|   | 
		
		
		Đẻ đất đẻ nước 
		 
		
		Trong kho tàng văn học dân gian th́ ta không chỉ nói đến văn học của Dân 
		tộc Việt (người Kinh) mà phải bao gồm cả 54 sắc dân khác trong cộng đồng 
		Việt Tộc, Xin giới thiệu đến quư vị Bài Sử 
		Thi của dân Tộc Mường 
		 
		
		Sử thi "Đẻ 
		đất đẻ nước" có 
		quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503 câu thơ. Người 
		Mường ở Nghĩ Lộ, Hoà B́nh và miền tây Thanh Hoá c̣n truyền tụng "Đẻ đất 
		đẻ nước". Các thầy mo (thầy cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước" trong các 
		tang lễ. 
		 
		
		2. Tóm tắt 
		 
		
		Thuở ấy, khi đất trời c̣n hỗn mang, bỗng "mưa dầm mưa dăi" nước ngập 
		mênh mông, 50 ngày sau mới rút hết. Tự nhiên mọc lên một cây xanh có 90 
		cành, có một cành cao trọc trời, biến thành ông Thu Tha, Bà Thu Thiên. 
		Hai Thần truyền lệnh làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội 
		suốt 12 năm liền, mặt đất xơ xác. Thần Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn. 
		Tức th́ mưa to gió lớn suốt chín, mười ngày đêm; hạt mưa to bằng quả 
		bưởi, nước lại ngập bao la. Bẩy tháng sau nước rút cạn, có một cây si 
		khổng lồ mọc lên tua tủa 1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng 
		ruột cây si. Cây đổ, mỗi cành hoá ra một bản mường: 
		 
		
		..."Một cành đổ về đất Sạp 
		Nên mường Sạp. 
		Một cành đổ về đất Giạp 
		Nên mường Giạp. 
		Một cành ngă về đất Bi, đất Lỗ. 
		Nên Mường Bi, Mường Lỗ..." 
		 
		
		Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng ḱ dị, nở ra 
		cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ. Vừa mới nở, cun Bướm Bạc đă ăn hết 9 chơ 
		cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chơ xôi: 
		 
		
		"Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ 
		Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười. 
		Tiếng cười như tiếng trống cái 
		Tiếng nói như tiếng sấm vang 
		Xương vai dài tám mươi lóng 
		Xương sống dài bẩy mươi gang..." 
		 
		
		Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cươi ngựa 
		bạc, vác ná đi săn lợn rừng, gặp các nàng tiên "lưng ong, tóc mượt". Hai 
		nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng . Sau 12 năm 9 tháng, 
		hai nàng tiên sinh được một bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim tót là 
		con út con yêu". Đôi chim trống mái sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" để ra 
		1919 chiếc trứng nở ra Thần Chớp, Thần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú 
		dữ... Đôi chim đẻ ra lứa thứ hai "được một trứng đen đen bốn khúc - 
		Trứng bầu dục 4 khuôn - Mặt vuông mặt tṛn chín cạnh -Rành rành mười hai 
		quai"... Mụ Dạ Dần sai chim chiền chiện ấp, trứng nở ra một bầy con, mỗi 
		đứa nói một thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng Thái, tiếng Kinh, tiếng Mọn, 
		tiếng Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo… Trứng cũng nở ra anh em nhà lang: ông 
		Dịt Dáng, ông Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố Bướm Khang, ông Sang Si, 
		nàng Vạ Hai Chiếng.... Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có từ đấy. 
		 
		
		Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời "đúc 9 mặt trời, đúc được 12 
		mặt trăng" làm chói chang trời đất. Họ nhà Ngao "thần nỏ" dùng cung tên 
		bắn rụng hết, chỉ để lại một mặt trăng, một mặt trời. Rồi ông Thu Tha, 
		bà Thu Thiên làm ra năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm 
		ăn sinh sống. 
		 
		
		Người Mường chưa có thủ lĩnh.Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời Lang 
		Tá Cái ra "cầm binh cầm mường”. Cả hai đều bất tài bị "ma đón đường, 
		thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngơ". Mường nước phải đi mời Lang Cun 
		Cần ra tiễu trừ ma quỷ, thú dữ. 
		 
