|
Sơn La Kư Sự - Phần 2
(Ghi
chép về bản cũ, mường xưa)
- Nguyễn
Khôi
-
LỜI THƯA
-
-
Khoảng thời gian từ 1955 -
1975 th́ 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt Nam là khu
tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước
VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu
hay tỉnh rồi tới huyện, xă, thôn (bản). Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng
- xă) c̣n rất yếu: Chủ tịch xă, trưởng bản phần lớn nói tiếng phổ
thông (kinh) c̣n chưa thông, mới vơ vẽ đọc thông viết thạo…Để giúp
cơ sở hoạt động có hiệu lực th́ cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ
xuống giúp xă “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lư) gọi là “cán bộ phụ
trách xă”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn,
cùng ở, cùng làm với dân bản).
-
NK
tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công
tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đă
có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể
phai mờ…Nay đă ngót 40 năm, xin ghi lại đôi ḍng hồi ức “cắm bản”
ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
-
Hà Nội, 28-2-2012
-
Nguyễn Khôi
MỤC LỤC
PHẦN 2
Bài 27:
LẨU XÁ
-
Rượu cần (lẩu
xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu
xiêu).
-
* Men lá gồm các thứ
quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giă nhuyễn với gạo
tấm, sau đó nắm thành từng miếng tṛn dẹt như bánh rán, đem ủ trong
đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên
đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng giă nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ
rượu cần 7 - 9 bánh.
-
* Cái rượu:
Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc
tố ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chơ”
(dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn
đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu
bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín
(để hở th́ rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày th́ có thể dùng được,
để càng lâu th́ rượu càng đặc, càng ngọt.
-
Ngoài sắn khô,
c̣n làm bằng ngô, ư dĩ, củ dong riềng,
chuối, dừa, củ mài…
-
-
*VĂN HÓA RƯỢU
CẦN:
-
Rượu cần (lẩu xá) c̣n có tên
là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co (rượu cây) rất
đậm ngọt.
-
Rượu Thái Sơn La:
1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 -
7 ngày.
-
Khi uống: Mở nắp,
đổ nước lă sạch vào ngâm 1 phút cho
ngấm, cắm cần vào và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống
đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như là anh em “lẩu khay cáy
khả” (rượu mở là thịt gà…).
-
Khi chum rượu lẩu
xá đă mở là trống, khèn, cồng chiêng ḥa theo
các điệu “khắp”, múa x̣e dập d́u say sưa tới sáng.
-
Bên hũ rượu cần là nơi hội
tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, b́nh đẳng, không
phân biệt ai với ai.
-
* Lẩu Xá chính hiệu:
-
Tháng 11/1993,
Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu
Hội đồng dân tộc của Quốc hội do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm
trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn
Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở tỉnh Luông Phạ Bang giáp với
Sơn La.
-
Ở bên Lào: Người
Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông
nhất. Thứ nh́ là Lào Thâng (rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3
là Lào Sủng (Mèo, H’mông) ở vùng cao.
-
“Xá” là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quư tộc Thái Sơn
La xưa.
-
Thật là dân dă: Trên một băi đất rộng, các chum “lẩu xá” được bày
ra, khèn Hmông (khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất
phong phú và đặc sắc đan xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống
2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống rót nước lă pha thêm vào chum rượu)
- nước rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng
tỉnh cả người (đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn cả “ḅ húc”
của Thái Lan). Thật là vui như tết, trong cuộc vui say đoàn kết,
người người ḥa đồng với nhau tưởng như không c̣n phân biệt dân tộc,
không c̣n Quốc gia, người với người là bạn, là đồng chí anh em cùng
chung cuộc sống thanh b́nh./.
-
-
-
-
Bài 28:
ĐƯỜNG LÊN TÂY BẮC
-
*Đường lên Tây Bắc xa xôi
-
Nếp nhà sàn thấp thoáng
-
* Đường lên Tây Bắc quanh co
-
Tiếng chim rừng đây đó…
-
(Nhạc sỹ Văn An)
-
Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
-
- Nẻo thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên
Thống Nhất và hồ Bảy mẫu) qua thị xă Hà Đông theo Quốc lộ 6…
-
- Đường đi chiến
dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi
từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua đèo Lũng Lô sang Phù Yên…
-
- Đường nhánh đi
từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú
Thọ) vượt đèo Cón vào Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
-
* Sau khi
qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đ̣ bến Ta Khoa, lên đèo
Chẹn, tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống C̣ Ṇi (đường 6) lên TX Sơn
La.
-
1. NẺO QUỐC LỘ 6:
-
Quốc lộ 6 đi
từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài
504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX Hà Đông) là km số 0, điểm cuối
là TX Mường Lay.
-
*Cầu sông Nhuệ -
TX Ḥa B́nh 63km (đêm ngủ ở Ḥa B́nh hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ
6 này có đài
kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953).
