Người Minh Hương Tại 
			Quảng Nam
 
		
			
			Năm 1664, sau khi thôn tính nhà Tây Minh, Măn Thanh 
			đặt ách thống trị khắc nghiệt lên dân tộc Trung Hoa, t́m mọi cách 
			phá bỏcơ chế Minh Triều, nhất là nổ lực đồng hóa đời sống văn hóa 
			cùng mọi sinh hoạt khác theo Thanh. Măn Thanh không dùng quan tướng 
			của Minh Triều mà c̣n chế tài họ hoặc trục xuất những người có ảnh 
			hưởng tới nhân dân ra khỏi nước. Riêng tầng lớp giàu có, các thương 
			gia, đại địa chủ th́ bị sách nhiễu khó bề sống nổi. Hai thành phần 
			này cùng một số sĩ phu yêu nước đành phải rời quê hương t́m đường 
			tịnạn, hoặc t́m nơi tạm ẩn ḿnh chờ cơ hội phục quốc...
 
		
			
				
					
						
							
								
									
										
											
												
													
														
														
														
														Đó là những nguyên nhân 
														chính thúc đẩy đưa số 
														người Trung Hoa lưu lạc 
														khắp nơi trên thế giới 
														trong các thế kỷ trước.
													
														
														
														
														Bấy giờ tại Quảng Nam, một 
														tỉnh trù phú nằm ở trung 
														phần Việt Nam, 
														nhưng chưa được khai phá 
														đúng mức. Thời điểm ấy (khoảng 
														đâu thế kỷ thứ 14, có ba 
														họ Tẩy, Ngô, Trương (tục 
														gọi là Tam Gia, gồm ba 
														gia đ́nh, v́ họa Măn 
														Thanh t́m đến tị nạn). 
														Nguồn gốc ba họ này đều 
														thuộc huyện Chiếu An, 
														tỉnh Phúc Kiến, Trung 
														Quốc. Thoạt đầu, ba họ 
														định cư tại làng Thanh 
														Hà, Tổng Phù Triêm, phủ 
														Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam 
														(cách Hội An khoảng 4 
														cây số) lấy việc buôn 
														bán làm sinh kế.
													
 
													
													
														
														
														
														- Họ Tẩy : Con cháu lần 
														lượt xuống Hội An lập 
														nghiệp. Cháu mười đời là 
														Tẩy Huưnh, nay đă qua 
														đời. C̣n th́ lưu lạc 
														không rơ.
													
														
														
														
														- Họ Ngô : Cháu 10 đời 
														họ Ngô cư ngụ tại ấp 
														Trường Lệ (Hồ Bá Thiên). 
														Đến nay ḍng họ này cũng 
														thất tán.
													
														
														
														
														- Họ Trương : Cháu 10 
														đời họ Trương, nay đang 
														giữ phần hương hỏa tại 
														tự đường "Trương Đôn Mục", 
														tọa lạc đường Phan 
														Châu Trinh Hội An (Trước 
														kia là đường Minh Hương). 
														Thủy tổ của họ này là ông 
														Trương Hoằng Cơ.
													
 
													
													
														
														
														
														Ngày nay, tại Hội An có 
														hai nhà thờ tộc Trương: Trương 
														Đôn Hậu và Trương 
														Đôn Mục. Tông tộc của 
														hai họ này tuy cùng sinh 
														quán, cùng hoàn cảnh và 
														chí hướng nhưng không 
														cùng huyết thống.
														Việc cựu thần Minh Triều 
														và con cháu phải di tản 
														các nơi, tuy về sau 
														không rầm rộ như trước, 
														song vẫn c̣n tiếp diễn 
														đều.
													
														
														
														
														Đến đầu thế kỷ XVIII 
														(1700-1730), lúc này tại 
														Việt Nam có 
														nhiều biến cố quan trọng 
														do chuyện tranh chấp 
														quyền hành giữa Chúa 
														Trịnh - Vua Lê ở Đàng 
														Ngoài. Tại Bắc Hà, Vua Lê 
														Dụ Tông niên hiệu Vĩnh 
														Thịnh, sau đổi là Bảo 
														(1720-1724), tuy làm vua 
														nhưng quyền hành nằm 
														trong tay Chúa Trịnh- 
														tức An Đô Vương 
														Trịnh Cương Thái 
														(1709-1729) niên hiệu Hy 
														Tổ Nhân Vương.
													
 
													
 
													
														
														
														
														Nhằm lúc Bắc Hàn có loạn, 
														cháu nội Nguyễn Phúc Tần 
														là Tộ Quốc Công NGUYỄN 
														PHÚC CHU (1691-1725) 
														đương thời gọi là" Quốc 
														Chúa", chỉ nghe lời 
														khuyên của cận thần, một 
														mặt tổ chức pḥng chống 
														Lê-Trịnh ở phía Bắc, một 
														mặt t́m cách bành trướng 
														về phía Nam, đánh Chiêm 
														Thành, thôn tính Gia 
														Định, Hà Tiên của Chân 
														Lạp, mở rộng biên giới 
														tới tận mũi Cà Mau, Tây 
														Ninh. Đồng thời đặt nặng 
														việc chọn nhân tài giúp 
														nước bằng những khoa thi 
														và vỗ về bá tánh phát 
														triển nông thương nghiệp. 
														Do đó, chú trọng việc mở 
														mang các hải khẩu giao 
														thương với bạn hàng các 
														nước Nhật Bản, Xiêm La, 
														Y Pha Nho, Bồ Đào Nha...,cho 
														phép người nước ngoài 
														được tạm cư tại các vùng 
														đất mới mở mang, khiến 
														cho mạng lưới nông 
														nghiệp và thương nghiệp 
														phát triển hơn trước. 
														Thời điểm này, ngoại 
														kiều - nhất là người 
														Hoa - đến tạm cư rất 
														đông. Trong số những 
														người Hoa đến lần này có 
														mười cụ gồm mười gia 
														đ́nh mang sáu họ và một 
														ḥa thượng có Pháp Danh 
														Huệ Hường đến Quảng Nam. 
														Một trong sáu họ đó có 
														họ Trương (Trương Mậu 
														Viễn) - Thủy tổ của ḍng 
														họ tác giả bài này. Năm 
														họ c̣n lại là : Chu - 
														Huỳnh - Khâm - Thuấn - 
														Thái (di tích này hiện 
														c̣n khắc trên văn bia ở 
														chùa Phúc Kiến Hội An).
													
