|   | 
		
		 
		Dân cư 
		 
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Lô Lô
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Lô 
							Lô (Mùn Di, Di... Có hai nhóm: Lô Lô Hoa và Lô Lô 
							Đen). 
							Dân số: 3.307 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Phần 
							lớn sống ở Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai.  | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		Phong tục tập quán: 
		
		 Thờ 
		tổ tiên là chính. Hôn nhân nhân một vợ một chồng. Vợ chồng sau khi cưới 
		ở nhà chồng. Mỗi làng tập trung từ 20 đến 25 nóc nhà. Làng ở lưng chừng 
		núi, gần nguồn nước. Có 3 loại nhà: nhà đất, nhà sàn nửa đất và nhà sàn. 
		 
		Người cùng họ thường sống với nhau thành một làng. Đứng đầu ḍng họ là 
		Thầu chú, phụ trách việc cúng bái và duy tŕ tục lệ của ḍng họ. Mỗi 
		ḍng họ có trống đồng riêng. Tộc trưởng của họ giữ trống bằng cách chôn 
		xuống đất. Khi sử dụng trong các đám tang hoặc nhảy múa mới đào lên. 
		 
		
		
		Ngôn ngữ:  
		
		
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Tạng. 
		 
		
		
		 Văn 
		hoá: 
		
		
		Chữ viết là chữ tượng h́nh nhưng hiện nay không dùng. Có lịch riêng chia 
		một năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật. Văn hoá 
		đa dạng, đặc sắc qua các điệu nhảy múa, ca hát, truyện cổ... Cách bố trí 
		hoa văn trên khăn áo, váy, quần có nét riêng biệt, sặc sỡ. Coi trọng 
		việc giáo dục. Nhiều người học hành thành đạt và làm việc ở địa phương. 
		 
		
		
		Trang phục: 
		
		
		Nữ mặc áo cổ tṛn xẻ ngực, quần chân què, ngoài quần c̣n quấn thêm váy 
		lửng. Phụ nữ Lô Lô đen mặc quần chân què, áo cổ vuông chui đầu. 
		 
		
		
		Kinh tế: 
		
		
		Trồng ngô hoặc lúa nương. 
  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Lự
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Lự 
							(Lữ, Nhuồn, Duồn). 
							Dân số: 4.964 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Huyện 
							Phong Thổ và Śn Hồ, tỉnh Lai Châu.  | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		 Phong 
		tục tập quán: 
		Theo đạo Phật, sau khi chôn cất người chết một thời gian, 
		tang gia làm lễ đưa linh hồn người chết vào chùa. Ở nhà sàn, hai mái, có 
		cửa ra vào ở hướng tây bắc. Trai gái tự do t́m hiểu rồi xin ư kiến cha 
		mẹ để kết hôn, nhưng phải nhờ thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới 
		lấy nhau. Con lấy họ theo cha, tên con trai có chữ đệm là Bạ, tên con 
		gái có chữ đệm là Ư. Vợ chồng sống chung thủy, rất ít khi ly dị nhau. 
		 
		 Ngôn 
		ngữ: 
		Thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái. 
		 
		Văn hóa:  
		Yêu thích vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, hay hát dân ca "khăp". Nhạc cụ 
		là các loại sáo, nhị. 
		 
		Trang phục: 
		Nam mặc quần, nữ mặc váy, áo và có hoa văn trang trí rực rỡ trên nền vải 
		nhuộm chàm. 
		 
		Kinh tế: 
		Làm ruộng từ lâu đời, trồng lúa nương, ngô, khoai, sắn, lạc, bông. Có 
		tập quán ăn cơm nếp là chính, thích ăn ớt, ưa uống nước chè. 
		  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Mạ
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Mạ 
							(Châu Mạ, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn). 
							Dân số: 33.338 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Lâm 
							Đồng.  | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		 Phong 
		tục tập quán:
		Thờ 
		thần sông, thần núi, thần lửa... Sống thành bon (làng), mỗi bon có từ 5 
		- 10 nhà sàn dài. Đứng đầu bon là quăng bon (già trưởng làng). Nhà trai 
		chủ động trong hôn nhân nhưng sau lễ cưới phải ở rể. Đủ đồ sính lễ th́ 
		được đón vợ về nhà. 
		 