-
- Từ cây số 65 TX Ḥa B́nh đến
TX Sơn La 256Km
-
- Sơn La - Tuần
Giáo 56km
-
- Tuần Giáo - Mường Lay 100km
-
Thời Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Ḥa B́nh,
sang tới địa phận Sơn La là đường 41 (xă Chiềng Yên): Khởi đầu cây
số 0 là chỗ suối Rút đổ vào sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm
1963) ô tô sáng đi từ Ḥa B́nh hay chợ Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La)
là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa, có cửa hàng mậu
dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46 (cây
số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông)
đỉnh núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt
tay; tại đây cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi
hội tụ dân bản đến mua hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá
12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu
Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xă tới bản Xẳng (xă Chiềng Xôm)
chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xă Mường Bú rồi tới Sông
Đà chỗ bến Tạ Bú).
-
Từ đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xă Lơng Luông (Mèo)
tới chân đèo là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào -
cây số 64 có cửa hàng Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông
trường Mộc Châu (sau này thêm nông trường ḅ sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy).
Chợ Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông vui, thấy máy cày, máy kéo
biểu tượng của Chủ nghĩa xă hội hồi những năm 60 của thế kỷ 20 “anh
đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc Châu
đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia
rượu, thịt ḅ xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa
hè cũng dưới 20oC).
-
Sáng hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số 82
là hết địa phận nông trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú
Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1 bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn
Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi, chuối, muỗm, đường phên… bày
đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn suối có cầu đi vào thị
trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối…
-
Cơm trưa ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống C̣ Ṇi, Hát
lót vượt dốc Mường Hồng vào khu sân bay Na Sản… khoảng 2 - 3 giờ
chiều là tới thị xă.
-
Thị xă Sơn La hồi 1963 - 1965 các ṭa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng
chân đồi Khau cả là dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các
dăy nhà cấp 4 cho cán bộ công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế
c̣n ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có 21 người).
-
Thời đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà
Nội - Sơn La mất 2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đă là
ḷng hồ sông Đà), nay đi mất có 6 tiếng đồng hồ.
-
-
2. NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
-
-
“Cho tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới
được khởi công để cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…,
con đường nối từ ngă 3 Vực Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên
Bái) lên đèo Lũng Lô”.
-
“Đèo Lũng Lô anh ḥ chị hát”
-
(Thơ Tố Hữu)
-
Từ đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra C̣ Noi (Sơn
La). Từ ấy mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang
Tây Bắc và cũng là con đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ
đội - dân công lên đánh Pháp giải phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ
(1953 - 1954) làm chấn động địa cầu. “Đường lên Tây Bắc quanh co”
chính là đi lối này.
-
“Lũng Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”.
Đèo Lũng Lô ngăn cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong
sương mù bao phủ, bốn mùa ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề.
Trước ngày h́nh thành đường 13A, Lũng Lô chỉ là một con đường ṃn
men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng mới có dân bản
Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn
muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày
giáp hạt. Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với
h́nh tượng là trên đỉnh đèo mây mù trắng, nh́n từ chân đèo lên đỉnh
xuyên qua một lối ṃn dưới tán cây cổ thụ th́ thấy như một cái lỗ
thủng trên trời cao? Cũng có ư kiến giải thích “lũng” là thung lũng,
“lô” là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc (1953) Lũng Lô thuộc
khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất kiên cường.
Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ không dám bén mảng đến. (theo Đinh
Chanh - văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004).
-
3. Nẻo qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là
thêm 1 đường chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
-
Quốc lộ
6 tới địa điểm C̣ Ṇi (co là cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy
loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay dùng đan phên liếp thưng
nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay B26 của Pháp dội bom chặn đường
quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
-
Con đường 13A
(nay là đường 37) từ
đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra C̣ Ṇi xưa qua đoạn núi Pu chạng
hảy (dốc voi khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa
(nay đă có cầu) qua pha Sông Đà lên đèo chẹn.
-
4, Đường lên Tây
Bắc thời Lê Trịnh : Theo Lê Qúy Đôn trong “Kiến
văn tiểu lục” th́ một dải sông Đà có 8 châu (huyện).
-
8 châu thuộc
Phủ Gia Hưng là Phù Yên, Mộc Châu, Đà
Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
-
3 châu thuộc
phủ Điện Biên là Ninh Biên, Lai Châu và
Tuần Giáo.
-
3 châu thuộc phủ An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh
Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên th́ Châu Phù Hoa (nay
là Phù Yên) đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10 ngày;
châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Tŕnh ban (Chiềng Ban),
Tŕnh chanh (Mường chanh).
-
- Châu Sơn La đi
mất 12 ngày, có một xứ gọi là “hang cá” (chính là bản Bó Cá
có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong (Hiếu Chai - Mường Chai).
-
- Lên Châu Thuận
(Mường Muổi) hết 12 ngày.
-
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất
20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
-
- Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường Lay) đi đường 22 ngày phong
tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người Thái trắng).
-
- Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường Quay (Mường Quài = con trâu) đi
mất 18 ngày.
-
- Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè
-
Hồ Chí Minh viết:
-
Đi đường mới thấy gian lao
-
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
-
“Đường lên Tây Bắc” quả thật là như vậy.
