẳng may người 
		mẹ bị chết th́ làng phải chôn đứa con xấu số theo mẹ, nếu không ma rừng sẽ 
		bắt tội, cả làng vạ lây. 
		
		Quá đau 
		ḷng trước hủ tục này, thầy giáo A Trũi (ở làng Kon Go 2, xă Đăk Pne) đă 
		chạy đôn chạy đáo thuyết phục, cứu các hài nhi vô tội thoát khỏi cái 
		chết oan. Ngày một ngày hai, việc làm của ông được cả làng, cả xă ngộ ra: 
		chẳng có con ma rừng nào bắt tội cả, đó chỉ là sản phẩm của hủ tục và mê 
		tín.            
		
		Ma 
		rừng biết… mắc cỡ
		
		Dạo đó, vào 
		khoảng giữa năm 2000, anh ruột A Tương là A Kiên có vợ là Y Hyêt ở làng 
		Kon Túc, xă Đăk Pne sinh con. Sau hai ngày hai đêm đẻ măi không ra, Y 
		Hyêt ngày càng yếu đi. Có người bảo A Kiên: “Sao mày không đến thầy A 
		Trũi”. Giữa đêm ấy, gió thổi trên sông Đăk Bla lạnh lùng. Ḷng A Kiên 
		tan nát, chạy bộ gần 5 km t́m đến thầy A Trũi đập cửa: “Ớ thầy A Trũi, 
		mày đến cứu vợ con tao với”. Nghe tiếng gọi, thầy A Trũi bật dậy và cùng 
		theo chân A Kiên về nhà. Thầy A Trũi lắc đầu: “Thằng A Kiên kêu ḿnh 
		chậm quá, giờ chỉ cứu được con thôi”. Rạng sáng hôm ấy, khi đứa bé gái 
		ra đời th́ khoảng 30 phút sau, mẹ nó là Y Hyêt cũng về với tổ tiên.
		
		 
		 
		
			
				
					| 
					 
					  
					
					
					Thầy A Trũi (b́a trái) và A Bốc, đứa trẻ được cứu năm 1995 - 
					Ảnh: Phạm Anh  | 
				
			
		 
		
		 
		
		Cứu sống 
		được đứa bé, A Trũi về bàn với vợ (bà Y Bliên): “Nhất định làng Kon Túc 
		sẽ chôn con bé. Ḿnh nhận nó về nuôi nhé!”. Y Bliên gật đầu, dù bà có 
		đến 6 đứa con, cơm ăn c̣n chưa đủ. Thế là A Trũi vắt chân lên cổ chạy 
		xuống làng Kon Túc lần nữa. Lúc này già làng ở Kon Túc đang tính chuyện 
		chôn bé gái ấy theo mẹ Y Hyêt. Theo người Ba Na, cho con bé theo mẹ 
		xuống dưới đó mới có sữa để bú. Ở thế giới của ma, đứa trẻ sẽ được mẹ 
		chăm sóc tốt hơn. Nếu bây giờ không chôn theo mẹ, sau này nó cũng sẽ đi 
		theo mẹ và làng ít nhất hai lần làm lễ cúng ma, rất tốn kém. Chi bằng 
		chỉ một lần cúng ma thôi. Mặt khác, ai giữ đứa trẻ lại sẽ có tội với ma 
		rừng và sẽ bị ma rừng phạt.
		
			
				
					| 
					 
					  
					
					
					Bằng khen Ban Tuyên giáo T.Ư tặng A Trũi vào tháng 8.2013  | 
				
			
		 
		
		Biết vậy 
		nên A Trũi bước vào nhà A Kiên bảo: “Chôn mẹ thôi, không chôn con. Tui 
		nhận bé gái này. Ma rừng có bắt tui. Tui chịu”. Thấy có người nhận, 
		người làng thở phào: ai nhận nuôi con bé th́ ma rừng bắt người đó. Dân 
		làng không bị ma rừng bắt nữa rồi. Thế là từ đó, nhà thầy A Trũi có thêm 
		một đứa con tên là Y Lan. Bây giờ bé Y Lan đang học lớp 8 Trường dân tộc 
		nội trú ở thị trấn Đăkrve, H.Kon Rẫy.
		