														
														
														
														Lúc đầu, Thập Lăo đến 
														Quảng Nam bằng đường 
														biển, vào Cửa Đại rồi 
														ngược sông Thu Bồn, tạm 
														cư tại làng Trà Kiệu 
														thuộc huyện Duy Xuyên, 
														lấy nghề buôn bán làm 
														sinh kế như những đồng 
														hương đến trước.
													
														
														
														
														Sau một thời gian, Thập 
														Lăo thấy nơi đây có 
														nhiều trở ngại cho việc 
														buôn bán v́ quá xa biển 
														nên dời xuống Trà Nhiêu, 
														Chợ Bà (cuối chợ Duy 
														Xuyên) để tiện việc kinh 
														doanh. Tại đây , Thập 
														Lăo xây một ngôi cổ tự 
														thờ Quan Vân Trường một 
														danh tướng thời Tam Quốc. 
														Di tích Quan Thánh Miếu 
														hiện vẫn c̣n.
													
														
														
														
														Do vị trí địa dư giữa 
														Chợ Bà và Thanh Hà và do 
														các thành viên di tản từ 
														Trung Hoa mang chung 
														hoàn cảnh, có chung nghề 
														nghiệp nên Thập Lăo và 
														Tam Gia có mối quan hệ 
														rất mật thiết. Từ đó về 
														sau, việc buôn bán ngày 
														càng phát đạt nên Chợ Bà 
														không c̣n thích ứng với 
														nhu cầu phát triển ngành 
														thương mại nữa khiến 
														Thập Lăo quyết định dời 
														về Thanh Hà, phối hợp 
														cùng Tam Gia khuếch 
														trương cơ sở làm ăn một 
														cách qui mô hơn.
													
														
														
														
														Tại Thanh Hà, các vị 
														tiền bối qua trước đă 
														xây dựng một ngôi chùa 
														lớn mang tên "Cẩm Hà 
														Cung". Chùa được tạo 
														dựng vào năm Bính Dần 
														(1626) đời Hy Tông Hiếu 
														Văn Hoàng Đế NGUYỄN PHÚC 
														NGUYÊN. Tại đây, khi đă 
														ổn đ́nh sinh hoạt, Thập 
														Lăo trùng tu lại và đặt 
														danh xưng "Cẩm Hải Nhị 
														Cung" làm cơ sở kinh 
														doanh chính với khách 
														hàng các nước: Nhật, Y 
														Nha Nho, Bồ Đào Nha, 
														Trung Hoa...
													
														
														
														
														Nhờ vào chính sách khôn 
														ngoan, mềm dẽo và sáng 
														suốt của các Chúa Nguyễn, 
														nền kinh tế Miền Trung 
														hồi ấy phát triển rất 
														mạnh khiến cho viêc kinh 
														doanh của Thập Lăo ngày 
														càng phát đạt. Mặt khác, 
														cũng do bản chất của 
														Thập Lăo là thành phần 
														có học, có tài sản mang 
														theo khi đi di tản và 
														nhất là họ thấm nhuần 
														đạo lư nho gia nên cung 
														cách giao tiếp của các 
														thành viên trong Thập 
														Lăo được cư dân địa 
														phương kính trọng khiến 
														t́nh cảm của cư dân đối 
														với Thập Lăo ngày càng 
														mặn nồng, mật thiết - 
														đáng kể là đối với thị 
														dân Hội An - cụ thể là 
														Thập Lăo được sự giúp đỡ 
														nhiệt t́nh của các phú 
														hộ, của chính quyền Hội 
														An sau này, khi Thập Lăo 
														di chuyển lần cuối cùng 
														xuống đinh cư tại Hội 
														An.
													
														
														
														
														Tại Hội An, chẳng bao 
														lâu tập thể của những 
														người Trung Hoa di tản 
														đến xem như đó là quê 
														hương chính của họ và 
														qua đệ nhị Thế, Tổ Tiên 
														họ Trương đă nhập Việt 
														tịch. Ở thời điểm này, 
														ngài Trương 
														Thừa Kim là người đầu 
														tiên "Người Việt gốc Hoa 
														" được cử làm trưởng 
														làng Minh Hương - làng 
														tân lập.
													
														
														
														
														
														
														A. THÀNH LẬP LÀNG MẠC - 
														Đ̀NH CHÙA MIẾU VŨ
													
														
														
														
														Như đă nói ở trên, càng 
														về sau, Thanh Hà không 
														c̣n thích nghi trước sự 
														phát triển thương nghiệp 
														nên Thập Lăo quyết định 
														thiên di về Hội An và 
														định cư cho đến ngày 
														nay. Lần thiên di này có 
														tính cách đồng bộ nên 
														Cẩm Hải Nhi Cung cũng 
														được dời theo.
														Nhờ Hội An gần Cửa Đại 
														nên rất thuận tiện cho 
														việc giao thương với các 
														tàu buôn nước ngoài. Tại 
														đây, các loại ghe bầu có 
														thể qua Cửa Đại để đưa 
														hàng đến tận Hôi An một 
														cách dễ dàng, nhanh 
														chóng. Hội An c̣n là nơi 
														tiếp nhận các mặt hàng 
														từ Tiên Sa Đà Nẵng do 
														người Bồ Đào Nha và Y 
														Pha Nho vận chuyển vào 
														bằng lừa (lúc đó Đà Nẵng 
														và cảng Đà Nẵng chưa 
														phát triển).
													
														
														
														
														Sau khi tiếp nhận hàng 
														hóa các nơi đổ về Hội 
														An, Hội An trở nên đầu 
														mối phân phối đi khắp 
														nơi trong tỉnh. Việc 
														phân phối này cũng gặp 
														những thuận tiện đáng kể 
														nhờ những thủy lộ ngập 
														nước hàng năm nên hàng 
														có thể lên tận miền núi 
														Duy Xuyên, Đại Lộc, Tiên 
														Phước, Thăng B́nh...
													
