Người Minh Hương Tại
Quảng Nam
Năm 1664, sau khi thôn tính nhà Tây Minh, Măn Thanh
đặt ách thống trị khắc nghiệt lên dân tộc Trung Hoa, t́m mọi cách
phá bỏcơ chế Minh Triều, nhất là nổ lực đồng hóa đời sống văn hóa
cùng mọi sinh hoạt khác theo Thanh. Măn Thanh không dùng quan tướng
của Minh Triều mà c̣n chế tài họ hoặc trục xuất những người có ảnh
hưởng tới nhân dân ra khỏi nước. Riêng tầng lớp giàu có, các thương
gia, đại địa chủ th́ bị sách nhiễu khó bề sống nổi. Hai thành phần
này cùng một số sĩ phu yêu nước đành phải rời quê hương t́m đường
tịnạn, hoặc t́m nơi tạm ẩn ḿnh chờ cơ hội phục quốc...
Đó là những nguyên nhân
chính thúc đẩy đưa số
người Trung Hoa lưu lạc
khắp nơi trên thế giới
trong các thế kỷ trước.
Bấy giờ tại Quảng Nam, một
tỉnh trù phú nằm ở trung
phần Việt Nam,
nhưng chưa được khai phá
đúng mức. Thời điểm ấy (khoảng
đâu thế kỷ thứ 14, có ba
họ Tẩy, Ngô, Trương (tục
gọi là Tam Gia, gồm ba
gia đ́nh, v́ họa Măn
Thanh t́m đến tị nạn).
Nguồn gốc ba họ này đều
thuộc huyện Chiếu An,
tỉnh Phúc Kiến, Trung
Quốc. Thoạt đầu, ba họ
định cư tại làng Thanh
Hà, Tổng Phù Triêm, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
(cách Hội An khoảng 4
cây số) lấy việc buôn
bán làm sinh kế.
- Họ Tẩy : Con cháu lần
lượt xuống Hội An lập
nghiệp. Cháu mười đời là
Tẩy Huưnh, nay đă qua
đời. C̣n th́ lưu lạc
không rơ.
- Họ Ngô : Cháu 10 đời
họ Ngô cư ngụ tại ấp
Trường Lệ (Hồ Bá Thiên).
Đến nay ḍng họ này cũng
thất tán.
- Họ Trương : Cháu 10
đời họ Trương, nay đang
giữ phần hương hỏa tại
tự đường "Trương Đôn Mục",
tọa lạc đường Phan
Châu Trinh Hội An (Trước
kia là đường Minh Hương).
Thủy tổ của họ này là ông
Trương Hoằng Cơ.
Ngày nay, tại Hội An có
hai nhà thờ tộc Trương: Trương
Đôn Hậu và Trương
Đôn Mục. Tông tộc của
hai họ này tuy cùng sinh
quán, cùng hoàn cảnh và
chí hướng nhưng không
cùng huyết thống.
Việc cựu thần Minh Triều
và con cháu phải di tản
các nơi, tuy về sau
không rầm rộ như trước,
song vẫn c̣n tiếp diễn
đều.
Đến đầu thế kỷ XVIII
(1700-1730), lúc này tại
Việt Nam có
nhiều biến cố quan trọng
do chuyện tranh chấp
quyền hành giữa Chúa
Trịnh - Vua Lê ở Đàng
Ngoài. Tại Bắc Hà, Vua Lê
Dụ Tông niên hiệu Vĩnh
Thịnh, sau đổi là Bảo
(1720-1724), tuy làm vua
nhưng quyền hành nằm
trong tay Chúa Trịnh-
tức An Đô Vương
Trịnh Cương Thái
(1709-1729) niên hiệu Hy
Tổ Nhân Vương.
Nhằm lúc Bắc Hàn có loạn,
cháu nội Nguyễn Phúc Tần
là Tộ Quốc Công NGUYỄN
PHÚC CHU (1691-1725)
đương thời gọi là" Quốc
Chúa", chỉ nghe lời
khuyên của cận thần, một
mặt tổ chức pḥng chống
Lê-Trịnh ở phía Bắc, một
mặt t́m cách bành trướng
về phía Nam, đánh Chiêm
Thành, thôn tính Gia
Định, Hà Tiên của Chân
Lạp, mở rộng biên giới
tới tận mũi Cà Mau, Tây
Ninh. Đồng thời đặt nặng
việc chọn nhân tài giúp
nước bằng những khoa thi
và vỗ về bá tánh phát
triển nông thương nghiệp.
Do đó, chú trọng việc mở
mang các hải khẩu giao
thương với bạn hàng các
nước Nhật Bản, Xiêm La,
Y Pha Nho, Bồ Đào Nha...,cho
phép người nước ngoài
được tạm cư tại các vùng
đất mới mở mang, khiến
cho mạng lưới nông
nghiệp và thương nghiệp
phát triển hơn trước.
Thời điểm này, ngoại
kiều - nhất là người
Hoa - đến tạm cư rất
đông. Trong số những
người Hoa đến lần này có
mười cụ gồm mười gia
đ́nh mang sáu họ và một
ḥa thượng có Pháp Danh
Huệ Hường đến Quảng Nam.
Một trong sáu họ đó có
họ Trương (Trương Mậu
Viễn) - Thủy tổ của ḍng
họ tác giả bài này. Năm
họ c̣n lại là : Chu -
Huỳnh - Khâm - Thuấn -
Thái (di tích này hiện
c̣n khắc trên văn bia ở
chùa Phúc Kiến Hội An).