		Chỉ một 
		thanh niên ngồi ở một góc nhà, A Tương bảo: “Nó là A Bốc, con rể tui 
		cũng được A Trũi cứu”. Thầy A Trũi tiếp lời: “Thằng A Bốc c̣n có người 
		anh em sinh đôi nữa. Năm đó là 1995, người nhà kêu tới tui th́ mẹ nó 
		cũng vừa tắt hơi”. Vậy là cứ theo phong tục, làng Kon Gộp chôn hai đứa 
		trẻ sơ sinh theo mẹ. Thầy A Trũi ra tay thuyết phục và đưa A Bốc về nuôi, 
		c̣n bé trai đồng sinh th́ nuôi mấy tháng cứng cáp, A Trũi gửi cho cô nhi 
		viện Kon Tum. Thời gian sau, cha của A Bốc đưa con ḿnh về nuôi, đến giờ 
		đúng 18 tuổi, làm rể nhà A Tương. A Tương nhẩm tính rồi kết luận: “Thầy 
		A Trũi cứu đến 6 đứa nhỏ, bây giờ một đứa mất đi, c̣n 5 đứa. Con ma rừng 
		nó biết mắc cỡ với thầy giáo rồi. Người làng ḿnh không c̣n sợ nó bắt vạ 
		nữa”. Nói xong, A Tương ngửa cổ uống cạn ly rượu, sảng khoái. 
		
		Vừa 
		dạy vừa đỡ đẻ
		
		Kể từ ngày 
		xung phong về vùng sâu, vùng xa dạy, tính đến nay, thầy A Trũi đă công 
		tác được 37 năm và nơi bén duyên với A Trũi chính là đất lành Đăk Pne. 
		Công việc hằng ngày của A Trũi là đi dạy học, chứ không phải… đỡ đẻ. Vậy 
		mà song hành trong thời gian dạy học, thầy A Trũi c̣n “kiêm nhiệm” thêm 
		việc đỡ đẻ không công. “Hồi đó, đi dạy ở làng nào là ngủ lại làng đó để 
		vận động con em đi học. Tui thấy bà con đẻ tại nhà cứ chết hoài. Sau mỗi 
		cái chết là chôn cả con lẫn mẹ tức tưởi. Tui mới lân la đi học nghề đỡ 
		đẻ của y tá Dung ở bệnh viện huyện. Từ đó, tui đỡ đẻ luôn cho bà 
		con...”, thầy A Trũi bộc bạch.
		
		Ca đỡ đẻ 
		đầu tiên của A Trũi là năm 1989 ở làng Kon Go 1, xă Đăk Pne. Hồi đó, 
		thầy A Trũi vào làng vận động học sinh đi học. Tại đây, nghe Y Thiang ở 
		đây đẻ ba ngày chưa ra đứa con. Có “nghề” đă học, A Trũi liền ra tay đỡ 
		đẻ ca này. Tiếp cận sản phụ, A Trũi thấy đẻ ngược: cái mông bé trai ra 
		trước. Xử lư xong phần này th́ cái tay và mắc cái cằm khó ra. A Trũi nhẹ 
		nhàng xử lư và ca đỡ đẻ thành công, cứu được cả mẹ lẫn con.
		
		Từ ngày đó, 
		tiếng tăm A Trũi vang xa. Có lúc đang dạy, bỗng thấy người dân chạy ầm 
		vào lớp: “Thầy giáo ơi! Mày cứu con tao với. Nó đẻ không được. Chết mất”. 
		“Ban đầu hơi làm lạ, nhưng dần dần rồi quen, lănh đạo trường thông cảm 
		nên cho tui đi đỡ đẻ luôn”, thầy A Trũi kể, miệng tủm tỉm. Rồi thầy giáo 
		làng tâm sự, bà con hồi đó đau đẻ là ở nhà chứ đâu có chịu ra trạm xá 
		hay bệnh viện. V́ vậy có rất nhiều ca đẻ khó, nếu ḿnh không có mặt kịp 
		thời là chết cả hai mẹ con, hoặc nếu chỉ chết mẹ th́ dân làng cứ chôn 
		theo phong tục. Nghĩ đến cảnh này nên dù giữa đêm hay trời mưa, gió lạnh, 
		đường cao, dốc lầy lội thế nào, ai đến trường, đến nhà gọi là tui đi 
		liền.
		
		“Thầy đă đỡ 
		được bao nhiêu ca đẻ rồi?”, tôi hỏi. A Trũi bảo: “Không nhớ hết đâu. Chỉ 
		những ca khó, nếu ḿnh không trực tiếp đỡ đẻ th́ sẽ tử vong khoảng 50 
		ca”. “Đỡ đẻ xong, bà con có biếu tiền hay mang quà tới nhà không?”. “Ô, 
		không có đâu. Bà con ḿnh nghèo th́ lấy tiền, quà đâu. Mà có cho ḿnh 
		cũng không nhận. Có điều, đi xuống làng là khó về lắm. Bà con mời rượu 
		uống say mèm mới cho đi…”, thầy A Trũi thật thà nói.
		