														
														
														
														
														B. TÁI TẠO CẨM HÀ CUNG 
														VÀ XÂY DỰNG LÀNG MINH 
														HƯƠNG :
													
														
														
														
														Ngay khi đặt chân đến 
														Hội An, Tổ Tiên Minh 
														Hương được sự giúp đỡ 
														tích cực của Ḥa Thượng 
														HUỆ HƯỜNG (Ông là người 
														họ Lương) và Ni Cô Diệu 
														Thành (tức là Ngô Thị 
														Lành). Nguyên bà là 
														người Việt Nam, 
														lấy chồng người gốc Hoa 
														mang họ Trịnh. Chồng bà 
														giàu có vào bậc nhất ở 
														Hội An hồi ấy. Sau khi 
														chồng chết, bà đi tu. 
														Chính bà đă đem hiến cho 
														Thập Lăo một diện tích 
														đất đai rộng lớn, chiếm 
														khoảng một nữa đất đai 
														thị xă Hội An (gồm 3 
														phường nội thị hiện nay) 
														để lập làng Minh Hương, 
														tái tạo "Cẩm Hải Nhị 
														Cung" tức chùa Bà Mụ, 
														dựng nhà thờ Tiền Hiền, 
														xây Trùng Hán Cung (tức 
														Chùa Ông) thờ Quan Vân 
														Trường, Chùa Phật, Chùa 
														Vân Chỉ...
													
														
														
														
														Ngày nay, tư liệu thất 
														lạc, khó tra cứu đất đai 
														của làng Minh Hương lúc 
														tạo dựng v́ nó không 
														phải là một dăi đất liên 
														cư liên địa, phần th́ 
														nằm trung tâm thị xă, 
														phần th́ nằm kề ranh 
														giới thị xă với các làng 
														kế cận như Cẩm Phổ, Sơn 
														Phong... lại có phần nằm 
														trên nữa đất của thị xă, 
														nữa trên làng kế cận! 
														Tuy nhiên, các di tích 
														quan trọng vẫn c̣n như 
														phần đất từ Chùa Bà Mụ 
														đổ xuống chùa Văn Chỉ là 
														một trong những phần đất 
														của làng Minh Hương liên 
														địa ngày trước,hoặc từ 
														nhà thờ Tiên Hiền Minh 
														Hương đi ngược lên hết 
														khuôn viên Chùa Ông ở 
														đầu chợ Hội An cũng 
														thuộc đất làng Minh 
														Hương.
													
														
														
														
														Công tŕnh kiến tạo 
														những đ́nh chùa miếu vũ 
														này của Tổ Tiên Minh 
														Hương có tính cách qui 
														mô như thế, không phải 
														là không có nguyên nhân. 
														Hồi ấy, các vị Tiên Hiền 
														chưa có kế hoạch và cũng 
														không tiên liệu sự phát 
														triển Hội An nên e ngại 
														với một số đất đai rộng 
														như thế có thể sẽ bị 
														chính quyền tước bớt nên 
														các ngài nghỉ cách lập 
														đ́nh chùa, gọi là nơi 
														thờ phụng - tín ngưỡng 
														được nhà nước cho phép - 
														để giữ đất !
													
														
														
														
														Những vị lăo trượng 
														trong làng trước đây 
														thường di ngôn như thế. 
														Ngày nay, dựa vào các sự 
														kiện ấy,chúng ta có thể 
														chấp nhận là đúng, v́ 
														những đ́nh chùa miếu vũ 
														ấy không có quan hệ ǵ 
														mật thiết với họ hàng Trương 
														Gia cũng 
														như với các họ hàng bạn 
														ở địa phương này. Nó 
														cũng chẳng phải là cứu 
														cánh tạo cuộc sống cho 
														ḍng họ nào mà có tính 
														cách chung cho làng, 
														tiêu biểu ḷng tín 
														ngưỡng của nhân dân, 
														điều mà không một chính 
														quyền nào nỡ hủy diệt, 
														sung công. Làng Minh 
														Hương ra đời từ đấy tại 
														Hội An. Danh xưng Minh 
														Hương có nghĩa "Minh" là 
														nhà Tây Minh chứ không 
														phải là "Minh" là sáng, 
														"Hương" là thơm chứ 
														không phải "Hương" là 
														làng,như nhiều người 
														thường bảo "Minh Hương " 
														là làng của người Minh 
														tức là thuộc Minh Triều 
														di tản sang Việt Nam - 
														kể ra lối giải thích như 
														thế cũng có lư v́ đa số 
														người ở làng Minh Hương 
														là người có nguồn gốc từ 
														các tỉnh bên Trung Quốc
													
														
														
														
														Song song với việc lập 
														làng Minh Hương, Chùa Bà 
														Mụ được tái thiết đồ sộ 
														do Tú Tài Trương 
														Chí Thi đứng ra quyên 
														góp, vẽ kiểu, đốc công 
														làm lại cổng Tam quan 
														lớn hơn và tồn tại đến 
														ngày nay. Ngài Trương 
														Chí Thi là 
														đệ tam thế kể từ Thủy Tổ 
														khai cơ Trương 
														Mậu Viễn.
													
														
														
														
														Chùa Bà Mụ gồm có hai 
														chùa lớn, một vườn hoa 
														và hai cổng hai bên. 
														Cổng này trước đó rất 
														hẹp không cân xứng với 
														hai chùa trong. Năm Mậu 
														Thân 1848 - thời Tự Đức 
														- ngài Trương 
														Chí Thi nới rộng ra. 
														Chùa có lối kiến trúc 
														của Trung Hoa nhưng hai 
														cổng th́ xây theo kiểu 
														Nhật. Từ ngoài nh́n vào, 
														sau khi qua cổng, chùa 
														bên trái thờ Thiên Hậu 
														Thánh Mẫu và 12 bà mụ, 
														chùa bên phải thờ Bảo 
														Sanh Đại Đế cùng Tam 
														Thập Lục Tướng đời nhà 
														Châu, nhà Thương được 
														Phong Thần nên được gọi 
														là chùa Ông 
														Chú. Về sau, dân địa 
														phương quen gọi hai chùa 
														là chùa Bà Mụ nên lâu 
														dần ít ai c̣n nhớ đến 
														tên Cẩm Hải Nhị Cung hay 
														chùa Ông Chú nữa !
													
														
														
														
														Đối với Hội An nói riêng 
														và t́nh Quảng Nam nói 
														chung, Chùa Bà Mụ là 
														ngôi chùa lớn nhất từ 
														trước đến giữa thế kỷ 20 
														này. Đó là kỳ quan của 
														tỉnh Quảng Nam, 
														xây cất đầu tiên trên 
														làng Minh Hương và được 
														tôn xưng "Di Tích Liệt 
														Hạng".
													
														
														
														
														Dân Minh Hương tôn kính 
														Cẩm Hải Cung - Chùa Bà 
														Mụ - nên gọi là Tổ Đ́nh. 
														Về sau, chùa này trở 
														thành nơi chiêm bái, thờ 
														phụng của dân địa phương.
													