		 Ngôn 
		ngữ:  
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer. 
		 
		Văn hoá: 
		Nhạc cụ có bộ chiêng đồng, trống, khèn bầu, khèn sừng 
		trâu, đàn lồ ô, sáo trúc 3 lỗ... Văn học dân gian gồm có truyện cổ, 
		truyền thuyết, huyền thoại. 
		 
		Trang phục: 
		Nữ mặc váy, quần, nam đóng khố. Có tục cà răng, căng tai, đeo 
		nhiều ṿng trang sức. 
		 
		Kinh tế: 
		Làm nương rẫy, trồng lúa, hoa màu; dệt vải truyền thống. Nghề 
		rèn và đánh cá trên sông. 
		  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Mảng
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Mảng 
							(Mảng Ư, Xá Lá Vàng). 
							Dân số: 2.663 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Lai 
							Châu (Śn Hồ, Mường Tè, Phong Thổ, Mường Lay)  | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		
		 Phong 
		tục tập quán: 
		
		
		Thờ vị thần cao nhất là trời. Hôn nhân tự do; lúc đưa dâu có tục đánh 
		nhau giả giữa họ nhà trai và nhà gái để giành cô dâu. Cư trú theo ḍng 
		họ, riêng biệt, ở nhà sàn. Có trưởng bản cai quản cùng hội đồng già làng. 
		 
		
		
		 Ngôn 
		ngữ:  
		
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer. 
		 
		Văn hoá: 
		
		Đặc trưng văn hoá lâu đời: tục xăm cằm, lễ thành đinh và các làn điệu 
		dân ca. 
		 
		Trang phục: 
		
		Nữ mặc váy dài, áo ngắn xẻ ngực, choàng tấm vải trắng có trang trí hoa 
		văn. Nam mặc quần, áo xẻ ngực. 
		 
		Kinh tế: 
		
		Làm nương rẫy, công cụ sản xuất thô sơ. Một số nơi làm ruộng bậc thang. 
		Nghề thủ công đan lát.  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Mông (H'Mông)
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Mông 
							(Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Đỏ, Mông Đen, Mông Mán) 
							Dân số: 787.604 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Hà 
							Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn 
							La, Cao Bằng, Nghệ An.  | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		Phong tục tập quán: 
		
		
		Mỗi ḍng họ sống thành cụm do trưởng họ đảm nhiệm. Tự do hôn nhân, nhưng 
		không lấy người cùng ḍng họ. Vợ chồng rất ít bỏ nhau. 
		 
		
		Ngôn ngữ:  
		
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Mông - Dao. 
		 
		 Văn 
		hoá: 
		
		Người Mông ở nhà trệt, cấu trúc theo lối xứ lạnh, có ḷ sưởi, có thịt 
		sấy ăn quanh năm, có món "mèn mén", món "thắng cố" độc đáo. Nhạc cụ là 
		nhiều loại khèn và đàn môi. Tết tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Trong 3 
		ngày Tết không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân, thổi khèn gọi 
		bạn. 
		 
		
		Trang phục: 
		
		Quần áo may bằng vải lanh tự dệt. Nữ mặc váy xoè rộng, áo xẻ ngực, tạp 
		dề trước và sau, xà cạp quấn chân. 
		 