-
7/3/2012 - NK
-
-
-
Bài 29:
CÂY MẮC CHAI
-
Ở Tây Nguyên, bên
Lào có cây Kơnia đặc thù, đă đi vào lời ca tiếng hát, như một biểu
tượng của quê hương xứ sở… th́ ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La)
có cây Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là
một loại cây thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao
vài ba chục mét, gốc hai ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tṛn
như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá cây Quéo), thường là cao vượt
lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi Quốc lộ 6 hay bề
Bản, từ xa hàng cây số, ta đă trông thấy cái tán quả cầu xanh Mắc
Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời
vợi như đang chờ đón đợi ta về…
-
Ở cây Mắc Chai
như một điềm nghịch lư của tạo hóa: Cây th́ cao to vật vă nhưng
quả th́ lại bé như quả trứng gà (có khác ǵ một bà mẹ to béo đẫy đà
hết cỡ lại đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm
tới 4/5 thể tích quả (thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại:
Khi quả chín, chỉ một làn gió là nghe tiếng “lộp bộp”, một loạt quả
tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước khi ăn quả vú sữa Miền
Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột vàng óng) th́
ôi thôi rồi: Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay Mun
Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được
thưởng thức thơm mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc
cùng những người dân bản địa da đen như bồ hóng.
-
Thời chiến tranh,
ai từ Thuận Châu về thị xă, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp
vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm
nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông rồi ngả lưng đánh giấc. Ṿm cây
Mắc Chai như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa che kín mắt bọn giặc
trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền cành
kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa… và cây Mắc Chai
như Mẹ hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ b́nh yên để rồi (lấy sức)
lại lên đường ra trận…
-
Cây Mắc Chai như ai đứng đợi
-
Đón ta về ngọt lịm giấc trưa.
-
-
-
-
Bài 30:
HOA BAN
-
-
* Chua chụ xướng chua bók ban
-
Pan Péng xướng pan
bók khẳm
-
(Đời son trẻ như hoa ban
-
Đời thương như hoa khẳm).
-
Hoa Ban Tây Bắc
là biểu tượng, là tín hiệu nghệ thuật đặc
thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người Sơn La -
Tây Bắc.
-
Nó là loài ḥa kỳ diệu gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên với đời
sống con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là h́nh tượng thơ
tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính cách
cao đẹp, mối t́nh thủy chung của con người.
-
Tết xong: Hoa đào
đỏ, hoa mơ, hoa mận nở trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió
lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân,
trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt nương, khát khao cháy
bỏng trời đất và ḷng người th́ đột nhiên qua một đêm tất cả các
cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú)
cây đơm hoa, mát thơm dịu ngọt…
-
Thật là cái đẹp, cái ngọt, cái mát trời cho giữa ngày tháng 3 nắng
nóng ngột ngạt.
-
“Mùa hoa
-
Người đàn bà
-
Mặt đỏ phừng
-
Đủ sức vác ông chồng
-
Chạy phăm phăm lên núi.
-
Mùa hoa
-
Người đàn ông
-
Mệt như chiếc áo rũ
-
Vừa vịn rào vừa ngái ngủ”
-
- Y Phương.
-
Đó là mùa động
t́nh (t́m bạn) của con
Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi.
-
Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp” cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay
tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh chúa): Tựa như 4
cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả bông
hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng)
mềm mại trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét h́nh khối
rất lạ mắt. Nếu nh́n xa th́ mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm
mà cánh chúa và nhị hoa là thân và ṿi bướm, 4 cánh c̣n lại là 4
cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm bay rập rờn trong gió
xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là vậy.
-
Cây Ban ở Sơn La thường mọc trong các phiêng đá lồi đầu, những
triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
-
Ở nhiều nơi như
Lào, Malaysia, Nam
Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa
th́ cây vẫn xanh, hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc
Việt Nam. Tất cả cành trơ khẳng khiu qua một mùa đông sương muối
(dưới 0oc về đêm), sang xuân là “Ban pún” lấm tấm mầm non
của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu mùa (để gieo ngô,
trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi Xuân ấm
nóng (của gió Lào) mà nở bung.
-
“Và em ơi,
một đêm xuân
-
Hoa Ban bừng nở
-
tần ngần
-
chào em ”.
-
“Nghĩ đến
em đi đường sông chỉ thấy đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa
Vông rụng đầy ḍng trôi…”
-
Lúc hoa Ban
tàn để lại quả non trong đám lá xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân,
báo hiệu mùa làm nương rẫy mới.
-
Hoa Ban tàn anh hăy tra ngô
-
Hoa Ban làm
quả anh hăy
dọn nương tra lúa.
-
Cây Ban là
cây “chỉ thị”: Đất nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
-
Kinh nghiệm dân
gian Thái: Nh́n Ban nở để dự đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm
nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai
bên bờ suối là năm ấy mưa không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt,
ít hạn hán (mưa thuận gió ḥa) mùa màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô
đầy bồ.
Về món rau mùa khô (cuối xuân) th́ hoa Ban cả một rừng, dân bản tha
hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm
nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi
sữa, giải độc.
-
Hạt Ban già rang lên ăn thơm
ngậy.