		Thế nhưng, 
		khi đỡ đẻ cho bà con xong, A Trũi nhẹ nhàng khuyên bảo là nên đi ra bệnh 
		viện sinh chứ không ở nhà nữa. “Nói thiệt, ban đầu không ai nghe cả. 
		Nhưng dần dần họ chịu…” với điều kiện: A Trũi phải đi ra trạm xá trực 
		tiếp đỡ đẻ.
		
			
				
					| 
					 
					Niềm vui của ông giáo làng 
					
					
					Thực ra với người Ba Na, thầy A Trũi nhận nuôi trẻ là một 
					việc, c̣n đứa trẻ ấy có sống không mới là việc khác. Những 
					ngày đầu, ai cũng cho rằng, trẻ con không táng theo mẹ trước 
					sau ǵ cũng theo mẹ v́ bị ma rừng bắt. Chứng minh “không có 
					ma rừng”, thầy A Trũi nuôi Y Lan và A Lư tại nhà. A Lư được 
					cứu năm 1993, nhờ lúc ấy bà Y Bliên mới sinh con nên cũng 
					được bú sữa mẹ. C̣n với Y Lan, do thiếu sữa mẹ nên rất khó 
					nuôi. “Một tuần ở nhà, một tuần nằm ở bệnh viện. Sau này 4 - 
					5 tuổi nó mới bớt đau yếu”, A Trũi cho biết. 
					
					
					Tṛ chuyện với thầy giáo này, mới biết t́nh thương ông dành 
					cho bé Y Lan là vô bờ bến. Ông bảo, ḿnh một tay bồng ẵm, 
					nâng niu nó nên người th́ làm sao không thương. Thậm chí, 
					những ǵ ông dành cho bé Y Lan c̣n hơn anh chị của nó nữa. 
					Ngày Y Lan ra học Trường dân tộc nội trú Đăkrve, H.Kon Rẫy, 
					do Y Lan đau nên hai vợ chồng phải ra chăm sóc trực tiếp bé 
					Y Lan. “Nó làm nũng. Tối ngủ phải có mẹ mới chịu. Giờ lên 
					lớp 8 th́ hết rồi”, thầy A Trũi kể. Bây giờ, Y Lan vẫn gọi 
					vợ chồng A Trũi bằng cha, mẹ, nhưng A Trũi vẫn khuyên con 
					t́m về và tha thứ cho cha ḿnh là ông A Kiên ngày trước. 
					
					
					“C̣n A Lư bây giờ ở đâu?”, tôi hỏi A Trũi. Ông bảo: Hồi kinh 
					tế khó khăn, bé A Lư 5 tuổi th́ gửi cho cô nhi viện Kon Tum. 
					Sau đó A Lư được hai vợ chồng người Mỹ nhận làm con nuôi. 
					Lâu lâu nó viết thư về thăm. Năm 2008 nó về thăm tui, hứa là 
					10 năm nữa sẽ về thăm lại. 
					
					
					Có thêm hai đứa con là niềm vui lớn, nhưng thầy A Trũi vui 
					hơn khi đồng bào cũng bắt đầu bắt chước ḿnh “chiến đấu với 
					ma rừng”. Như trường hợp A Bui ở Kon Gộp. Năm 2004, vợ khi 
					sinh bị chết, A Bui đấu tranh với dân làng giữ con A Nhi để 
					nuôi. Bây giờ A Nhi đă lớn, đang học lớp 4 tại Trường tiểu 
					học làng Kon Gộp.  | 
				
			
		 