														
														
														
														Từ khi có Tổ Đ́nh, du 
														khách thập phương, kể cả 
														người nước ngoài, thường 
														lui tới tham quan hoặc 
														t́m tài liệu cho việc 
														nghiên cứu khảo cổ, chụp 
														ảnh lưu niệm...
													
														
														
														
														Đến năm 1965, trải qua 
														bao thế kỷ, nắng mưa tàn 
														phá Tổ Đ́nh, gây nhiều 
														hư hỏng nặng nề, khó bề 
														duy tŕ di tích néu 
														không kịp thời đại tu. 
														Vào thời điểm này, làng 
														không đủ khả năng lo 
														liệu,nên sau một buổi 
														họp nhiều trưởng lăo 
														trong làng, các cụ đă đi 
														đến quyết định hiến khu 
														vực này cho Giáo Hội 
														Phật Giáo QuảngNam làm 
														Trung Tâm Văn Hóa.
													
														
														
														
														Hiện nay Chùa Bà Mụ chỉ 
														c̣n hai cổng là nguyên 
														vẹn, được chức quyền địa 
														phương bảo quản và liệt 
														vào hạng "Di Tích Lịch 
														Sử" của thị xă Hội An. 
														C̣n tượng 12 Bà Mụ được 
														chuyển đến thờ tại chùa 
														Phúc Kiến - tức Kim Sơn 
														Tự - Tượng Tam Thập Lục 
														Tướng được kư gởi tại 
														chùa Chúc Thánh (phía 
														Bắc cách trung tâm thị 
														xă chừng 2 cây số). Các 
														tượng khắc được kư gởi 
														thờ tại Chùa Âm Bổn (do 
														người Triều Châu xây 
														dựng, thờ Phục Tướng 
														Quân Mă Viện).
														C. XÂY DỰNG CÁC CHÙA MỚI 
														:
													
														
														
														
														a. Chùa Phật và Chùa Văn 
														Chỉ : Tọa lạc trên đường Phan 
														Châu Trinh ngày 
														nay (trước là đường Minh 
														Hương). Kể từ đường 
														Hoàng Diệu đổ lên hướng 
														đường Lê 
														Lợi có Chùa Văn Chỉ, 
														Chùa Phật đến miếu Quảng 
														An. Chùa Văn Chỉ thờ Đức 
														Khổng Tử. Miếu Quảng An 
														nằm góc đường Phan 
														Châu Trinh và 
														kiệt ra giếng Bá Lễ (nơi 
														này ông Phạm Phú Cần 
														dùng làm nơi dạy hoc từ 
														trước năm 1975) nay 
														không c̣n là nơi để 
														chiêm bái nữa.
													
														
														
														
														Nguyên khuôn viên của 
														hai Chùa này chiếm trọn 
														cả một vùng khá rộng kể 
														cả đường Minh Hương 
														nhưng khi thực dân Pháp 
														ổn định việc cai trị, 
														chúng mở đường, qui 
														hoạch thành phố khiến 
														diện tích hai Chùa này 
														bị phân cắt, đến nay chỉ 
														c̣n lại di tích Chùa Văn 
														Chỉ (bị bỏ hoang phế). 
														Riêng Chùa Phật, Ḥa 
														Thượng Huệ Hường dời về 
														phía sau khuôn viên Chùa 
														Ông (tức Trùng Hán Cung). 
														Chùa này được đổi tên là 
														Minh Hương Phật Tự và 
														cuối cùng lấy tên Chùa 
														Quan Âm. (Hiện nay Ban 
														Quản Lư Di Tích Hội An 
														trưng dụng làm Nhà Bảo 
														Tàng Lịch Sử Đô Thi Cổ). 
														Chính nơi đây, Ḥa 
														Thượng Huệ Hường viên 
														tịch năm 1848 và được 
														chôn ngay tại khu đất 
														trước mặt Chùa Ông (chỗ 
														giếng nước đầu chợ Hội 
														An). Về sau, hài cốt của 
														Ḥa Thượng được cải táng 
														đưa đến chôn tại Chùa 
														Chúc Thánh. C̣n Ni Cô 
														Diệu Thành, khi qua đời 
														được dân làng chôn bà 
														tại khu đất phía hông 
														Nhà Thờ Đạo Thiên Chúa 
														bên kia đường Lê 
														Hồng Phong ngày nay. Năm 
														1976, theo qui hoạch của 
														chính quyền mới, hài cốt 
														bà được đưa về chôn tại 
														Chùa Chúc Thánh.
													
														
														
														
														
														
														b. Trùng Hán Cung và nhà 
														thờ tiên hiền Minh Hương:
													
														
														
														
														Hai cơ sở này chiếm một 
														vùng đất rộng kéo dài từ 
														đường Hoàng Diệu đến chợ 
														Hội An. Trùng Hán Cung - 
														tức Chùa Ông - được 
														thành lập nên từ năm 
														1653, kiến trúc theo 
														kiểu Trung Hoa, bên 
														trong thờ tượng Quan Vân 
														Trường đời Hán, oai 
														nghiêm giữa điện thờ. Tả 
														hữu có tượng Châu Thương, 
														Quan B́nh đứng đối diện 
														trong lồng kính lớn. 
														Tương truyền Chùa Ông 
														rất đông. Tiếp với Chùa 
														Ông là nhà thờ Tiên Hiền 
														làng Minh Hương. Đây là 
														nơi thờ phượng các vị 
														sáng lập hoặc những vị 
														có công lớn trong việc 
														tạo làng Minh Hương. 
														Khuôn đất này , trước 
														kia một phần của làng 
														Minh Hương và một phần 
														của làng Cổ Trai được 
														sát nhập vào. Nguyên 
														làng Cổ Trai cũng có nhà 
														thờ Tiên Hiền tại đấy 
														nhưng diện tích nhà thờ 
														làng Cổ Trai hẹp hơn và 
														dân làng chỉ có 12 hộ, 
														thiếu người phụng tự. Do 
														đó, các chức sắc làng Cổ 
														Trai t́nh nguyện giao 
														đất và nhà thờ cho làng 
														Minh Hương sử dụng với 
														sự yêu cầu hàng năm làng 
														Minh Hương giúp đỡ cho 
														họ trong việc kỵ giỗ 
														Tiên Hiền. C̣n đất đai 
														của làng Cổ Trai cũng 
														được các nhà chức sắc 
														của làng đem hiến cho 
														các làng kế cận như Sơn 
														Phong, Cẩm Phô và tự xóa 
														tên làng từ đấy.
													