-
Rễ Ban đỏ chữa
dạ dày, gan. Lá ban nấu để rửa vết
thương, sát trùng.
-
Song hau hặc căn báu mau Ban bók
-
Báu hên mua bók Ban xia
-
Báu tính bươn
tính pi
-
Sướng pi
cánh nọng hau hặc nhám lằng
-
(Đôi ta yêu nhau không tính mùa
Ban nở
-
Không thấy ngày Ban tàn
-
Không tính tháng, không tính năm
-
Măi măi như mùa
ban đầu đôi ta yêu nhau).
-
Ngoài hoa Ban,
ở Sơn La - Tây
Bắc dọc theo các khe suối c̣n có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự
tích “bó mạ khun chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi
chết hóa thành bông hoa Mạ, xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón
các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự t́nh nơi bến tắm bản quê./.
-
8/3/2012 - NK
-
-
-
Bài 31:
ĐÔI NÉT VỀ
LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN LA
-
* Người Thái - mơ
hồ trong tên gọi? Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với
1,16 triệu người), tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái
tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm).
Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
-
Thư tịch
cổ gọi Điền Việt, Kim X́, Hắc Xỉ, Hoa Man,
Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
-
Thời Hán quận Ích
Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi
di cư theo dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan,
theo sông Hồng xuống Việt Nam.
-
* Người Thái ở Việt Nam:
-
C̣n được gọi
là Tày Khao (trắng) đăm
(đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu
Thay, Thổ Đà Bắc.
-
Nguồn gốc: Bách
Việt, gồm với nhóm Choang (tráng), Tày, Nùng.
-
Di
cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13, trung tâm là Mường Theng (Điện
Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan (Myanma), đông bắc
Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn na).
-
Ở Việt Nam: Đời
Lư 1067 có Ngưu Hống (rắn hổ mang - tô
tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của
triều Trần.
-
Các thủ lĩnh Thái được gọi
là “Phụ đạo”.
-
- Họ Đèo cai quản
các Châu Lai (lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ,
Hoàng Nhan.
-
- Họ Cầm cai
trị Châu Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo,
Châu Luân, Châu Ninh Biên.
-
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
-
- Họ Hà cai quản Châu Mai
-
- Họ Bạc ở Châu Thuận
-
- Họ
Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt - Yên Châu).
-
Dân số: 2009
có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở Việt Nam) có mặt khắp cả nước.
(Sơn La có 572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An 295,132
người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu
119,803 người, Yên Bái 53,104 người,
Ḥa B́nh 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.
-
* Họ của người
Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm,
Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm,
Lịm) Lư, Ḷ, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam,
Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, ph́a, Quàng (Hoàng,
Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Ṭng (Tọng), Vang, Vi
(V́) Xa (Sa), Xin.
-
- Ngôn ngữ: Nhóm
ngôn ngữ gốc
Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kađai.
-
- Kinh tế:
Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu,
ḅ, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm.
-
- Gia đ́nh: Phụ hệ, vợ theo
họ chồng, có tục ở rể.
-
Hôn nhân một vợ một chồng.
-
- Tục lệ ma chay:
Chết là về Mường trời tiếp tục
sống ở thế giới đó.
-
- Văn hóa: Thần
thoại, cổ tích, truyền thuyết khá
phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao,
khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
-
- Nhà cửa: Người
Thái đen có nhà nóc h́nh mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau
cút (hoa nhà) rất độc đáo.
-
- Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
-
Nam giống với người Tày, Nùng,
Kinh.
-
Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa
cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ
tṛn đứng.
-
Đầu đội khăn Piêu
thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống
(kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
-
Khi lấy chồng tóc
búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái
trắng vẫn búi tóc sau gáy).
-
-
CÔNG TR̀NH
KIẾN TRÚC
-
-
Người thái sang
ở Sơn La đến nay đă trên 10 thế kỷ nhưng không thấy có dấu vết ǵ về
các công tŕnh kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá
bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xă ra phía Chiềng Xôm?
Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này
trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)…
c̣n không hề thấy Đ́nh, Chùa, đến Miếu ǵ ở Sơn La đất cũ?
-
Người Thái ở Sơn
La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ
“Phi” (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong,
không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường
trời, xong coi là xong.
-
Nhà ở người Thái:
hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục
đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê)
hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa.
-
.Người
Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
-
-Thái
trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường
La).
-
-Thái đen (Tày đăm)
ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mă. Đặc biệt Thái
đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng trên cả về tiếng nói, ăn
mặc, phong cách, tập tuc.
-
Chi
(ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi
ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xă Huy
Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - “khoong” là một địa danh
miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà
(Bắc Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng là địa danh ở
Thanh Hóa.
-
Tay đeng (Thái đỏ
Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường
Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ
(đời Lư) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi
Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
-
Cuộc di cư này do
chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu
vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh
Vi Khăm ngược lên Mường Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
-
Do đi tới nơi đất
mới nên: Ở
Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Ṭng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong
= lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi
khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động: rừng già,
rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn
thấy nhiều cây chuối rừng v́ đất quanh năm ẩm ướt.