		
		"Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi 
		Ma rồng sơ Lang Cun Cần trời 
		Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt 
		Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh"... 
		 
		
		Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa 
		to đẹp. Tà Cắm Cọt (thần lửa) cho Cun Cần lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần 
		Trồng Trọt) giúp lang nhiều hạt giống để sản xuất. Lang Khấm Dậm bày cho 
		cách ủ men chế rượu cần. Mụ La, mụ Húng, (thần chăn nuôi) dạy cho mường 
		nước nuôi gia súc, gia cầm. Mường nước có trâu ḅ cày ruộng làm nương. 
		 
		
		Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang 
		lấy em gái nàng Vạ Hai Chiếng, bị làng bản coi khinh, bị vua Trời sai 
		cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt, may mà thoát chết. Lang 
		Cun Cần sai bỏ nàng Vạ Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ 
		vật đi khắp nơi t́m "gái đẹp con ḍng". Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ 
		là con gái vua Trời, có vợ là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. 
		Lang Cun Cần có một bầy con: 
		 
		
		"Nàng Vậm Đầu Đất 
		Đẻ được cun Tồi, cái Sang 
		Nàng Vậm Đầu Nước 
		Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn, 
		Nàng Ả Sao, Ả Sáng,  
		Ả Rạng nhà ông vua Trời 
		Đẻ được Lang Cun Khượng 
		Ả Gái nuôi trong mường 
		Đẻ ra chàng Toóng Ín..." 
		 
		
		Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. 
		Toóng Ín vu cho Lang Cun Khương làm giặc để âm mưu cướp đất của anh. 
		Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nhờ ông ngoại che chở. Trời giáng hoạ, 
		gây ra lũ lụt, ép anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó, Lang Cun 
		Khương trở nên một thủ lĩnh giàu có, đầy quyền uy. 
		 
		
		Tậm Tạch là tôi tớ của lang đă t́m được cây Chu Đồng (cây thần) lấy được 
		"bông thau, quả thiếc" mà trở nên giàu có. Anh em Lang Cun Khương lập 
		mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được "bông thau, quả thiếc". 
		Lang đưa cả mường nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu.Tậm Tạch 
		phản loại bị lang giết chết. Rùa Thần lại giúp lang làm nhà chu "sáng cả 
		mường, kinh ḱ kẻ chợ", "rạng trời rạng đất". Lang giết 10 voi ngà, 30 
		trâu mộng, 9 ḅ, 100 gà sao, nấu 1000 ṿ rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần 
		ban thưởng cho các con nhiều vàng bạc quư giá. 
		 
		
		Con của Tậm Tạch lại đốt nhà chu để báo thù cho cha. Hắn lại bị lang 
		giết chết, máu hắn hoá thành con Moong khổng lồ, tàn phá bản mường. Lang 
		Cun Cần đưa tất cả mường nước đi săn Moong, vô cùng nguy hiểm mới giết 
		được. Moong được ăn thịt; người Lào, người Thái, người Tày, người Mường 
		nhanh chân lấy được da Moong vằn vện mà học được cách thêu thùa, dệt vải 
		rất đẹp. Người Kinh đến sau lấy được thịt và mỡ Moong, từ đấy biết nấu 
		nhiều món ăn ngon.Người "Mường ngoài" (Hoà B́nh) đến sau cùng, chẳng 
		được thứ ǵ , chỉ nh́n thấy đống tro thui Moong, chẳng may, gió thổi tro 
		bay dính vào môi, nên môi người "Mường ngoài" bị đen là v́ thế! 
		 