														
														
														
														Thời gian đầu, hằng năm 
														làng Minh Hương vẫn giữ 
														lệ giúp làng Cổ Trai như 
														đă giao ước trước kia 
														nhưng măi về sau, càng 
														phai lạt và chẳng mấy 
														thế hệ kế thừa sự giúp 
														đỡ ấy.
														Sau năm 1975, nhà thờ 
														Tiên Hiền làng Minh 
														Hương được chính quyền 
														địa phương sử dụng làm 
														nơi chiếu phim và quán 
														cà phê. Đến năm 1992 th́ 
														giao trả lại cho những 
														vị đại diện làng để 
														trùng tu, tái tạo lại, 
														làm nơi thờ phụng các 
														tiên linh của làng.
													
														
														
														
														(1) Có người lại cho 
														rằng tập thể những người 
														di tản từ Trung Quốc 
														sang muốn qui tụ lại 
														thành làng và đặt tên 
														làng Minh Hương để nhắc 
														nhở con cháu sau này 
														biết rơ nguồn gốc ông bà 
														ḿnh là người thuộc Minh 
														triều di cư sang lập 
														nghiệp mặc dầu càng về 
														sau, con cháu họ đều 
														nhâp Việt tịch và gần 
														như 90% không biết ǵ về 
														nguồn gốc của ḿnh là từ 
														Trung Quốc, không nói 
														được tiếng Tàu và gần 
														như đồng hóa với người 
														Việt trong mọi sinh hoạt.
													
														
															
															
															
															TRƯƠNG DUY CƯỜNG
															(Viết theo Gia Phả 
															họ Trương 
															Đôn Hậu)
														
 
														
 
													 
												 
											 
										 
									 
								 
							 
						 
					 
				 
			 
		 
		
		
		 
		
		
		 
		
		
		 
		 
		
		
		 
		Tụy Tiên Đường Minh Hương
		Đ́nh này 
		được coi là kiến trúc tôn giáo của người Minh Hương - Trung Hoa được 
		nhập quốc tịch Việt Nam để thờ cúng tổ tiên.
		
		 
		
		Tụy Tiên Đường 
		Minh Hương được cho phép xây dựng để thấy làng Minh Hương ở Hội An vào 
		giữa thế kỷ 17. Nó là một di tích tiêu biểu và đóng một vai tṛ có ư 
		nghĩa trong sự tồn tại lịch sử và phát triển của đô thị cổ - thương cảng 
		Hội An. Kiến trúc này có được một phạm vi khá lớn về xây dựng. Những bàn 
		tay khéo léo của các nghệ nhân ở làng mộc Kim Bồng đă tạo ra tác phẩm 
		kiến trúc và các thợ mộc tài năng ở Kim Bồng đang thực hiện phục hồi 
		của nó. Minh Hương Tụy Tiên Đương được phục hồi vào năm 1820, 1849, 
		1905, 1953, 1970. Đây là một điểm đến hấp dẫn cho du khách đến Hội An. 
		Tụy Tiên Đường Minh Hương đă được cấp giấy chứng nhận của khu di tích 
		lịch sử - văn hóa vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
		
		
		
		
		
		 
		
		
		Hoành phi ghi: TƯỜNG QUANG VIỄN CHIẾU
		
		Theo văn bia lập từ thời vua Duy Tân năm thứ hai (1908) đang trí tại 
		đ́nh tiền hiền Minh Hương có thể khẳng định: Đ́nh được lập năm 1820.
		
		
		明 命 初 元 建 前 賢 祠 額 曰 萃 先 堂
		
		
		MINH MẠNG SƠ NGUYÊN KIẾN TIỀN HIỀN TỪ,
		
		
		NGẠCH VIẾT “TỤY TIÊN ĐƯỜNG”
		
		
		Minh Mạng năm thứ nhất (1820) xây dựng đ́nh Tiền Hiền,
		
		
		Ghi chữ trên hoành phi là “Tụy Tiên Đường”
		Lúc này, đ́nh 
		được tạo dựng trên khu đất của miếu Văn Thánh Minh Hương hiện tại (20 
		Phan Châu Trinh).
		Đến năm 1848, 
		đ́nh được tháo dỡ dịch chuyển qua khu cận kề trong cùng khu đất, văn bia 
		lập năm 1908 ghi lại như sau:
		
		
		TỰ ĐỨC NHỊ NIÊN (1848) TRÙNG TU
		Sau lần trùng 
		tu này, đ́nh tồn tại đến năm 1905 th́ được thiên di về vị trí hiện nay.
		
		
		
		
		
		
		Chánh điện MINH HƯƠNG TỤY TIÊN ĐƯỜNG 
		
		
		(Tụy: Tụ họp; Tiên: Người xưa quá văng) 
		 
		Năm 1906, xă 
		Minh Hương cũng cho di dời miếu Minh Văn thờ Đế Quân (c̣n gọi là miếu Tử 
		Đồng) được lập từ năm 1853 tại đất Trà Nhiêu về dựng góc phía trước đ́nh 
		Tiền Hiền Minh Hương.
		Năm 1940, Xă 
		Minh Hương tiếp tục trùng tu lần thứ ba, di chuyển miếu Minh Văn sang 
		nhà tây phía sau, gắn hai văn bia của miếu Minh Văn vào nhà đông phía 
		trước, xây thêm hai nhà làm việc đồng thời tu sửa mái hiên chánh điện 
		bằng vật liệu kiên cố.
		Năm 2004 và 
		2008 thêm hai đợt đại trùng tu nữa.
		
		
		
		
		
		
		Văn bia đời vua Duy Tân năm thứ hai (1908)
		Do cử nhân 
		Trương Đồng Hiệp (1857-1926) người làng Minh Hương phụng soạn và phó 
		bảng Nguyễn Thuật (1842-1911) hiệu Hà Đ́nh, quê Hà Lam - Thăng B́nh, cử 
		nhân khoa Đinh Măo 1867, phó bảng khoa Mậu Th́n 1868, đại thần triều 
		Nguyễn, danh sĩ hưu trí hiệu chỉnh. Ông Phạm Thúc Hồng dịch nghĩa.
		
		
		"Xưa, các bậc tiên sinh của làng quá văng thờ cúng tại xă v́ các vị có 
		công đức được tôn vinh và báo đáp.
		
		
		Khi xây dựng một làng tất phải nhớ công lao của tiền nhân. Người đời 
		không thể quên đức tốt đă truyền lưu. Phải mong điều ấy! sao lại bỏ qua 
		đi !
		 
		
		
		Đền thờ làng ta phụng thờ các vị Ngụy, Trang, Ngô, Thiệu, Hứa, Ngũ, 
		mười vị đại lăo. Họ trước là cựu thần nhà minh. Vận nhà Minh đă qua, 
		ḷng họ không nhận hai vua nên từ quan, đổi tên họ, lánh nạn đến đất 
		phương nam, rồi họp người Tàu lại tại xứ nam, chọn chữ Minh để giữ 
		quốc hiệu.
		 
		
		
		Ba mươi sáu tỉnh đều có như vậy! Quảng nam có đầu tiên. Lúc đầu, họ ở 
		Trà Nhiêu rồi t́m chuyển đến Hội An là nơi gần nguồn sông thông với núi 
		và biển rất thuận lợi, quy hoạch làng xóm, xây dựng cửa hàng lưu lại 
		lâu dài cho đến nay.
		 
		
		
		Mười vị đại lăo qua đời. Ba vị đại gia kế tục gọi là : Tẩy Quốc Công, 
		Ngô Đ́nh Công, Trương Hoằng Công đều có năng lực.
		 
		
		
		Tiền nhân lúc đầu trồng dâu, lập địa bộ, khai khẩn đất hoang, lấy đất 
		bồi làm khu dân cư, mở cửa  hàng để tập họp buôn bán. các đền, chùa 
		được xây dựng trang nghiêm để thở cúng.
		 
		
		
		Thời kỳ tu tạo đ́nh chùa có bà họ Ngô là con dâu nhà tộc Trịnh đă phát 
		nguyện mua đất góp thêm vào đó. Nhà sư Huệ Hồng cúng đất chùa rất rộng 
		vào đó.
		 
		
		
		
		
 
		
		
		 Mộ sư Huệ Hồng, xưa ở ngay trước cửa Quan Công miếu. Năm 1848 thỉnh dời 
		đến chùa Chúc Thánh, bia mộ ghi: "THIÊN 
		TRỤ - VIÊN TỊCH HUỆ ĐẠI ĐẠI THIỀN SƯ CẢI THIÊN CHI THÁP - MINH HƯƠNG XĂ 
		ĐỒNG LẬP"
		 
		 
		 
		
		
		Nhân dân ḥa thuận, công việc tăng tiến, tập tục  thuần hậu, phong hóa 
		phát triển, thiên nhiên trù phú, vạn vật tốt tươi. Thật là tự làm sáng 
		rơ ba mươi mốt nơi đô hội     phương nam.
		 
		
		
		Từ triều Lê đến đất nước mới lập đều được hậu đăi và người dân không 
		chuyển làng khác. Con dấu  làng làm bằng ngà voi. Việc chính trị trực 
		thuộc cấp tỉnh điều hành. Việc khánh hạ cân nhắc tŕnh tấu. Trai  tráng 
		vào quân binh. Hằng năm, làng dâng cống vải  lụa hoặc thay thế bằng 
		tiền. Người có tài xuất chúng được nhận vào hàng quan lại.
		 
		
		
		Khi nước nhà được dựng lại, công thần giúp nước có đại tướng quân 
		tộc Lư được tùng tự miếu thờ theo hàng trung dũng, tước hầu bá cùng 
		nhiều danh nhân được phụng tự.
		 
		 
		
		
		
		
		 
		
		
		Bia mộ bà Ngô Thị Lành tại chùa Chúc Thánh qua đời khoảng năm 1685 ghi:
		 
		
		
		"THẠCH TĨNH - MINH CỐ TỶ TRỊNH MÔN PHÁP DANH DIỆU THÀNH NGÔ NHỤ NHÂN 
		MỘ - Chi 
		tuế thứ Ất Sữu niên, mạnh đông, cát đán lập."
		(Trước đây mộ nằm gần nhà thờ Công giáo Hội An, được cải táng từ năm 
		1976.)
		
		 
		
		
		Về sau, nhà cửa đông đúc, quan chức nối tiếp. lănh quản làng có ba vị tú 
		tài, có gấp đôi hai mươi chức thông dịch. Nửa số dân đinh gồm hơn ba 
		trăm người làm các công việc của tỉnh. Phải nói rằng nhiều nơi khác 
		không đâu sánh bằng như thế?
		 
		
		
		Nhớ lại, làng ta có được như ngày nay là do mười vị đại lăo xây dựng 
		nên thành tựu. Nối tiếp có ba vị đại gia công đúc to lớn như đă thấy.
		 
		
		
		Nh́n quê hương, nhớ gốc tích, người làng đồng ḷng. Tâm tưởng ấy 
		trước và sau cũng vậy! .
		 
		
		
		Thời Minh Mạng năm thứ nhất (1820) xây dựng đ́nh tiền hiền, khắc chữ 
		trên hoành phi là "Tụy Tiên Đường ”.
		 
		
		
		Thời Tự Đức năm thứ hai (1849), trùng tu.
		 
		
		
		Qua nhiều năm tu bổ nhưng đất kề đường đi ồn ào, không được yên tĩnh 
		nên đến thời Thành Thái năm thứ mười bảy (1905) xem bói rồi chuyển dời 
		sang bên trái Trừng Hán Cung xây theo tọa nhâm hướng bính đem tâm lực 
		đôn đốc công việc, chọn tháng   tư khởi công đến tháng tám hoàn thành, 
		chi phí số tiền hơn hai ngàn đồng đều do thân hào, sĩ thứ cùng với vật 
		lực quyên cúng. Nhờ như vậy mới làm nên việc đáng ngưỡng vọng.
		 
		
		
		Dân làng ta dựng văn bia để ghi chép mà biểu dương.
		 
		
		
		Tiền hiền ta công đức vô cùng to lớn;  quyên cúng làm việc thiện là điều 
		cần thiết. việc ấy không thể mất đi được vậy tŕnh bày danh tánh như 
		sau. (Có thể bia công đức này đă bị thất lạc).
		 
		
		
		Thời điểm : Duy Tân, năm thứ hai (1908), tháng bảy, ngày tốt.
		 
		
		
		Bổn xă gồm những người sinh sau cùng nghiêng đầu bái soạn.
		 
		
		
		Cử nhân khoa Giáp Ngọ, Trương Đồng Hiệp thay mặt soạn."
		 