-
Họ “Vi Khăm” sau
đổi thành họ
Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
-
- Chúa Vi Khăm vào triều đ́nh (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành th́ Quan
coi cổng thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ tên ǵ ở đàu tới? Do ngôn
ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ư đi “Tôi là ở xa đến” -
Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả lung
tung ghi xa = Sa”?
-
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc
tranh giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường
dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh v́ đă thề độc “cụ chí pái sá xịa
mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không
chung Họ nữa).
-
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của ḍng Vi Khăm. Măi về sau gọi
chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng
là “Chúm mú Vi Khăm ” - (ḍng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
-
* Quan hệ xă hội Thái:
-
Cơ cấu xă hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Ph́a Tạo Tông Tộc
gọi là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
-
- Ải noọng: Nam giới 4 đời trong
gia tộc (bên nội):
-
- Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
-
- Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
-
-
Bài 32:
MƯỜNG
TRỜI
-
-
Với người Thái:
chia vũ trụ thành 3 tầng theo một
trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm
(mường người thấp) và dưới cùng nữa là ḷng đất là Mường bọoc đai
(Mường của những người lùn sống trong ḷng đất). C̣n gọi Mường Pha
là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu - ngoài ra c̣n gọi là
Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở
Qùy Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái th́ Mường Phạ là
nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, h́nh tṛn
úp lên mặt đất. C̣n đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được
một phần. Tầng trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên,
đó là một thế giới hỗn mang, chưa định h́nh, không rơ ràng, rất ít
ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
-
Xuống thấp hơn
là Mường Then của các vị thần linh, c̣n tổ tiên của người Thái th́
ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, c̣n nhóm Tày
Dọ (đều ở Nghệ An) th́ gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ
của người chết theo các ḍng họ khác nhau, rồi lại c̣n phân đẳng
cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Ḷ Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp
mới là các họ b́nh dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa
và bậc cuối).
-
Theo Cầm Trọng th́
người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông” (quư tộc) và
“đẳm hướn nọi”cho thường dân.
-
Mường Then là h́nh ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động
sản xuất, đó là một xă hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm
tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như
thiên đường), vị thần chủ là “Then Luông” (Then lớn) - thường gọi là
P̣ Then: Cai quản cả thế giới.
-
Dưới P̣ Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná,
Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lư các ḍng họ Quư tộc,
thấp hơn là Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng
cai quản trông coi các họ b́nh dân… tuy vậy có những ḍng họ khác
nhau nhưng lại chung 1 Then Ná.
-
Ở Then Ná c̣n có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me
bẩu (đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi
chỉ sang Then Bẩu (khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi
rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu
thai…
-
Trên Then Ná c̣n có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả trông coi vườn mệnh
và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được b́nh yên, trên Then Ná có một
vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa
Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy
đều th́ hồn khỏe mạnh, con người được b́nh an, nước không chảy th́
cá chết, mệnh người cũng hết.
-
Chính v́ vậy: Khi con người lên cao tuổi thường tổ chức lễ “Tum
bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại máng nước), để
tăng tinh lực và sức sống cho con người.
-
Ở Mường Then c̣n
có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm”
trông coi việc thiện, Then Tàng lo làm ra con người và loài vật,
Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,… Then Bắc
theo dơi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo
quản lư phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then
Ú, Then Đá lo xử phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi
ở của các hồn người chết (chết không b́nh thường) th́ phải vào
“Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm - C̣n b́nh thường th́ vào
Đẳm Chào.
-
Trạm dừng
chân đầu tiên do Mo dẫn
hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần gian gặp nhau là Táng Cộp
“Táng cộp nừng hả phiền” - Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ âm phủ) đan
xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi
thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không
b́nh thường kéo tới đây kiếm ăn - v́ thế người Thái rất sợ phải qua
nơi này; khi đói loại ma này c̣n xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
-
MƯỜNG NGƯỜI
-
Mường Lùm: Qua
tụt khỏi Mường Phạ, xuống dưới là Mường Lùm (cơi người) là mường
ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm
phạ”.
-
Lùm là thấp,
thung lũng - C̣n
gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng phẳng ở dưới gầm mường
trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế giới của
con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ - Mường Phạ là cơi
hư, tâm linh, c̣n Mường Lùm là cơi thực của con người và các loài
vật, là các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân
số” của các loại Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên
khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang thang ở các Mường Phi, người th́
ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở mường sâu, phi ngược
ở vùng nước xoáy cùng cơi Mường Lùm do con người làm chủ thể).
-
MƯỜNG
BOỌC ĐAI
-
Là “Mường trong
ḷng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây
là ở Quỳ Châu (Nghệ An), c̣n phía Sơn La - Tây Bắc không có khái
niệm này. Đó là thứ “phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.
-
“Cờ boọc đai” là
cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén
tằm (cái suốt) - Boọc c̣n có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu
tượng của lũ người tí hon sống dưới ḷng đất, đứng đầu là “vua hoa
tơ” (Pủa boọc đai).
-
“Phi” với người
Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và
cả hồn, vía người đang sống - “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một
thứ sơ khai của Tôn giáo.