		
		Kinh tế: 
		
		Làm nương rẫy du canh và trồng lúa nước ở ruộng bậc thang. Trồng lanh để 
		lấy sợi dệt vải và cây dược liệu. 
  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc M'Nông
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: M'Nông 
							(Bru Đang, Preh, Ger, Nong, Prêng, Rlăm, Kuyênh, 
							Chil Bu No, nhóm M'Nông Bru Dâng). 
							Dân số: 92.451 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Đắk 
							Lắk, Lâm Đồng và B́nh Phước  | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		Phong tục tập quán: 
		
		 Thờ 
		nhiều thần linh, đề cao thần lúa. Sống thành làng, mỗi làng có vài chục 
		nóc nhà. Đứng đầu là trưởng làng. Ở nhà sàn, nhà trệt. Duy tŕ chế độ 
		mẫu hệ, con mang họ mẹ, người vợ là chủ gia đ́nh. Thích nhiều con gái, 
		sinh sau 1 năm mới đặt tên. 
		
		 Tang 
		lễ có tập quán ca hát, gơ chiêng, trống bên áo quan. Khi hạ huyệt dùng 
		cây, que, lá cây trải kín miệng hố rồi lấp đất. Qua 7 ngày hoặc 1 tháng 
		th́ làm lễ đoạn tang. Mọi người đều thích rượu cần và thuốc lá cuốn. 
		 
		Ngôn ngữ: 
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer. 
		 
		Trang phục: 
		Nữ mặc váy quấn dài, Nam đóng khố, cởi trần. Khố váy áo màu chàm có 
		trang trí hoa văn. 
		 
		Kinh tế: 
		Làm rẫy, làm ruộng nước. Nghề săn và thuần dưỡng voi rất nổi tiếng (Buôn 
		Đôn). Nghề thủ công: dệt vải và đan lát 
  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Mường
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Mường 
							(Mol, Mual, Moi, Moi Bi, Au Tá, Ao Tá) 
							Dân số: 1.137.515 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Cư 
							trú ở nhiều tỉnh phía bắc, tập trung đông ở Hoà B́nh 
							và miền núi Thanh Hoá. Sống định canh định cư nơi có 
							nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện 
							cho việc làm ăn.     | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		Phong tục tập quán: 
		
		 Thờ 
		cúng tổ tiên và tin vào đa thần giáo. Xưa tổ chức xă hội của người Mường 
		là chế độ lang đạo chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mường có 
		các Lang Cun, dưới Lang Cun có các Lang Xóm hoặc Đạo Xóm.  
		 
		Hôn lễ của người Mường gần giống người Kinh. Khi trong nhà có người sinh 
		nở th́ rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ lớn khoảng một tuổi 
		mới đặt tên.  
		 
		Khi có người chết, tang lễ được tổ chức theo nghi thức nghiêm ngặt. 
		
		 
		Ngôn 
		ngữ: 
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường. 
		 
		
		
		 Văn 
		hoá: 
		Kho 
		tàng văn nghệ dân gian khá phong phú: thơ, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví 
		đúm, tục ngữ. Có nhiều bài hát: ru em, đồng giao, hát đập hoa, hát đố, 
		hát trẻ con chơi... Nhạc cụ có cồng, nhị, sáo trống, khèn lù. Có nhiều 
		ngày hội trong năm: hội xuống đồng (khuông mùa), hội cầu mưa, lễ rửa lá 
		lúa, lễ cơm mới... 
		 
		Trang phục: 
		Nam mặc quần áo màu chàm. Nữ mặc áo, váy, áo ngắn thân xẻ ngực (có nơi 
		xẻ vai), ít cài cúc và mặc yếm. Váy khá dài, cao đến nách, cạp váy dệt 
		bằng tơ nhuộm màu, có hoa văn trang trí rất đẹp. Đầu đội khăn màu trắng 
		h́nh chữ nhật. 
		 
		Kinh tế: 
		Làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. 
		Kinh tế phụ là khai thác lâm thổ sản. Nghề thủ công có dệt vải, đan lát, 
		ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ nghệ khá tinh xảo 
		
		 
  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Ngái
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Ngái 
							(Ngái Hắc Cá, Lầu Mần, Hẹ, Sín, Đàn, Lê). 
							Dân số: 4.841 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Quảng 
							Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc 
							Kạn, Thái Nguyên.     | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		Phong 
		tục tập quán: 
		
		
		 Ở nhà ba gian hai chái. Thờ cúng tổ tiên và các loại "thần", 
		"ma". Thôn xóm nào cũng có đền, chùa. Cha mẹ dựng vợ gả chồng cho con 
		cái và tổ chức hai lần cưới. Người chồng quyết định mọi việc lớn trong 
		gia đ́nh. Con gái không được hưởng gia tài.  
		 
		
		
		Ngôn ngữ: 
		
		
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Hán. 
		 
		
		
		 Văn hoá: 
		
		
		Có lối hát giao duyên nam nữ (Sường Cô) rất phong phú. Các tṛ chơi: múa 
		sư tử, múa gậy, chơi rồng rắn. 
		 
		
		Trang phục: 
		
		
		Mặc giống người Hoa. 
		 
		
		
		Kinh tế: 
		
		
		Làm ruộng trồng lúa, đánh cá, đào kênh, mương, đắp đập tạo hồ nước, dệt 
		chiếu, làm mành trúc, rèn, mộc, nung vôi, làm gạch ngói.  
		 
  
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Nùng
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Nùng 
							(Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Ḷi, Phần Śnh, Nùng 
							Cháo, Nùng Inh, Quư Rịn, Nùng Dín, Khen Lài). 
							Dân số: 856.412 
							người (năm 1999). 
							
							Địa bàn cư trú: Lạng 
							Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc 
							Ninh, Tuyên Quang.     | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
		 
		
		Phong tục tập quán:Phong 
		tục tập quán:
		
		 Thờ 
		tổ tiên, thờ thánh, thần, Khổng tử và Quan âm Bồ tát. Sống thành từng 
		bản trên các sườn đồi, trước bản là ruộng nước, sau là nương và các vườn 
		cây ăn quả. 
		 
		
		
		 Ngôn 
		ngữ: 
		Thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái. Tiếng Nùng có văn tự Nôm Nùng 
		xuất hiện từ thế kỷ 17. 
		 
		
		
		Văn hoá: 
		
		
		Có nhiều điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên hoà 
		quyện vào âm thanh của núi rừng. Điệu dân ca then làm rạo rực tâm hồn 
		bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương. Lễ hội nổi tiếng thu hút được 
		nhiều người là hội "lùng tùng" (xuống đồng) được tổ chức vào tháng Giêng 
		hàng năm. 
		 
		Trang phục: 
		Mặc quần áo chàm. 
		 
		Kinh tế: 
		Cây trồng chính lúa và ngô. Ngoài ra c̣n trồng nhiều loại cây 
		công nghiệp như cây hồi, cây ăn quả như quưt, hồng. 
		
			
				
					
					
					
					Dân tộc Ơ Đu
						
							| 
							 
							
							 Tên 
							dân tộc: Ơ 
							Đu (Tày Hạt). 
							Dân số: 301 
							người (năm 1999). 
							Địa bàn cư trú: Nghệ 
							An.      | 
						 
					 
					 | 
				 
			 
		 
 
		
		Phong tục tập quán: 
		
		 Sống 
		trong gia đ́nh nhỏ, hôn nhân có tục ở rể sau một thời gian mới đưa vợ về. 
		Có lịch tính năm riêng. Quan niệm có hồn và ma. Ma chi phối hoạt động 
		của người sống. 
		 
		
		
		 Ngôn 
		ngữ: 
		Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer, nhưng đang bị mất hiện sử 
		dụng tiếng Thái và Khơ Mú. 
		 
		Văn hoá: 
		Không c̣n bản sắc văn hóa riêng, chịu ảnh hưởng văn hóa Thái 
		và Khơ Mú. 
		 
		Kinh tế: 
		Làm nương rẫy, chăn nuôi, hái lượm, săn bắn. Nghề thủ công là 
		dệt vải.  
  
		Nguồn: vietnamtourismgov  |