		
		 
		
		
		 Văn bia năm Bảo Đại thứ mười tám (1943)
		Do ông Tăng 
		Kim Luyện (1880-1945), c̣n gọi là ông cữu Mính, thầy dạy chữ nho, phẩm 
		hàm: Phiếm Cửu phẩm bá hộ, phụng viết. Ông Phạm Thúc Hồng dịch nghĩa.
		
		
		"V́ rằng tiền nhân đă có công sáng tạo, hậu sinh phải có trách nhiệm bồi 
		đắp.
		 
		
		
		Tại làng ta, các vị tiền bối đến phương nam tính đă hơn ba trăm năm, 
		kiến lập đ́nh miếu nhiều nơi, trải qua nhiều đời trùng tu đều có văn bia 
		ghi lại. Hiện tại  có ba nơi thờ tự tọa lạc gần nhau giữa vùng đô thị 
		thật  rạng ngời văn vật nhưng năm tháng đă lâu, phải theo thời gian mà 
		tu bổ lại, không nên tŕ hoăn.
		 
		
		
		Mùa thu năm Canh Th́n (1940), bổn xă huy động thợ sửa sang chánh tẩm, 
		làm mới cổng tam quan chùa Phật.
		 
		
		
		Trừng Hán Cung được sơn son, trang trí và sửa mái hiên để làm nhà bia.
		 
		
		
		Tụy Tiên Đường, trước được quy tụ về cuối phố. lại lần nữa chuyển 
		miếu cũ Minh Văn đến khu đất phía tây. Lấy nguyên khu đất ấy kiến tạo 
		hai bên trái, phải pḥng làm việc của hội đồng biện sự. Phía sau có 
		vườn hoa, có tường ngoài bao bọc. Quả là đạt ḷng kỳ vọng. Ngoài ra, 
		hành lang khúc khuỷu thâm u được dựng lan can, nâng cao sáng sủa, thật 
		là tân kỳ.
		 
		
		
		Đến nay, hoàn thành công tŕnh tổng cộng chi phí số tiền hơn sáu ngàn 
		đồng. Một nửa do làng ta trích chi, một nửa do hương hào, sĩ nữ trong 
		xă và ngũ bang thành phố phụng cúng.
		 
		
		
		Làng ta không có công điền, nhưng đền miếu đều được trùng tu to lớn. 
		sở nguyện được hoàn thành do sự đồng ḷng v́ nghĩa lớn, tạo nên tiềm 
		năng toàn xă hội tức là của người làng vậy! .
		 
		
		
		Ngày nay, làng ta nối tiếp công lao của tiền nhân để lại mai sau, mong 
		có người tốt tiếp nối phong tục của làng.
		 
		
		
		Theo sự tiến triển, phép tắc của làng được phát huy, công nghiệp ngày 
		càng thịnh vượng về sau. Thật quư giá vô cùng vậy. Quan viên, hương chức 
		trong xă cùng với quư vị hăo tâm ghi tên trên bia đá để biết cùng với 
		phương danh ngũ bang thành phố, thân hào tín nữ lạc cúng liệt kê khắc 
		vào hai văn bia dựng tại nhà hiên Trừng Hán Cung...”
		 
		
		
		
		
		
		
		 Văn bia miếu Minh Văn lập năm1875
		
		
		"Tử Đồng thuộc huyện Tứ Xuyên. Trời Tứ Xuyên có sao Sâm. Sao Sâm tượng 
		   trưng trung, lương, hiếu, cẩn. Đó là vùng đất có núi cao, sông sâu 
		làm tinh thần sáng suốt.
		 
		
		
		Ở vùng ấy, có người nói rằng, cai quản trên cao là Văn Xương làm chủ 
		sáu phủ do được thưởng công truy tước. Lại có người nói rằng, thần là 
		Trương Tú, một nhà thơ, c̣n gọi Trương Trọng, người có ḷng hiếu hữu.
		 
		
		
		Đền thờ Tử Đồng ở đó có trường học rất quy cũ.
		 
		
		
		Làng ta có văn phong căn bản, ngày ngày giữ ǵn như bản in vậy. Kẻ sĩ 
		được ca ngợi chất phát, tƯơi tốt  như cây rong, cây rau nhưng lại 
		vượt lên như hàng khoa bảng.
		 
		
		
		Với ḷng tin nơi u minh, thần lặng lẽ hiện diện lâu dài. Lễ vật có 
		vượn, lừa, ngựa. việc nghĩa có thêm ứng khởi.
		 
		
		
		Thời vua Tự Đức, mùa xuân năm quư sửu (1853), những người cùng ư chí 
		trong làng xuất tiền riêng lập hội Minh Văn, lập đền thờ Đế Quân, mặc dù 
		chưa đủ khả năng, thường xuyên chọn cử người điều hành công việc. 
		
		
		
		
		
		
		 Xà c̣ miếu Văn Xương của hội Minh Văn ghi: 
		
		
		Tự Đức nhị thập bát niên, tuế thứ Ất Hợi, thất nguyệt, cát nhật.
		
		
		Minh hương xă, Minh Văn hội, bổn hội đồng tạo. 
		 
		
		
		Nhân lúc ngày tốt vào tháng giêng, người làng tập trung tại nhà Huỳnh 
		Dư Sưu, ḷng thành dọn mâm bàn thiết lễ hết ḷng cầu cúng. Do sự kính 
		trọng ấy, thần Văn Tinh đáp lễ phát chẩn ơn thần. Người trong hội có 
		việc quan, hôn, tang, tế th́ góp tiền sức giống như  người trong làng: 
		sự việc đă qua vẫn nhớ măi.
		 
		
		
		Ngài Đế Quân xưa đă di huấn, người làng không có học vấn th́ không 
		được vào hội. Người làng vào hội, không ra vào tự do. Chung quy ư chí 
		đó nhằm xây dựng quy chế chặt chẽ cho mai sau.
		 
		
		
		 Trải qua 12 năm (1853-1865), hương hỏa kế tục như ngày đầu nếu không 
		có văn chương khó đạt được tiết tháo, hành vi trong sáng đó.
		 
		
		
		Đế Quân chuộng phước đức. Chúng ta tự lập phép tắc văn chương để duy 
		tŕ.
		 
		
		
		Thời vua Tự Đức năm thứ mười tám (1865), vị quan lớn là Trung Thuận đại 
		phu, Hồng Lô Tự Khanh, làm bố chánh Quảng Nam, đỗ đầu khoa thi hương 
		năm Đinh Mùi, hiệu là Vọng Tân, tự là Hoàng Trung, họ Đặng đă viết bài 
		văn lập hội truyền lại đến năm nay.
		 