-
Linh hồn người
sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi
bướn”, với các thần linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn,
phi một) rồi phi bản, phi mường, phi pú, phi huổi, phi pá…
-
Thế giới của Phi
có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con
người (can thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn…
-
*
-
* *
-
Theo Hoàng Nó (Sơn La) th́:
-
Quan niệm
về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc
gọi là “Then ngồi chơng” (Then năng
chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng
“sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt…
-
11 Then
gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum
Vang (như Ngọc Hoàng).
-
Hai là “Then
chăng tê ba” - chữ
“tê ba” gốc chữ Pali - Sancrít th́ Têbra nghiă là “cơi trời” - hư
vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người… Ba là “Then Ban”
tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu…
-
* Tục lệ cúng Then: Có 3
lễ chính:
-
1. Căm xeng:
Báo ngày kiêng cấm
-
2. Xên
kẻ: Cúng giải hạn
-
3. Xên hươn: Cúng nhà tức
tổ tiên
-
Tháng giêng
Tạo kiêng kỹ
-
Tháng hai Tạo
căm xeng
-
* Đêm của ngày
kiêng cấm: Mỗi nhà lấy
một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đ̣n gánh - tượng trưng
để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đ̣n gánh treo một
túi xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn - Đặc biệt bắt 1 con dế
mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy - Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó
tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then.
C̣n có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong ḅ vẽ treo lên mái nhà để
báo hiệu nhà tôi đă thực hiện đầy đủ cúng căm xeng.
-
* Xên kẻ: Cúng
đầu tháng 2, cụ tổ phải lên chầu Then
phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà
Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con,
trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 ṿng tay bạc, xung quanh mâm có
đốt nến (sáp ong).
-
Đọc hát bài Xên
do bà Một g̣i là
“Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu
xin phúc lộc”.
-
* Xên hươn c̣n
gọi Ló Liêng tổ chức cúng nhà trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào
các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành mộtchuỗi
lễ hội đan xen căm xeng - xên kẻ và xên hươn.
-
Xiên hươn
là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để
đưa tiễn đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường phi của các hồn.
-
-
-
Bài 32:
XỬA CỎM
ÁO NGẮN PHỤ
NỮ THÁI
-
-
-
Trong trang phục
Thái th́ cái áo ngắn (Xửa cỏm, xửa cóm) là độc đáo
và đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo h́nh được đẹp như thế.
-
Áo phụ nữ Thái có
nhiều kiểu dáng: Áo dài (xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc
pém) gọi là xửa cỏm, áo ngắn hở nách là “xửa khép”…
-
“Xửa cỏm” cổ
truyền vừa là lễ phục vừa là thường phục, chỉ
khác là về chất liệu vải (vải thường hay tơ lụa, cát bá, sa tanh)
khi đi lễ th́ quàng thêm tấm thổ cẩm rộng chừng ba bốn mươi phân hơi
lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật ở phần hạ bán
thân, chỗ ngay thắt lưng “xửa eo” xuống.
-
Màu sắc xửa
cỏm tùy thị hiếu từng người có thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ
tằm hay nhuộm hồng nhạt hoa đào, xanh thanh thiên, màu tím hay màu
nơn chuối… đó là những màu sắc được ưa chuộng (vải tự dệt) mua của
người Kinh, người Hán…, c̣n Váy th́ màu đen, đen nhánh, váy lụa th́
nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao cho thật đen, thật mượt.
-
Xửa cỏm may
thân áo bó sát người, tay áo rộng, từ nách khâu hẹp dần xuống.
Gấu áo khâu lót thêm 2 lần vải, rộng chừng ba phân, khâu đột nịt
chặt ôm lấy ṿng eo thắt đúng lưng long, phần trên đủ ôm lấy bộ ngực
nở nang khít khao gây ấn tượng. Mép gấu áo chỉ đủ chấm tới mép cạp
váy, ngang thắt lưng nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng, dướn
ḿnh hay ngă về phía sau th́ hơi hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm.
Trước ngực từ tới Rốn là 2 hàng cúc bạc “mắc pém” như một đàn bướm
bay dọc trên 2 nẹp tà áo.
-
Về số cúc bướm (mắc pém) có 2
ư kiến:
-
1. Hàng mắc pém
với số lẻ 11 cặp được bố trí khéo léo dày đặc lấp lánh trên ngực
phụ nữ Thái - Số lẻ ở đây tượng trưng cho sự vận động, phát triển đi
lên (số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không động, không phát
triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang sống thường thiết kế
với số lẻ, c̣n để cho thế giới hư vô “phi” là số chẵn).
-
Bậc cầu thang để
lên xuống nhà này hàng
ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi đưa ma.
-
2. Hai là: Màu
nền tà áo không trùng với màu áo và cúc bạc. Số cúc bao giờ cũng
“số chẵn” với
ư nghĩa đầy đặn, trọn vẹn dành cho chồng con - khác với những số lẻ
trong kiến trúc nhà ở, “lẻ” là sự sinh sôi phát triển.
-
Hai ư kiến
trên đều có lư lẻ…
Thực tế ở mỗi vùng, mỗi chi (ngành) Thái có quan niệm khác nhau đôi
chút - có lẽ là:
-
* Với con gái chưa chồng th́ Xửa
Cỏm có số hàng Mắc phém số lẻ.