		
		Phạm Anh
		
		Người mẹ không 
		may chết khi đang sinh con, hoặc sinh con ngoài giá thú th́ đứa trẻ sẽ 
		bị giết chết một cách dă man.
		“Dọ-tơm-amí” và “Joă ană” (chôn con theo 
		mẹ và đạp cho chết) là 2 hủ tục hoang dă gây nên nhiều cái chết oan khốc 
		cho trẻ sơ sinh. Khởi nguyên, tục “dọ tơm amí” chỉ quẩn quanh trong một 
		số buôn làng của đồng bào Bana, Jơ rai, Jẻ Triêng, những sắc tộc bản địa 
		đông đúc sinh sống lâu đời trên cao nguyên Gia Lai - Kon Tum, phía bắc 
		Tây Nguyên. Nhưng sau đó, theo những nhóm người ly tán, giao thoa, tục 
		“dọ tơm amí” lan nhiễm qua cả những cộng đồng Xêđăng, S’rá, và vài nhánh 
		Ê đê ở những vùng nghèo khó nhất.
		Theo hủ tục này, nếu 
		người mẹ chẳng may chết khi vượt cạn th́ trẻ sơ sinh phải bị bỏ xuống 
		huyệt chôn theo mẹ. Trẻ đă vài tuần, thậm chí đầy tháng tuổi mà mẹ ốm 
		chết v́ kiệt sức, hậu sản, th́ đứa trẻ cũng bị chôn sống theo, hoặc bị 
		vứt bỏ giữa băi tha ma cho chết ṃn, cho thú dữ ăn thịt.
		Buôn làng càng thiếu 
		thốn lạc hậu, hủ tục càng phổ biến v́ đồng bào không biết cách nuôi 
		dưỡng hài nhi thiếu sữa mẹ, luôn tin đứa bé đă làm cho mẹ chết cần phải 
		theo mẹ về cơi ma mới mong được chăm sóc tốt hơn... Trên nhiều ngôi mộ 
		chôn chung những đôi mẹ con tội nghiệp người Ba Na, Jơ rai, Jẻ Triêng, 
		nghệ nhân vẫn tạc tượng nhà mồ tạo h́nh mẹ ôm con, mẹ cơng con chan chứa 
		t́nh thương nhưng trĩu nặng thảm sầu.
		Văn hóa truyền thống của 
		đồng bào dân tộc Tây Nguyên tôn trọng quyền tự do yêu đương, chọn lựa 
		bạn đời của các đôi trai gái, trừ trường hợp mặc định từ đầu không thể 
		kết hợp sẽ bị cả gia tộc cấm đoán. Đồng bào Jơ Rai vùng Ia Le huyện Chư 
		Sê, tỉnh Gia Lai trước kia có tục "ngă mit", "ngă" là làm, "mit" là đêm 
		tối, cho phép con gái vào tuổi dậy th́ được tự do chọn lựa ư trung nhân. 
		Nếu cô gái đă lỡ “ăn cơm trước kẻng” th́ có quyền mời người làm chứng để 
		giữ chân cho đối tác khỏi “xù”. Nhưng gặp kẻ Sở Khanh ngă mấy th́ ngă, 
		xù vẫn xù, th́ sơn nữ lắm khi phải vài lần ngă mit!
		Khi nàng lấy chồng, nếu 
		người chồng nghi ngờ đứa bé đầu tiên ra đời không phải con ḿnh, anh ta 
		có quyền yêu cầu vợ hoặc bà đỡ phải Joă ană (đạp đến chết), nếu không sẽ 
		mời già làng xét xử, không những mất mặt với cộng đồng mà c̣n có thể bị 
		đuổi khỏi làng, tựa đi đày biệt xứ. "Joă" là đạp, "ană" 
		là con, "Joă ană" là đạp con cho chết. Hủ tục này nghiệt ngă tàn khốc 
		hơn cả “dọ tơm amí”.
		Buộc 
		phải tự thi hành án "Joă ană", người phụ nữ vừa gượng dậy sau sinh nở sẽ 
		phải bồng con vào rừng, dùng cây chụp loại chuyên đào củ mài đào một hố 
		tṛn sâu, thả đứa con ḿnh vừa rứt ruột đẻ ra dốc ngược đầu xuống đáy hố 
		để hồn ma bé khỏi biết đường về, rồi… đạp và …lấp. Hành động ấy được 
		thực hiện trước sự chứng kiến của gă chồng, người cứ đinh ninh từ nay 
		người vợ này mới hoàn toàn thuộc về ḿnh, đứa con tiếp theo mới chắc 
		chắn là con của ḿnh.
		Đến Kon 
		Tum, đoàn du khách nào cũng được hướng dẫn ghé thăm nhà Rông, nhà thờ gỗ 
		Kon R’Bang trăm tuổi nổi tiếng độc đáo số một của thành phố nhỏ bé xinh 
		đẹp phía Bắc Tây Nguyên, rồi ṿng ra phía sau ṭa giáo đường lộng lẫy 
		thăm một công tŕnh đầy ư nghĩa khác, là Tổ ấm Vinh Sơn thuộc ḍng Ảnh 
		Phép Lạ (APL), ḍng tu duy nhất trên cả nước do các nữ tu người dân tộc 
		thiểu số sáng lập. Nửa thế kỷ qua nơi đây đă cưu mang nuôi nấng mấy trăm 
		trẻ nhỏ mồ côi tật nguyền, trong đó có nhiều em bé được giành khỏi tay 
		tử thần “Dọ tom amí” và “Joă ană”.
		Cuối 
		tháng 8/2005, nữ y tá Y Ngum ở trạm xá xă Đăk Sao huyện Tu Mơ Rông, tỉnh 
		Kon Tum, đón một phụ nữ người Xê Đăng ở làng Kạch Lớn 2 tên là Y Nel, 
		bụng chửa vượt mặt lại bị rắn độc cắn trong lúc lên rừng hái măng. Y Nel 
		tắt thở đúng lúc đứa con trai đầu ḷng chào đời. Cộng đồng làng Kạch 
		nhất trí chôn con theo mẹ, anh A Huih, cha bé không dám căi, nhưng nữ y 
		tá Y Ngum cương quyết không cho làng chôn sống cháu bé. Được chồng là 
		anh Nguyễn Đức Thành Nam, thành viên đội trí thức trẻ t́nh nguyện ủng 
		hộ, Y Ngum đă thuyết phục được làng Kạch trao cháu bé cho cô nhận làm 
		con nuôi, đặt tên là A Công Sơn.
		Bà đỡ 
		hoặc người vợ đáng thương biết sinh linh trong bụng ḿnh sắp bị giết, đă 
		trốn làng chạy đến tu viện cầu xin cứu vớt. Những thân phận "Dọ tơm 
		amí", "Joă ană" đầu tiên về với ḍng APL từ năm 1947. Tiếng lành đồn xa, 
		càng ngày số trẻ bất hạnh được đưa về Tổ ấm càng đông, các nữ tu phải 
		tách cơ sở làm đôi. Tổ ấm I lặng lẽ nép ḿnh sau Nhà thờ gỗ. Tổ ấm II 
		cách gần 2 cây số, nằm khuất sâu trong thôn Kon Harachot.
		