Lúc đầu, Thập Lăo đến
Quảng Nam bằng đường
biển, vào Cửa Đại rồi
ngược sông Thu Bồn, tạm
cư tại làng Trà Kiệu
thuộc huyện Duy Xuyên,
lấy nghề buôn bán làm
sinh kế như những đồng
hương đến trước.
Sau một thời gian, Thập
Lăo thấy nơi đây có
nhiều trở ngại cho việc
buôn bán v́ quá xa biển
nên dời xuống Trà Nhiêu,
Chợ Bà (cuối chợ Duy
Xuyên) để tiện việc kinh
doanh. Tại đây , Thập
Lăo xây một ngôi cổ tự
thờ Quan Vân Trường một
danh tướng thời Tam Quốc.
Di tích Quan Thánh Miếu
hiện vẫn c̣n.
Do vị trí địa dư giữa
Chợ Bà và Thanh Hà và do
các thành viên di tản từ
Trung Hoa mang chung
hoàn cảnh, có chung nghề
nghiệp nên Thập Lăo và
Tam Gia có mối quan hệ
rất mật thiết. Từ đó về
sau, việc buôn bán ngày
càng phát đạt nên Chợ Bà
không c̣n thích ứng với
nhu cầu phát triển ngành
thương mại nữa khiến
Thập Lăo quyết định dời
về Thanh Hà, phối hợp
cùng Tam Gia khuếch
trương cơ sở làm ăn một
cách qui mô hơn.
Tại Thanh Hà, các vị
tiền bối qua trước đă
xây dựng một ngôi chùa
lớn mang tên "Cẩm Hà
Cung". Chùa được tạo
dựng vào năm Bính Dần
(1626) đời Hy Tông Hiếu
Văn Hoàng Đế NGUYỄN PHÚC
NGUYÊN. Tại đây, khi đă
ổn đ́nh sinh hoạt, Thập
Lăo trùng tu lại và đặt
danh xưng "Cẩm Hải Nhị
Cung" làm cơ sở kinh
doanh chính với khách
hàng các nước: Nhật, Y
Nha Nho, Bồ Đào Nha,
Trung Hoa...
Nhờ vào chính sách khôn
ngoan, mềm dẽo và sáng
suốt của các Chúa Nguyễn,
nền kinh tế Miền Trung
hồi ấy phát triển rất
mạnh khiến cho viêc kinh
doanh của Thập Lăo ngày
càng phát đạt. Mặt khác,
cũng do bản chất của
Thập Lăo là thành phần
có học, có tài sản mang
theo khi đi di tản và
nhất là họ thấm nhuần
đạo lư nho gia nên cung
cách giao tiếp của các
thành viên trong Thập
Lăo được cư dân địa
phương kính trọng khiến
t́nh cảm của cư dân đối
với Thập Lăo ngày càng
mặn nồng, mật thiết -
đáng kể là đối với thị
dân Hội An - cụ thể là
Thập Lăo được sự giúp đỡ
nhiệt t́nh của các phú
hộ, của chính quyền Hội
An sau này, khi Thập Lăo
di chuyển lần cuối cùng
xuống đinh cư tại Hội
An.
Tại Hội An, chẳng bao
lâu tập thể của những
người Trung Hoa di tản
đến xem như đó là quê
hương chính của họ và
qua đệ nhị Thế, Tổ Tiên
họ Trương đă nhập Việt
tịch. Ở thời điểm này,
ngài Trương
Thừa Kim là người đầu
tiên "Người Việt gốc Hoa
" được cử làm trưởng
làng Minh Hương - làng
tân lập.
A. THÀNH LẬP LÀNG MẠC -
Đ̀NH CHÙA MIẾU VŨ
Như đă nói ở trên, càng
về sau, Thanh Hà không
c̣n thích nghi trước sự
phát triển thương nghiệp
nên Thập Lăo quyết định
thiên di về Hội An và
định cư cho đến ngày
nay. Lần thiên di này có
tính cách đồng bộ nên
Cẩm Hải Nhi Cung cũng
được dời theo.
Nhờ Hội An gần Cửa Đại
nên rất thuận tiện cho
việc giao thương với các
tàu buôn nước ngoài. Tại
đây, các loại ghe bầu có
thể qua Cửa Đại để đưa
hàng đến tận Hôi An một
cách dễ dàng, nhanh
chóng. Hội An c̣n là nơi
tiếp nhận các mặt hàng
từ Tiên Sa Đà Nẵng do
người Bồ Đào Nha và Y
Pha Nho vận chuyển vào
bằng lừa (lúc đó Đà Nẵng
và cảng Đà Nẵng chưa
phát triển).
Sau khi tiếp nhận hàng
hóa các nơi đổ về Hội
An, Hội An trở nên đầu
mối phân phối đi khắp
nơi trong tỉnh. Việc
phân phối này cũng gặp
những thuận tiện đáng kể
nhờ những thủy lộ ngập
nước hàng năm nên hàng
có thể lên tận miền núi
Duy Xuyên, Đại Lộc, Tiên
Phước, Thăng B́nh...
B. TÁI TẠO CẨM HÀ CUNG
VÀ XÂY DỰNG LÀNG MINH
HƯƠNG :
Ngay khi đặt chân đến
Hội An, Tổ Tiên Minh
Hương được sự giúp đỡ
tích cực của Ḥa Thượng
HUỆ HƯỜNG (Ông là người
họ Lương) và Ni Cô Diệu
Thành (tức là Ngô Thị
Lành). Nguyên bà là
người Việt Nam,
lấy chồng người gốc Hoa
mang họ Trịnh. Chồng bà
giàu có vào bậc nhất ở
Hội An hồi ấy. Sau khi
chồng chết, bà đi tu.
Chính bà đă đem hiến cho
Thập Lăo một diện tích
đất đai rộng lớn, chiếm
khoảng một nữa đất đai
thị xă Hội An (gồm 3
phường nội thị hiện nay)
để lập làng Minh Hương,
tái tạo "Cẩm Hải Nhị
Cung" tức chùa Bà Mụ,
dựng nhà thờ Tiền Hiền,
xây Trùng Hán Cung (tức
Chùa Ông) thờ Quan Vân
Trường, Chùa Phật, Chùa
Vân Chỉ...
Ngày nay, tư liệu thất
lạc, khó tra cứu đất đai
của làng Minh Hương lúc
tạo dựng v́ nó không
phải là một dăi đất liên
cư liên địa, phần th́
nằm trung tâm thị xă,
phần th́ nằm kề ranh
giới thị xă với các làng
kế cận như Cẩm Phổ, Sơn
Phong... lại có phần nằm
trên nữa đất của thị xă,
nữa trên làng kế cận!
Tuy nhiên, các di tích
quan trọng vẫn c̣n như
phần đất từ Chùa Bà Mụ
đổ xuống chùa Văn Chỉ là
một trong những phần đất
của làng Minh Hương liên
địa ngày trước,hoặc từ
nhà thờ Tiên Hiền Minh
Hương đi ngược lên hết
khuôn viên Chùa Ông ở
đầu chợ Hội An cũng
thuộc đất làng Minh
Hương.
Công tŕnh kiến tạo
những đ́nh chùa miếu vũ
này của Tổ Tiên Minh
Hương có tính cách qui
mô như thế, không phải
là không có nguyên nhân.
Hồi ấy, các vị Tiên Hiền
chưa có kế hoạch và cũng
không tiên liệu sự phát
triển Hội An nên e ngại
với một số đất đai rộng
như thế có thể sẽ bị
chính quyền tước bớt nên
các ngài nghỉ cách lập
đ́nh chùa, gọi là nơi
thờ phụng - tín ngưỡng
được nhà nước cho phép -
để giữ đất !
Những vị lăo trượng
trong làng trước đây
thường di ngôn như thế.
Ngày nay, dựa vào các sự
kiện ấy,chúng ta có thể
chấp nhận là đúng, v́
những đ́nh chùa miếu vũ
ấy không có quan hệ ǵ
mật thiết với họ hàng Trương
Gia cũng
như với các họ hàng bạn
ở địa phương này. Nó
cũng chẳng phải là cứu
cánh tạo cuộc sống cho
ḍng họ nào mà có tính
cách chung cho làng,
tiêu biểu ḷng tín
ngưỡng của nhân dân,
điều mà không một chính
quyền nào nỡ hủy diệt,
sung công. Làng Minh
Hương ra đời từ đấy tại
Hội An. Danh xưng Minh
Hương có nghĩa "Minh" là
nhà Tây Minh chứ không
phải là "Minh" là sáng,
"Hương" là thơm chứ
không phải "Hương" là
làng,như nhiều người
thường bảo "Minh Hương "
là làng của người Minh
tức là thuộc Minh Triều
di tản sang Việt Nam -
kể ra lối giải thích như
thế cũng có lư v́ đa số
người ở làng Minh Hương
là người có nguồn gốc từ
các tỉnh bên Trung Quốc
Song song với việc lập
làng Minh Hương, Chùa Bà
Mụ được tái thiết đồ sộ
do Tú Tài Trương
Chí Thi đứng ra quyên
góp, vẽ kiểu, đốc công
làm lại cổng Tam quan
lớn hơn và tồn tại đến
ngày nay. Ngài Trương
Chí Thi là
đệ tam thế kể từ Thủy Tổ
khai cơ Trương
Mậu Viễn.
Chùa Bà Mụ gồm có hai
chùa lớn, một vườn hoa
và hai cổng hai bên.
Cổng này trước đó rất
hẹp không cân xứng với
hai chùa trong. Năm Mậu
Thân 1848 - thời Tự Đức
- ngài Trương
Chí Thi nới rộng ra.
Chùa có lối kiến trúc
của Trung Hoa nhưng hai
cổng th́ xây theo kiểu
Nhật. Từ ngoài nh́n vào,
sau khi qua cổng, chùa
bên trái thờ Thiên Hậu
Thánh Mẫu và 12 bà mụ,
chùa bên phải thờ Bảo
Sanh Đại Đế cùng Tam
Thập Lục Tướng đời nhà
Châu, nhà Thương được
Phong Thần nên được gọi
là chùa Ông
Chú. Về sau, dân địa
phương quen gọi hai chùa
là chùa Bà Mụ nên lâu
dần ít ai c̣n nhớ đến
tên Cẩm Hải Nhị Cung hay
chùa Ông Chú nữa !
Đối với Hội An nói riêng
và t́nh Quảng Nam nói
chung, Chùa Bà Mụ là
ngôi chùa lớn nhất từ
trước đến giữa thế kỷ 20
này. Đó là kỳ quan của
tỉnh Quảng Nam,
xây cất đầu tiên trên
làng Minh Hương và được
tôn xưng "Di Tích Liệt
Hạng".
Dân Minh Hương tôn kính
Cẩm Hải Cung - Chùa Bà
Mụ - nên gọi là Tổ Đ́nh.
Về sau, chùa này trở
thành nơi chiêm bái, thờ
phụng của dân địa phương.
Từ khi có Tổ Đ́nh, du
khách thập phương, kể cả
người nước ngoài, thường
lui tới tham quan hoặc
t́m tài liệu cho việc
nghiên cứu khảo cổ, chụp
ảnh lưu niệm...