-
* Khi có chồng con rồi th́ xửa
cỏm có số hàng cúc bướm số chẵn.
-
Cũng
có thể số hàng chẵn
hay lẻ phụ thuộc vào chiều dài của áo (áo người cao hay thấp) miễn
sao cho nó cân đối hợp lư là đẹp.
-
Xửa cỏm của
phụ nữ Thái đen: Cổ áo cạp hai lần vải, khâu đột, cổ đứng có phần
g̣ bó cứng nhắc th́ xửa cỏm của chị em Thái trắng lại bẻ
tai, chiết giấu mép, ṿng cổ rộng h́nh trái tim mở dài hở đến trước
ngực rất mềm mại duyên dáng.
-
Các cô gái rất ưa
kiểu xửa cỏm
này, c̣n các “bà xă” khi vẻ đẹp lư tưởng “eo kíu meng nhay” lưng eo
con ṭ ṿ không c̣n nữa, th́ các chị rất ư tứ khi mặc xửa cỏm đă
khéo léo dùng các móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đă qua nhiều lần
sinh đẻ) rồi vừa cài cúc bướm nên vẫn tạo được h́nh dáng thon thả
gọn gang.
-
VÁY THÁI:
-
-
Có nhà thơ đă cảm:
-
“Váy em sắm lệch, nhiều khi cũng
t́nh”
-
Váy (xỉn) của
phụ nữ Thái màu đen, khâu kín mép kiểu váy ống, ṿng
ống rộng gấp đôi ṿng eo, cạp váy màu trắng, c̣n độ dài tùy theo cao
thấp của người mặc và thường là chùng quá bắp chân. Ở trong gấu váy,
chị em cạp thêm một đường viền vải màu đỏ thắm rất cách điệu gợi
cảm:
-
Ai đó hát ngất
ngư Phố
Bản
-
Lũ nghé tơ
nhảy giỡn rộn bờ khe
-
Ngọn gió quẩn thổi tung viền
váy đỏ
-
Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng
tre.
-
Váy mặc bó sát
vào mông, tạo 1 đường cong thật đúng như một nhà Văn Trung Hoa đă
khắc họa cái đẹp “phong nhũ phi đồn” (vú nở, mông to) của người
phụ nữ đang th́ của thời hoạt động t́nh
dục mạnh mẽ, sinh con đẻ cái để ṇi giống phát triển và trường tồn.
-
Khi mặc váy nếp
phần thừa quấn vào một bên hông rồi gấp bẻ trở lại đằng trước
thành một đường chiết ly thẳng từ eo xuống gấu váy. Tuy thế, nếp gấp
này không làm mất đi nét uốn lượn ở phần hạ bán thân của người phụ
nữ Thái.
-
Thắt lưng được
làm bằng lụa tơ tằm dài gấp 2 lần rưỡi ṿng eo, rộng chừng bốn năm
phân, màu hoa lư hoặc màu xanh nơn chuối. Hai đầu chính nối thêm 2
mẩu vải màu đỏ chói gây chú ư.
-
Từ nhỏ các bà, các
mẹ đă dạy con cách thắt khăn nơi thắt lưng (xài yêu) để sao “Eo kíu
manh po” (thắt đáy lưng con ṭ ṿ).
-
Khi thắt lưng
th́ thắt ngay dưới cạp váy trên hông, mối đằng trước hơi chếch
về phía bên hông một chút. Ngày nay, nhiều cô gái đă “cải tiến” dùng
dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp nếp -
không thắt mà quấn giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa.
(Theo Phan Kiến Giang)
-
-
Khách quan
mà chiêm ngường: Ngắm phụ nữ Thái với trang phục xửa cỏm ta ngỡ đó
là một nàng vệ nữ rất cổ điển mà vẫn hiện đại, bó sát
tạo eo, nổi bật các đường cong lư tưởng (như thi hoa hậu)… chị em
Thái đă rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm). Cái váy
dài tha thướt xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân,
làm sao chân dài thêm; c̣n cái xửa cỏm th́ cứ như hơi quá ngắn lại
ôm xít thân thể vùng trên như dồn nén chật chội, căng phồng như muốn
bung ra “bong ra” hiến dâng cho người t́nh “của em của anh đây mà”
rất gần gũi thân thương đầy chất nhục cảm.
-
Khi may mặc
bộ “xửa cỏm”, chị em rất chú ư bố trí phối hợp màu sắc
(các tông màu) không diêm dúa, lộng lẫy mà vẫn giản dị, ấm cúng.
-
Váy đen nhánh
thêm viền phía trong đỏ
ở gấu váy, khi bước đi xao động cùng khăn piêu trên đầu, bộ xà tích
bạc ở thắt lưng thật là vừa tạo h́nh, vừa tạo sắc (hai cái màu nóng
tương phản): Màu đỏ ẩn hiện làm cho màu đen thăm thẳm, sâu hơn như
ẩn sau đó là vùng “âm” của t́nh ái…
-
Sự tương phản
lung linh sống động ấy trong một tồn tại ở một chỉnh thể thấp nhất,
sự hài ḥa cân bằng âm dương như “ải cắp êm” (bố với mẹ) đời đời
bền vững hội nhập với áo sơ mi, quần
Jin hiện đại vẫn không lạc mốt.