		Y tá Y 
		Ngum bế bé A Công Sơn cùng chồng con.
		Xơ Y Blưih người dân tộc 
		Bơhnar là mẹ cả của Tổ ấm Vinh Sơn I. Xơ Gông người dân tộc Xêđăng là mẹ 
		cả của Tổ ấm Vinh Sơn II. Hai bà năm nay đều đă 63 tuổi, nhân từ phúc 
		hậu, đi tới đâu đàn cháu nhỏ cũng vẫy gọi rối rít và giơ tay đ̣i bế. Để 
		có đủ cơm áo nuôi nấng hàng trăm trẻ nhỏ, có tiền thuê thầy cô vào dạy 
		học, các xơ phải vừa chăm trẻ vừa tổ chức lao động sản xuất.
		Từ đây, nhiều thân phận 
		bất hạnh đă có cơ hội học hành đỗ đạt. Vượt qua rào cản ngôn ngữ, theo 
		kịp các bạn ở các trường công lập là cố gắng lớn. Thi đậu vào cao đẳng, 
		đại học lại là kỳ tích của cả mẹ và con.
		Xơ Y Blưih bồng một em 
		bé xinh xắn kể, em bé này người Jơ Rai, đă may mắn khỏi chết oan v́ bị 
		chôn theo mẹ. Khi bé được 4 tháng tuổi, mẹ bé ở làng Kon Thup, huyện 
		Mang Yang, tỉnh Gia Lai, địu con lên rẫy bị trúng gió và qua đời. Dân 
		làng họp lại, đồng t́nh Dọ tom amí.
		Một phụ nữ nhân hậu cùng 
		làng nghe tin vội bỏ buổi tuốt lúa chạy về nài xin làng cho chị nhận bé 
		làm con nuôi, dù nhà chị cũng nghèo và có tới 7 đứa con. Đón được bé về, 
		vợ chồng chị làm khai sinh, đặt tên cháu là Pi Yo Rong rồi báo cho một 
		nữ tu ở TP Plây Ku nhờ giúp đỡ.
		Bố nuôi lái xe máy, nữ 
		tu ngồi sau ôm Pi Yo Rong chạy mấy chục cây số qua Kon Tum xin mẹ cả Y 
		Blưih nhận cháu. Về nơi ở mới, Pi Yo Rong được chị Y Loan người Xêđăng 
		quê huyện Ngọc Hồi, Kon Tum, đang học lớp 6 nhận làm em nuôi, v́ mười 
		mấy năm trước Y Loan cũng được cứu khỏi tục chôn con theo mẹ.
		Giờ cuộc sống từng ngày 
		đổi thay, buôn làng khắp Tây Nguyên giờ đều đă tiến bộ, tiện nghi đầy đủ 
		hơn xưa. Hủ tục “Dọ tom amí” và “Joă ană” dần lui vào dĩ văng.
		Theo 
		Tiền Phong
		
		 
Post ngày: 
		12/08/18 
Nguồn: