|
Dân cư
Dân tộc Thái
Tên
dân tộc: Thái
(Tày, Táy Đăm, Táy Khào, Tày Mười, Tày Thanh, Hàng
Tổng, Pu Thay, Thờ Đà Bắc).
Dân số: 1.328.725
người (năm 1999).
Địa bàn cư trú: Điện
Biên, Lai Châu, Sơn La, Hoà B́nh, Nghệ An. |
|
Phong tục tập quán:
Thờ
cúng tổ tiên, cúng trời đất, cúng bản mường. Nhiều nghi lễ cầu mùa.
Trong hôn nhân có tục ở rể khi có con gái gả chồng. Đám ma là lễ tiễn
người chết về "mường trời". Người Thái ở nhà sàn. Người Thái Đen làm nhà
có h́nh mai rùa, trang trí theo phong tục xưa.
Ngôn ngữ:
Thuộc hệ ngôn
ngữ Tày - Thái.
Văn hoá:
Có vốn văn học cổ truyền quư báu: thần thoại cổ tích,
truyền thuyết, truyện thơ, ca dao... thích ca hát, ngâm thơ, hát theo
lời thơ, đệm đàn và múa (gọi là khắp). Có nhiều điệu múa: xoè Thái, múa
sạp. Hạn khuống, ném c̣n là đặc trưng văn hoá của người Thái.
Trang phục:
Nữ mặc áo, váy,
khăn theo lối cổ truyền dân tộc.
Kinh tế:
Làm ruộng, cấy
lúa, làm nương, trồng hoa mùa và nhiều cây khác. Chăn nuôi gia súc, gia
cầm, đan lát, dệt vải. Dệt thổ cẩm là sản phẩm độc đáo
Dân tộc Thổ
Tên
dân tộc: Thổ
(Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Tày Poọng, Đan Lai, Ly Hà).
Dân số: 68.394
người (năm 1999).
Địa bàn cư trú: phía
tây tỉnh Nghệ An. |
|
Phong tục tập quán:
Xưa
ở nhà sàn, nay hầu hết là nhà trệt. Sống đoàn kết và gắn bó với nhau. Có
tục "ngủ mái": Nam nữ thanh niên được nằm tâm t́nh với nhau, nhất là vào
dịp tết, lễ hội (nhưng phải sử sự đứng đắn bởi dư luận và luật tục rất
nghiêm minh). Từ đó mà chọn bạn trăm năm. Muốn cưới vợ cho con, nhà trai
khá tốn kém về lễ vật, chàng trai phải năng đến làm việc cho nhà vợ
tương lai. Thờ "thần", "ma" và những vị có công khai khẩn đất đai, lập
làng hay đánh giặc. Các gia đ́nh đều thờ cúng tổ tiên. Hàng năm, có lễ
xuống đồng và lễ ăn cơm mới.
Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường.
Văn hoá:
Xưa có nhiều ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ, các điệu ca
hát, đồng dao. Vốn văn nghệ dân gian đến nay đă bị thất truyền, mất mát
nhiều.
Trang
phục:
Giống như
người Kinh nông thôn nửa thế kỷ về trước, có nơi nữ mặc váy mua của
người Thái, đội khăn vuông trắng. Khăn tang là khăn trắng dài.
Kinh tế:
Làm rẫy, trồng lúa và gai. Sử dụng cày, bừa để lấp đất sau
khi gieo. Cây gai là nguyên liệu quan trọng trong đời sống, kinh tế.
Rừng đóng vai tṛ lớn trong đời sống
Dân tộc Xinh Mun
Tên
dân tộc: Xinh
Mun (Puộc, Pụa).
Dân số: 18.018
người (năm 1999).