		
		
		 Cũng trước đó, quan bố chánh họ Đặng đă viết bài tựa. nhờ vậy việc 
		thành lập hội và điều lệ của hội được ghi lại cho đến ngày nay.
		 
		
		
		Đă qua 10 năm (1865-1875), không nhớ đầy đủ. nếu không có lời văn ấy th́ 
		không thể biết thời kỳ đầu lập hội.
		 
		
		
		Mùa xuân năm này (1875), cùng xuất tiền mua đất tư tại làng đông trà, 
		lấy ngày tháng tốt lập đền thờ để tế tự vĩnh viễn, báo đáp ơn thần. Các 
		nhà hảo tâm trong làng ta có khả năng đóng góp tăng thêm ḷng kỳ vọng 
		vậy.
		
		
		Nay, hội viên ghi số tiền vào bên trái, như sau :.. ... ... "
		(Văn Xương 
		Đế Quân hay Văn Xương Tinh là vị thần được dân gian lẫn Đạo giáo tôn 
		sùng là thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân
		 
		Văn Xương Đế 
		Quân vốn sinh đầu đời Chu, đă trải 73 kiếp hóa thân, từng là sĩ đại phu, 
		cuối đời Tây Tấn giáng sinh nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là 
		Bái Phu, được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương 
		phủ và Lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của nhân gian.)
		
		
		BÀI VỊ 
		
		Gian giữa thờ 
		bài vị "Minh Hương xă lịch đai hương hiền".
		Bài vị viết theo "Tụy Tiên Đường tiền hiền hương phả đồ bản" lập năm 
		Minh Mạng thứ nhất (1820), cùng năm xây dựng Tụy Tiên Đường, tu soạn năm 
		Thiệu Trị thứ sáu (1846). Lư Thành Ư chép vào mùa đông năm Tự Đức thứ ba 
		mươi ba (1880).
		
		
		
		
		Bài vị ghi Thập 
		Đại Lăo, 
		sáu họ HỨA, 
		NGỤY, NGÔ, NGŨ, TRANG, THIỆU là 
		Lục Tánh Minh Hương, Tam 
		Gia: TRƯƠNG HOÀNH CƠ, NGÔ Đ̀NH KHOAN, TẨY QUỐC TƯỜNG, 
		Liệt vịHƯƠNG 
		QUAN, HƯƠNG LĂO, HƯƠNG TRƯỞNG.
		
		Lư Thành Ư chép thập đại lăo gia gồm:
		
		
		
		Khổng thái 
		lăo gia
		
		
		
		Nhan lăo 
		gia
		
		
		Dư lăo 
		gia
		
		
		Từ lăo 
		gia
		
		
		Chu lăo 
		gia
		
		
		Hoàng lăo 
		gia
		
		
		Trương lăo 
		gia
		
		
		Trần lăo 
		gia
		
		
		Thái lăo 
		gia
		
		
		Lưu lăo 
		gia 
		Thập Đại lăo là những di thần nhà Minh, đến Hội An năm 1644. 
		
		
		
		
		
		
		 Bài vị gian thờ bên trái (đông/tả)
		
		
		Chính giữa là bài vị thờ SƯ HUỆ HỒNG.
		Sư Huệ Hồng là 
		người tỉnh An Huy, Trung Hoa. Có thể sư là trụ tŕ chùa Quảng An đời thứ 
		tư. Bài vị ghi: Trùng 
		Kiến Viên Tịch, đệ tứ đại, hiệu Huệ Hồng, húy thượng Quảng, hạ Thảng 
		công đại thiền sư liên tọa. (Trùng 
		Kiến Viên Tịch, đời thứ tư, hiệu Huệ Hồng, tên húy trên là Quảng, dưới 
		là Thảng, đại thiền sư ở ṭa sen).
		
		
		Bên phải ảnh là bài vị thờ BAN TAM BẢO VỤ.
		Lư Tam Bảo Vụ 
		Ban là một tổ chức của làng Minh Hương lập ra để quản lư làng. Bài vị 
		ghi: Lư 
		tam Bảo Vụ ban tiền văng liệt vị. Canh Tư niên (1960), xuân phân tiết. 
		Bổn thôn đồng cung tạo.
		
		
		Bài vị c̣n lại thờ CHƯ TỘC PHÁI MINH -THANH
		Bài vị ghi: Minh-Thanh 
		chư tộc phái từ đường chi tiên linh liệt vị
		
		
		
		
		
		
		 Bài vị gian thờ bên phải (tây/hữu)
		
		
		Chính giữa là bài vị thờ BÀ HỌ NGÔ:
		
		
		"Khai sơn đại Đàn Việt chủ, Trịnh môn Ngô thị, pháp danh Diệu Thành thần 
		vị"
		
		
		Bên phải ảnh là bài vị thờ HỘI MINH VĂN:
		
		
		"Văn Xương miếu, Minh Văn hội, hội viên tiền văng liệt vị"
		
		
		Bài vị c̣n lại thờ LƯ TRƯỞNG XĂ CỔ TRAI:
		
		
		"Cổ Trai xă, lư trưởng Lư Hữu Hưng thần vị"
		Dân làng Cổ 
		Trai, phía đông làng Minh Hương, cũng là người Trung Quốc đến Hội An làm 
		nghề buôn bán. Lư trưởng Lư Hữu Hưng được phụng tự như hậu hiền
		 
		 
		
		
		
		

		 
		Bài vị thờ kư 
		tự gian đông, giỗ từ tháng giêng đến tháng sáu
		Bài vị thờ kư 
		tự gian tây, giỗ từ tháng bảy đến tháng chạp 
		Ngoài ra 
		trước chánh tẩm c̣n phối thờ ba bài vị chuyển từ chùa Bà Mụ đến:
		DƯỢC VƯƠNG 
		BỔN ĐẦU CÔNG VỊ
		BẢO SANH ĐẠI 
		ĐẾ
		THIÊN HẬU 
		THÁNH MẪU
		 
		
		
		
		
		Cuối cùng là 
		xà c̣ đ́nh Tiền Hiền Minh Hương phục chế đúng nguyên mẫu Xà 
		c̣ miếu Văn Xương của hội Minh Văn. Một 
		việc làm cẩu thả và tắc trách!!
		 
Post ngày: 
		12/08/18 
Nguồn: 
		Internet