		
		Tai hoạ c̣n nhiều. Chó ăn phải phổi Moong mà thành chó điên. Chó điên bị 
		giết, xác bị quẳng xuống sông, cá ăn phải biến thành Cá điên. Cá điên bị 
		lang bắt giết, bầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên. Mường nước săn nùng măi, 
		cuối cùng Lang Cun Khương bắn trúng Qụa, cả bày hoảng sợ bay trồn vào 
		rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại biến thành Ma Ruộng đưa bầy Rắn "mỏ 
		vàng, mỏ đỏ" đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh 
		nhau suốt đêm ngày, kịch chiến giữa ruộng, quần nhau trên đồi gianh, 
		đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng,... Toóng Ín thất 
		thế phải chạy xuống thuỷ phủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long 
		Vương biến Toóng Ín thành Ma May, Ma Lang. Hắn đưa binh mă gồm thuồng 
		luồng, ba ba, cá ngao... dâng nước làm lũ lụt, d́m chết được Lang Cun 
		Tàng, Lang Cun Khương cùng mường nước nổi chiêng cồng đem giáo mác, cung 
		nỏ, lưới... vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma May, Ma Lang bị đại bại, 
		bỏ lại trên băi chiến trường bao xác loài thuỷ quái, làm thổi cả bản 
		mường. 
		 
		
		Từ đó, mường nước yên vui, hoà b́nh thịnh vượng. Lang Cun Cần đă sống 
		được trên vạn năm. Trẻ già, trai gái mường nước nô nức sắm áo quần, lo 
		kiệu lo ngai, rước vua về, "Đồng ch́ tam quan kẻ chợ" 
		 
		
		Phân Tích: 
		 
		
		Đẻ nước 
		 
		
		1. Xuất xứ 
		 
		
		Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đất đẻ 
		nước"; từ câu 268-334 theo sưu tầm của Hoàng Anh Nhân (Thanh Hoá) 
		 
		
		2. Ư chủ đạo 
		 
		
		Đoạn thơ nói về trận đại hồng thuỷ thời tiền sử - buổi đầu khai thiên 
		lập địa theo cách cảm nhận riêng của người Mường xa xưa. 
		 
		
		3. Ông Pồng Pêu 
		 
		
		Là Thần Mưa theo cách gọi của ngựi Mường.  
		 
		
		Thiên tai kéo dài "Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đất" làm cho 
		muôn loài đau khổ: "cây cau úa cả tàu - rừng vàu không mọc măng", làm 
		cho "chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải chạy lên đồi"... 
		 
		
		Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, b́nh 
		dị như con người lao động. Ông ngước nh́n khắp trời đất, rồi gọi gió, 
		gọi "mưa cho mát ḷng các loài thú hiền thú dữ, cây lau cây bái". Tức 
		th́ trời mưa to. Pồng Pêu là biểu tượng cho ư nguyện của muôn loài muôn 
		vật và con người v́ sự sống bắt diệt trên trái đất. 
		 
		 
		
		4. Cảnh trời mưa 
		
		Mưa miêu tả dữ dội chẳng khác nào trận đại hồng thuỷ trong Kinh thánh 
		nói đến. Mây vàng mây đen đùn lên che kín cả bầu trời, gió ùn ùn thổi 
		điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai: 
		 
		
		"Lanh lảnh cun Sấm xuống thét 
		Lăm lăm nàng sét xuống đánh". 
		 
		
		Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hột cà" về 
		sau "to bằng quả bưởi". Nước ngập mênh mông. Mưa để "rước nàng ngâu về 
		trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa "ngập cây", "ngập bụi", măi 
		"bốn tháng nước rút - bẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đến sự sống cho đàn 
		cua đá, đàn cá, đàn ba ba, đàn cá chuối, đàn ṇng nọc, đàn cá cơm. Sau 
		khi "đẻ nước" trời "đẻ đất". 
		 
		
		Có đất, đất đang xơ xác, 
		Có nước, nước ùn đục ngầu 
		Đó vẫn là cảnh thiên địa sơ khai.  
		 
		
		Biện pháp lặp và liệt kê được nhà thơ dân gian xưa của tộc Mường, vận 
		dụng tạo nên ấn tượng "đẻ nước". Thần mưa, thần Sấm, thần Sét, Chức nữ, 
		Ngưu lang...được nói đến hồn nhiên đầy ư vị. Đoạn sử thi đă giải thích 
		hiện tượng mưa gió, lũ lụt qua cảm quan nghệ thuật “vạn vật hữu linh" 
		của người Mường thời viễn cổ. 
  |