Đến năm 1965, trải qua
bao thế kỷ, nắng mưa tàn
phá Tổ Đ́nh, gây nhiều
hư hỏng nặng nề, khó bề
duy tŕ di tích néu
không kịp thời đại tu.
Vào thời điểm này, làng
không đủ khả năng lo
liệu,nên sau một buổi
họp nhiều trưởng lăo
trong làng, các cụ đă đi
đến quyết định hiến khu
vực này cho Giáo Hội
Phật Giáo QuảngNam làm
Trung Tâm Văn Hóa.
Hiện nay Chùa Bà Mụ chỉ
c̣n hai cổng là nguyên
vẹn, được chức quyền địa
phương bảo quản và liệt
vào hạng "Di Tích Lịch
Sử" của thị xă Hội An.
C̣n tượng 12 Bà Mụ được
chuyển đến thờ tại chùa
Phúc Kiến - tức Kim Sơn
Tự - Tượng Tam Thập Lục
Tướng được kư gởi tại
chùa Chúc Thánh (phía
Bắc cách trung tâm thị
xă chừng 2 cây số). Các
tượng khắc được kư gởi
thờ tại Chùa Âm Bổn (do
người Triều Châu xây
dựng, thờ Phục Tướng
Quân Mă Viện).
C. XÂY DỰNG CÁC CHÙA MỚI
:
a. Chùa Phật và Chùa Văn
Chỉ : Tọa lạc trên đường Phan
Châu Trinh ngày
nay (trước là đường Minh
Hương). Kể từ đường
Hoàng Diệu đổ lên hướng
đường Lê
Lợi có Chùa Văn Chỉ,
Chùa Phật đến miếu Quảng
An. Chùa Văn Chỉ thờ Đức
Khổng Tử. Miếu Quảng An
nằm góc đường Phan
Châu Trinh và
kiệt ra giếng Bá Lễ (nơi
này ông Phạm Phú Cần
dùng làm nơi dạy hoc từ
trước năm 1975) nay
không c̣n là nơi để
chiêm bái nữa.
Nguyên khuôn viên của
hai Chùa này chiếm trọn
cả một vùng khá rộng kể
cả đường Minh Hương
nhưng khi thực dân Pháp
ổn định việc cai trị,
chúng mở đường, qui
hoạch thành phố khiến
diện tích hai Chùa này
bị phân cắt, đến nay chỉ
c̣n lại di tích Chùa Văn
Chỉ (bị bỏ hoang phế).
Riêng Chùa Phật, Ḥa
Thượng Huệ Hường dời về
phía sau khuôn viên Chùa
Ông (tức Trùng Hán Cung).
Chùa này được đổi tên là
Minh Hương Phật Tự và
cuối cùng lấy tên Chùa
Quan Âm. (Hiện nay Ban
Quản Lư Di Tích Hội An
trưng dụng làm Nhà Bảo
Tàng Lịch Sử Đô Thi Cổ).
Chính nơi đây, Ḥa
Thượng Huệ Hường viên
tịch năm 1848 và được
chôn ngay tại khu đất
trước mặt Chùa Ông (chỗ
giếng nước đầu chợ Hội
An). Về sau, hài cốt của
Ḥa Thượng được cải táng
đưa đến chôn tại Chùa
Chúc Thánh. C̣n Ni Cô
Diệu Thành, khi qua đời
được dân làng chôn bà
tại khu đất phía hông
Nhà Thờ Đạo Thiên Chúa
bên kia đường Lê
Hồng Phong ngày nay. Năm
1976, theo qui hoạch của
chính quyền mới, hài cốt
bà được đưa về chôn tại
Chùa Chúc Thánh.
b. Trùng Hán Cung và nhà
thờ tiên hiền Minh Hương:
Hai cơ sở này chiếm một
vùng đất rộng kéo dài từ
đường Hoàng Diệu đến chợ
Hội An. Trùng Hán Cung -
tức Chùa Ông - được
thành lập nên từ năm
1653, kiến trúc theo
kiểu Trung Hoa, bên
trong thờ tượng Quan Vân
Trường đời Hán, oai
nghiêm giữa điện thờ. Tả
hữu có tượng Châu Thương,
Quan B́nh đứng đối diện
trong lồng kính lớn.
Tương truyền Chùa Ông
rất đông. Tiếp với Chùa
Ông là nhà thờ Tiên Hiền
làng Minh Hương. Đây là
nơi thờ phượng các vị
sáng lập hoặc những vị
có công lớn trong việc
tạo làng Minh Hương.
Khuôn đất này , trước
kia một phần của làng
Minh Hương và một phần
của làng Cổ Trai được
sát nhập vào. Nguyên
làng Cổ Trai cũng có nhà
thờ Tiên Hiền tại đấy
nhưng diện tích nhà thờ
làng Cổ Trai hẹp hơn và
dân làng chỉ có 12 hộ,
thiếu người phụng tự. Do
đó, các chức sắc làng Cổ
Trai t́nh nguyện giao
đất và nhà thờ cho làng
Minh Hương sử dụng với
sự yêu cầu hàng năm làng
Minh Hương giúp đỡ cho
họ trong việc kỵ giỗ
Tiên Hiền. C̣n đất đai
của làng Cổ Trai cũng
được các nhà chức sắc
của làng đem hiến cho
các làng kế cận như Sơn
Phong, Cẩm Phô và tự xóa
tên làng từ đấy.
Thời gian đầu, hằng năm
làng Minh Hương vẫn giữ
lệ giúp làng Cổ Trai như
đă giao ước trước kia
nhưng măi về sau, càng
phai lạt và chẳng mấy
thế hệ kế thừa sự giúp
đỡ ấy.
Sau năm 1975, nhà thờ
Tiên Hiền làng Minh
Hương được chính quyền
địa phương sử dụng làm
nơi chiếu phim và quán
cà phê. Đến năm 1992 th́
giao trả lại cho những
vị đại diện làng để
trùng tu, tái tạo lại,
làm nơi thờ phụng các
tiên linh của làng.
(1) Có người lại cho
rằng tập thể những người
di tản từ Trung Quốc
sang muốn qui tụ lại
thành làng và đặt tên
làng Minh Hương để nhắc
nhở con cháu sau này
biết rơ nguồn gốc ông bà
ḿnh là người thuộc Minh
triều di cư sang lập
nghiệp mặc dầu càng về
sau, con cháu họ đều
nhâp Việt tịch và gần
như 90% không biết ǵ về
nguồn gốc của ḿnh là từ
Trung Quốc, không nói
được tiếng Tàu và gần
như đồng hóa với người
Việt trong mọi sinh hoạt.
TRƯƠNG DUY CƯỜNG
(Viết theo Gia Phả
họ Trương
Đôn Hậu)
Tụy Tiên Đường Minh Hương
Đ́nh này
được coi là kiến trúc tôn giáo của người Minh Hương - Trung Hoa được
nhập quốc tịch Việt Nam để thờ cúng tổ tiên.
Tụy Tiên Đường
Minh Hương được cho phép xây dựng để thấy làng Minh Hương ở Hội An vào
giữa thế kỷ 17. Nó là một di tích tiêu biểu và đóng một vai tṛ có ư
nghĩa trong sự tồn tại lịch sử và phát triển của đô thị cổ - thương cảng
Hội An. Kiến trúc này có được một phạm vi khá lớn về xây dựng. Những bàn
tay khéo léo của các nghệ nhân ở làng mộc Kim Bồng đă tạo ra tác phẩm
kiến trúc và các thợ mộc tài năng ở Kim Bồng đang thực hiện phục hồi
của nó. Minh Hương Tụy Tiên Đương được phục hồi vào năm 1820, 1849,
1905, 1953, 1970. Đây là một điểm đến hấp dẫn cho du khách đến Hội An.
Tụy Tiên Đường Minh Hương đă được cấp giấy chứng nhận của khu di tích
lịch sử - văn hóa vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
Hoành phi ghi: TƯỜNG QUANG VIỄN CHIẾU
Theo văn bia lập từ thời vua Duy Tân năm thứ hai (1908) đang trí tại
đ́nh tiền hiền Minh Hương có thể khẳng định: Đ́nh được lập năm 1820.
明 命 初 元 建 前 賢 祠 額 曰 萃 先 堂
MINH MẠNG SƠ NGUYÊN KIẾN TIỀN HIỀN TỪ,
NGẠCH VIẾT “TỤY TIÊN ĐƯỜNG”
Minh Mạng năm thứ nhất (1820) xây dựng đ́nh Tiền Hiền,
Ghi chữ trên hoành phi là “Tụy Tiên Đường”
Lúc này, đ́nh
được tạo dựng trên khu đất của miếu Văn Thánh Minh Hương hiện tại (20
Phan Châu Trinh).
Đến năm 1848,
đ́nh được tháo dỡ dịch chuyển qua khu cận kề trong cùng khu đất, văn bia
lập năm 1908 ghi lại như sau:
TỰ ĐỨC NHỊ NIÊN (1848) TRÙNG TU
Sau lần trùng
tu này, đ́nh tồn tại đến năm 1905 th́ được thiên di về vị trí hiện nay.
Chánh điện MINH HƯƠNG TỤY TIÊN ĐƯỜNG
(Tụy: Tụ họp; Tiên: Người xưa quá văng)
Năm 1906, xă
Minh Hương cũng cho di dời miếu Minh Văn thờ Đế Quân (c̣n gọi là miếu Tử
Đồng) được lập từ năm 1853 tại đất Trà Nhiêu về dựng góc phía trước đ́nh
Tiền Hiền Minh Hương.
Năm 1940, Xă
Minh Hương tiếp tục trùng tu lần thứ ba, di chuyển miếu Minh Văn sang
nhà tây phía sau, gắn hai văn bia của miếu Minh Văn vào nhà đông phía
trước, xây thêm hai nhà làm việc đồng thời tu sửa mái hiên chánh điện
bằng vật liệu kiên cố.
Năm 2004 và
2008 thêm hai đợt đại trùng tu nữa.
Văn bia đời vua Duy Tân năm thứ hai (1908)
Do cử nhân
Trương Đồng Hiệp (1857-1926) người làng Minh Hương phụng soạn và phó
bảng Nguyễn Thuật (1842-1911) hiệu Hà Đ́nh, quê Hà Lam - Thăng B́nh, cử
nhân khoa Đinh Măo 1867, phó bảng khoa Mậu Th́n 1868, đại thần triều
Nguyễn, danh sĩ hưu trí hiệu chỉnh. Ông Phạm Thúc Hồng dịch nghĩa.
"Xưa, các bậc tiên sinh của làng quá văng thờ cúng tại xă v́ các vị có
công đức được tôn vinh và báo đáp.
Khi xây dựng một làng tất phải nhớ công lao của tiền nhân. Người đời
không thể quên đức tốt đă truyền lưu. Phải mong điều ấy! sao lại bỏ qua
đi !
Đền thờ làng ta phụng thờ các vị Ngụy, Trang, Ngô, Thiệu, Hứa, Ngũ,
mười vị đại lăo. Họ trước là cựu thần nhà minh. Vận nhà Minh đă qua,
ḷng họ không nhận hai vua nên từ quan, đổi tên họ, lánh nạn đến đất
phương nam, rồi họp người Tàu lại tại xứ nam, chọn chữ Minh để giữ
quốc hiệu.
Ba mươi sáu tỉnh đều có như vậy! Quảng nam có đầu tiên. Lúc đầu, họ ở
Trà Nhiêu rồi t́m chuyển đến Hội An là nơi gần nguồn sông thông với núi
và biển rất thuận lợi, quy hoạch làng xóm, xây dựng cửa hàng lưu lại
lâu dài cho đến nay.
Mười vị đại lăo qua đời. Ba vị đại gia kế tục gọi là : Tẩy Quốc Công,
Ngô Đ́nh Công, Trương Hoằng Công đều có năng lực.
Tiền nhân lúc đầu trồng dâu, lập địa bộ, khai khẩn đất hoang, lấy đất
bồi làm khu dân cư, mở cửa hàng để tập họp buôn bán. các đền, chùa
được xây dựng trang nghiêm để thở cúng.
Thời kỳ tu tạo đ́nh chùa có bà họ Ngô là con dâu nhà tộc Trịnh đă phát
nguyện mua đất góp thêm vào đó. Nhà sư Huệ Hồng cúng đất chùa rất rộng
vào đó.
Mộ sư Huệ Hồng, xưa ở ngay trước cửa Quan Công miếu. Năm 1848 thỉnh dời
đến chùa Chúc Thánh, bia mộ ghi: "THIÊN
TRỤ - VIÊN TỊCH HUỆ ĐẠI ĐẠI THIỀN SƯ CẢI THIÊN CHI THÁP - MINH HƯƠNG XĂ
ĐỒNG LẬP"
Nhân dân ḥa thuận, công việc tăng tiến, tập tục thuần hậu, phong hóa
phát triển, thiên nhiên trù phú, vạn vật tốt tươi. Thật là tự làm sáng
rơ ba mươi mốt nơi đô hội phương nam.
Từ triều Lê đến đất nước mới lập đều được hậu đăi và người dân không
chuyển làng khác. Con dấu làng làm bằng ngà voi. Việc chính trị trực
thuộc cấp tỉnh điều hành. Việc khánh hạ cân nhắc tŕnh tấu. Trai tráng
vào quân binh. Hằng năm, làng dâng cống vải lụa hoặc thay thế bằng
tiền. Người có tài xuất chúng được nhận vào hàng quan lại.
Khi nước nhà được dựng lại, công thần giúp nước có đại tướng quân
tộc Lư được tùng tự miếu thờ theo hàng trung dũng, tước hầu bá cùng
nhiều danh nhân được phụng tự.
Bia mộ bà Ngô Thị Lành tại chùa Chúc Thánh qua đời khoảng năm 1685 ghi:
"THẠCH TĨNH - MINH CỐ TỶ TRỊNH MÔN PHÁP DANH DIỆU THÀNH NGÔ NHỤ NHÂN
MỘ - Chi
tuế thứ Ất Sữu niên, mạnh đông, cát đán lập."
(Trước đây mộ nằm gần nhà thờ Công giáo Hội An, được cải táng từ năm
1976.)
Về sau, nhà cửa đông đúc, quan chức nối tiếp. lănh quản làng có ba vị tú
tài, có gấp đôi hai mươi chức thông dịch. Nửa số dân đinh gồm hơn ba
trăm người làm các công việc của tỉnh. Phải nói rằng nhiều nơi khác
không đâu sánh bằng như thế?
Nhớ lại, làng ta có được như ngày nay là do mười vị đại lăo xây dựng
nên thành tựu. Nối tiếp có ba vị đại gia công đúc to lớn như đă thấy.
Nh́n quê hương, nhớ gốc tích, người làng đồng ḷng. Tâm tưởng ấy
trước và sau cũng vậy! .
Thời Minh Mạng năm thứ nhất (1820) xây dựng đ́nh tiền hiền, khắc chữ
trên hoành phi là "Tụy Tiên Đường ”.
Thời Tự Đức năm thứ hai (1849), trùng tu.
Qua nhiều năm tu bổ nhưng đất kề đường đi ồn ào, không được yên tĩnh
nên đến thời Thành Thái năm thứ mười bảy (1905) xem bói rồi chuyển dời
sang bên trái Trừng Hán Cung xây theo tọa nhâm hướng bính đem tâm lực
đôn đốc công việc, chọn tháng tư khởi công đến tháng tám hoàn thành,
chi phí số tiền hơn hai ngàn đồng đều do thân hào, sĩ thứ cùng với vật
lực quyên cúng. Nhờ như vậy mới làm nên việc đáng ngưỡng vọng.
Dân làng ta dựng văn bia để ghi chép mà biểu dương.
Tiền hiền ta công đức vô cùng to lớn; quyên cúng làm việc thiện là điều
cần thiết. việc ấy không thể mất đi được vậy tŕnh bày danh tánh như
sau. (Có thể bia công đức này đă bị thất lạc).
Thời điểm : Duy Tân, năm thứ hai (1908), tháng bảy, ngày tốt.
Bổn xă gồm những người sinh sau cùng nghiêng đầu bái soạn.
Cử nhân khoa Giáp Ngọ, Trương Đồng Hiệp thay mặt soạn."
Văn bia năm Bảo Đại thứ mười tám (1943)
Do ông Tăng
Kim Luyện (1880-1945), c̣n gọi là ông cữu Mính, thầy dạy chữ nho, phẩm
hàm: Phiếm Cửu phẩm bá hộ, phụng viết. Ông Phạm Thúc Hồng dịch nghĩa.
"V́ rằng tiền nhân đă có công sáng tạo, hậu sinh phải có trách nhiệm bồi
đắp.
Tại làng ta, các vị tiền bối đến phương nam tính đă hơn ba trăm năm,
kiến lập đ́nh miếu nhiều nơi, trải qua nhiều đời trùng tu đều có văn bia
ghi lại. Hiện tại có ba nơi thờ tự tọa lạc gần nhau giữa vùng đô thị
thật rạng ngời văn vật nhưng năm tháng đă lâu, phải theo thời gian mà
tu bổ lại, không nên tŕ hoăn.
Mùa thu năm Canh Th́n (1940), bổn xă huy động thợ sửa sang chánh tẩm,
làm mới cổng tam quan chùa Phật.
Trừng Hán Cung được sơn son, trang trí và sửa mái hiên để làm nhà bia.
Tụy Tiên Đường, trước được quy tụ về cuối phố. lại lần nữa chuyển
miếu cũ Minh Văn đến khu đất phía tây. Lấy nguyên khu đất ấy kiến tạo
hai bên trái, phải pḥng làm việc của hội đồng biện sự. Phía sau có
vườn hoa, có tường ngoài bao bọc. Quả là đạt ḷng kỳ vọng. Ngoài ra,
hành lang khúc khuỷu thâm u được dựng lan can, nâng cao sáng sủa, thật
là tân kỳ.
Đến nay, hoàn thành công tŕnh tổng cộng chi phí số tiền hơn sáu ngàn
đồng. Một nửa do làng ta trích chi, một nửa do hương hào, sĩ nữ trong
xă và ngũ bang thành phố phụng cúng.
Làng ta không có công điền, nhưng đền miếu đều được trùng tu to lớn.
sở nguyện được hoàn thành do sự đồng ḷng v́ nghĩa lớn, tạo nên tiềm
năng toàn xă hội tức là của người làng vậy! .
Ngày nay, làng ta nối tiếp công lao của tiền nhân để lại mai sau, mong
có người tốt tiếp nối phong tục của làng.
Theo sự tiến triển, phép tắc của làng được phát huy, công nghiệp ngày
càng thịnh vượng về sau. Thật quư giá vô cùng vậy. Quan viên, hương chức
trong xă cùng với quư vị hăo tâm ghi tên trên bia đá để biết cùng với
phương danh ngũ bang thành phố, thân hào tín nữ lạc cúng liệt kê khắc
vào hai văn bia dựng tại nhà hiên Trừng Hán Cung...”
Văn bia miếu Minh Văn lập năm1875
"Tử Đồng thuộc huyện Tứ Xuyên. Trời Tứ Xuyên có sao Sâm. Sao Sâm tượng
trưng trung, lương, hiếu, cẩn. Đó là vùng đất có núi cao, sông sâu
làm tinh thần sáng suốt.
Ở vùng ấy, có người nói rằng, cai quản trên cao là Văn Xương làm chủ
sáu phủ do được thưởng công truy tước. Lại có người nói rằng, thần là
Trương Tú, một nhà thơ, c̣n gọi Trương Trọng, người có ḷng hiếu hữu.
Đền thờ Tử Đồng ở đó có trường học rất quy cũ.
Làng ta có văn phong căn bản, ngày ngày giữ ǵn như bản in vậy. Kẻ sĩ
được ca ngợi chất phát, tƯơi tốt như cây rong, cây rau nhưng lại
vượt lên như hàng khoa bảng.
Với ḷng tin nơi u minh, thần lặng lẽ hiện diện lâu dài. Lễ vật có
vượn, lừa, ngựa. việc nghĩa có thêm ứng khởi.
Thời vua Tự Đức, mùa xuân năm quư sửu (1853), những người cùng ư chí
trong làng xuất tiền riêng lập hội Minh Văn, lập đền thờ Đế Quân, mặc dù
chưa đủ khả năng, thường xuyên chọn cử người điều hành công việc.
Xà c̣ miếu Văn Xương của hội Minh Văn ghi:
Tự Đức nhị thập bát niên, tuế thứ Ất Hợi, thất nguyệt, cát nhật.
Minh hương xă, Minh Văn hội, bổn hội đồng tạo.
Nhân lúc ngày tốt vào tháng giêng, người làng tập trung tại nhà Huỳnh
Dư Sưu, ḷng thành dọn mâm bàn thiết lễ hết ḷng cầu cúng. Do sự kính
trọng ấy, thần Văn Tinh đáp lễ phát chẩn ơn thần. Người trong hội có
việc quan, hôn, tang, tế th́ góp tiền sức giống như người trong làng:
sự việc đă qua vẫn nhớ măi.
Ngài Đế Quân xưa đă di huấn, người làng không có học vấn th́ không
được vào hội. Người làng vào hội, không ra vào tự do. Chung quy ư chí
đó nhằm xây dựng quy chế chặt chẽ cho mai sau.
Trải qua 12 năm (1853-1865), hương hỏa kế tục như ngày đầu nếu không
có văn chương khó đạt được tiết tháo, hành vi trong sáng đó.
Đế Quân chuộng phước đức. Chúng ta tự lập phép tắc văn chương để duy
tŕ.
Thời vua Tự Đức năm thứ mười tám (1865), vị quan lớn là Trung Thuận đại
phu, Hồng Lô Tự Khanh, làm bố chánh Quảng Nam, đỗ đầu khoa thi hương
năm Đinh Mùi, hiệu là Vọng Tân, tự là Hoàng Trung, họ Đặng đă viết bài
văn lập hội truyền lại đến năm nay.
Cũng trước đó, quan bố chánh họ Đặng đă viết bài tựa. nhờ vậy việc
thành lập hội và điều lệ của hội được ghi lại cho đến ngày nay.
Đă qua 10 năm (1865-1875), không nhớ đầy đủ. nếu không có lời văn ấy th́
không thể biết thời kỳ đầu lập hội.
Mùa xuân năm này (1875), cùng xuất tiền mua đất tư tại làng đông trà,
lấy ngày tháng tốt lập đền thờ để tế tự vĩnh viễn, báo đáp ơn thần. Các
nhà hảo tâm trong làng ta có khả năng đóng góp tăng thêm ḷng kỳ vọng
vậy.
Nay, hội viên ghi số tiền vào bên trái, như sau :.. ... ... "
(Văn Xương
Đế Quân hay Văn Xương Tinh là vị thần được dân gian lẫn Đạo giáo tôn
sùng là thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân
Văn Xương Đế
Quân vốn sinh đầu đời Chu, đă trải 73 kiếp hóa thân, từng là sĩ đại phu,
cuối đời Tây Tấn giáng sinh nơi đất Thục, tên là Á họ là Trương, tự là
Bái Phu, được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho chưởng quản Văn Xương
phủ và Lộc tịch (sổ sách về quan lộc) của nhân gian.)
BÀI VỊ
Gian giữa thờ
bài vị "Minh Hương xă lịch đai hương hiền".
Bài vị viết theo "Tụy Tiên Đường tiền hiền hương phả đồ bản" lập năm
Minh Mạng thứ nhất (1820), cùng năm xây dựng Tụy Tiên Đường, tu soạn năm
Thiệu Trị thứ sáu (1846). Lư Thành Ư chép vào mùa đông năm Tự Đức thứ ba
mươi ba (1880).
Bài vị ghi Thập
Đại Lăo,
sáu họ HỨA,
NGỤY, NGÔ, NGŨ, TRANG, THIỆU là
Lục Tánh Minh Hương, Tam
Gia: TRƯƠNG HOÀNH CƠ, NGÔ Đ̀NH KHOAN, TẨY QUỐC TƯỜNG,
Liệt vịHƯƠNG
QUAN, HƯƠNG LĂO, HƯƠNG TRƯỞNG.
Lư Thành Ư chép thập đại lăo gia gồm:
Khổng thái
lăo gia
Nhan lăo
gia
Dư lăo
gia
Từ lăo
gia
Chu lăo
gia
Hoàng lăo
gia
Trương lăo
gia
Trần lăo
gia
Thái lăo
gia
Lưu lăo
gia
Thập Đại lăo là những di thần nhà Minh, đến Hội An năm 1644.
Bài vị gian thờ bên trái (đông/tả)
Chính giữa là bài vị thờ SƯ HUỆ HỒNG.
Sư Huệ Hồng là
người tỉnh An Huy, Trung Hoa. Có thể sư là trụ tŕ chùa Quảng An đời thứ
tư. Bài vị ghi: Trùng
Kiến Viên Tịch, đệ tứ đại, hiệu Huệ Hồng, húy thượng Quảng, hạ Thảng
công đại thiền sư liên tọa. (Trùng
Kiến Viên Tịch, đời thứ tư, hiệu Huệ Hồng, tên húy trên là Quảng, dưới
là Thảng, đại thiền sư ở ṭa sen).
Bên phải ảnh là bài vị thờ BAN TAM BẢO VỤ.
Lư Tam Bảo Vụ
Ban là một tổ chức của làng Minh Hương lập ra để quản lư làng. Bài vị
ghi: Lư
tam Bảo Vụ ban tiền văng liệt vị. Canh Tư niên (1960), xuân phân tiết.
Bổn thôn đồng cung tạo.
Bài vị c̣n lại thờ CHƯ TỘC PHÁI MINH -THANH
Bài vị ghi: Minh-Thanh
chư tộc phái từ đường chi tiên linh liệt vị
Bài vị gian thờ bên phải (tây/hữu)
Chính giữa là bài vị thờ BÀ HỌ NGÔ:
"Khai sơn đại Đàn Việt chủ, Trịnh môn Ngô thị, pháp danh Diệu Thành thần
vị"
Bên phải ảnh là bài vị thờ HỘI MINH VĂN:
"Văn Xương miếu, Minh Văn hội, hội viên tiền văng liệt vị"
Bài vị c̣n lại thờ LƯ TRƯỞNG XĂ CỔ TRAI:
"Cổ Trai xă, lư trưởng Lư Hữu Hưng thần vị"
Dân làng Cổ
Trai, phía đông làng Minh Hương, cũng là người Trung Quốc đến Hội An làm
nghề buôn bán. Lư trưởng Lư Hữu Hưng được phụng tự như hậu hiền
Bài vị thờ kư
tự gian đông, giỗ từ tháng giêng đến tháng sáu
Bài vị thờ kư
tự gian tây, giỗ từ tháng bảy đến tháng chạp
Ngoài ra
trước chánh tẩm c̣n phối thờ ba bài vị chuyển từ chùa Bà Mụ đến:
DƯỢC VƯƠNG
BỔN ĐẦU CÔNG VỊ
BẢO SANH ĐẠI
ĐẾ
THIÊN HẬU
THÁNH MẪU
Cuối cùng là
xà c̣ đ́nh Tiền Hiền Minh Hương phục chế đúng nguyên mẫu Xà
c̣ miếu Văn Xương của hội Minh Văn. Một
việc làm cẩu thả và tắc trách!!
Post ngày:
12/08/18
Nguồn:
Internet