Địa bàn cư trú: Vùng
biên giới Việt Lào thuộc Sơn La, Lai Châu. |
|
Phong tục tập quán:
Ở
nhà sàn, mái h́nh mai rùa, có hai thang lên xuống ở hai đầu hồi. Thờ
cúng tổ tiên và tổ chức cúng lễ ma bản, cúng mường. Họ có tập quán ăn
trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần. Hôn nhân nhà trai phải lo. Sau lễ
dạm, lễ hỏi là đến lễ đi ở rể. Khi đă có vài ba con th́ nhà trai mới tổ
chức đón dâu, lấy chung một tên khác do cậu hoặc thầy cúng đặt. Con theo
họ cha. Khi người bố chết, con trai cả giữ vai tṛ quan trọng. Không có
tục cải táng hay tảo mộ.
Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer.
Văn hoá:
Họ có nhiều nghi lễ và kiêng cữ, có lễ cúng mường hàng năm là
lễ chung.
Trang
phục:
Trang phục như người Thái, Lào.
Kinh tế:
Làm nương rẫy, hái lượm, săn bắn và chăn nuôi, một số nơi làm
lúa nước. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền. Mua bán theo
chế độ đổi hàng.
Dân tộc Xơ Đăng
Tên
dân tộc: Xơ
Đăng (Xơ Đeng, Cà Dong, Tơ Dra, Hđang, Mơ Nâm, Hà
Lăng, Ka Râng, Con Lan, Bri La Teng).
Dân số: 127.148
người (năm 1999).
Địa bàn cư trú: Kon
Tum, Quảng Nam, Đà Nẵng và Quảng Ngăi. |
|
Phong tục tập quán:
Thờ
nhiều thần liên quan đến sản xuất và sinh hoạt. Hôn nhân tự do, cưới đơn
giản, sau ngày cưới họ ở luân chuyển mỗi bên gia đ́nh ít năm. Sống thành
làng, có nhà rông h́nh lưỡi ŕu là nơi sinh hoạt chung của làng. Già
làng được nể trọng và điều hành mọi sinh hoạt chung. Tên không có họ
nhưng có từ phân biệt nam, nữ.
Ngôn
ngữ:
Ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer.
Văn hoá:
Múa hát, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ là sở
thích. Lễ hội truyền thống có lễ đâm trâu. Nam có tài nghệ trong kiến
trúc, điêu khắc và hội hoạ...
Kinh tế:
Làm rẫy, chăn nuôi gia súc gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh
bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Mơ Nâm làm ruộng nước, nhóm Tơ Dra có
nghề rèn quặng sắt.
Dân tộc Xtiêng
Tên
dân tộc: Xtiêng
(Xa Điêng).
Dân số: 66.788
người (năm 1999).
Địa bàn cư trú: Bốn
huyện phía bắc tỉnh B́nh Dương, một phần ở Đồng Nai,
Tây Ninh. |
|
Phong tục tập quán:
Đứng
đầu là già làng am hiểu tập tục, có uy tín, tháo vát. Họ sống định canh
định cư theo từng gia đ́nh. Tin vào sức mạnh huyền bí của sấm sét, trời
đất, trăng, mặt trời. Tính tuổi theo mùa rẫy. Trong hôn nhân, họ lấy vợ
lấy chồng khác ḍng họ. Cô dâu về ở nhà chồng ở sau ngày cưới.
Ngôn ngữ:
Thuộc nhóm Môn - Khmer.
Văn hoá:
Họ rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ là bộ chiêng 6 cái, cồng, khèn
bầu.
Trang phục:
Nữ mặc váy, nam đóng khố. Mùa đông choàng thêm tấm vải.
Họ để tóc dài búi sau gáy, tai xâu lỗ, xăm mặt, xăm ḿnh. Đeo nhiều loại
trang sức làm bằng gỗ hoặc ngà voi.
Kinh tế:
Nhóm Xtiêng Bù Đéc làm ruộng nước, dùng trâu ḅ kéo cày. Nhóm
Xtiêng Bù Lơ ở vùng cao làm rẫy.
Nguồn: vietnamtourismgov |