-
-
KHĂN PIÊU
-
-
“Piêu” tiếng Thái
nghĩa là “khăn”. Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng hai
gang tay và dài một sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả
màu xanh đen, c̣n nhấn thêm nước vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng.
-
Khăn tuy dài
nhưng khi đội th́ chỉ một đầu khăn vắt
trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một đầu thả xuống sau lưng dưới gáy,
chỉ những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai đầu khăn, c̣n đoạn
giữa để nguyên vải chàm thô.
-
Hai mép đầu
Piêu được viền một diềm vải đỏ (hay vải
ngũ sắc) kéo sang 2 bên mép cạnh bên bằng một đoạn bằng một nửa
chiều rộng khăn, các góc khăn trên mép vải viền được tết chỉ màu
thành các “cút Piêu” bằng chỉ nhiều màu thành các ṿng tṛn nhỏ mỗi
đoạn ṿng một màu. Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay 5 hay
7 cút.
-
“Cút Piêu”; h́nh
tượng cây guột ở đoạn chồi là non xoắn h́nh
trôn ốc nó cũng như 2 cái khău cút trên đỉnh đầu hồi nhà.
-
Ô vải vuông ở hai
đầu khăn là gương mặt của Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị
em… Bố cục vuông gấm, vải đỏ thành
những ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so
với ô bao ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác chuyển động như bánh
xe quay. Cũng có khi bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ xếp cạnh
nhau thành 4 băng dọc theo các cạnh h́nh vuông, mảng vuông bên trong
mới bố cục thành các ô vuông đồng tâm. Ở lối bố cục tất cả đều là
những h́nh vuông được thêu thành các dải hồi văn các h́nh móc câu
hay tam giác đồi đỉnh, h́nh răng cưa, h́nh ô trám, h́nh đàn khỉ, đàn
ngựa đuổi nhau chạy ṿng quanh các h́nh vuông, c̣n mặt h́nh vuông
trong cùng th́ thường thêu những ngôi sao ở cánh hay nhiều cách biến
thể. Những hoa văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không sao chép tự
nhiên mà đă được cách điệu thật khái quát và h́nh học hóa, số kiểu
hoa văn tuy không nhiều, song nhờ kết hợp khéo léo ở từng bàn tay
vàng và theo tập quán từng vùng mà vừa mới lạ vừa quen thuộc lại như
mở ra vô hạn (theo TS Chu Quang Trứ).
-
Về màu sắc
chỉ thêu thường là màu tươi cơ bản. Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa dùng
các màu gốc đối chọi mạnh: Trên
nền khăn xanh chàm đen, nổi bật lên là những màu sáng mạnh như đỏ
rực, vàng nghệ, vàng chanh, trắng, xanh lá cây, xanh lơ tạo thành sự
phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu Điện Biên ít màu hơn thiên về đằm
thắm.
-
Khăn Piêu do các
cô gái Thái làm ra để dùng, để tặng bạn
t́nh làm quà kỷ niệm, tặng cha mẹ, cô bác, anh chị bên nhà chồng.
Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu, quấn cổ và khi cần th́ buộc
làm “địu” để địu con nhỏ. Nó đẹp như câu hát:
-
“Chiếc khăn Piêu
-
Thêu chỉ hồng
-
Theo gió cuốn
-
Bay về đây
-
Dâng
trên tay…”
-
Nó chính là nơi lắng đọng tâm
hồn (t́nh yêu) và phẩm chất cao đẹp của người con gái Thái.
-
8/3/2012 – NK
-
-
Bài 34:
QUẮM TỐ MƯƠNG
-
-
“Truyện kể bản
Mường” là một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen tŕnh
bày những sự kiện nửa hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang
gươm đi mở cơi” cách đây khoảng gần ngh́n năm của chúa đất Thái đen
ở Mường Ḷ (Nghĩa Lộ).
-
Qua phần huyền
thoại … đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu
sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)… rồi tạo
Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường Ôm,
Mường Ai ngoài ṿm trời, rồi tới dựng
Mường Ḷ Luông, cùng theo có các tay chân họ Ḷ, Lương, Quàng, Ṭng,
Lèo… tôn họ Ḷ làm chủ. Lúc đó đất Mường Ḷ đă có người. Mọi
(Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường Ḷ th́ Tạo Xuông ở
lại lấy vợ sinh ra Tạo Ḷ, cho Khun Lường làm mo, Tạo Ḷ làm chúa.
Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai.
-
Tạo Ḷ lấy
vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp Li, Ḷ Li, Lạng Ngang,
Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn, Tạo Ḷ chia cho các con
đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Ḷ
Luông, Ta Đẩu “ăn” Ḷ cha, Lặp Li “ăn” Ḷ Gia, Ḷ Li “ăn” Mường Min,
Lạng Ngạng “ăn” Mương Vân, Lạng Quang “ăn” Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra
Tạo c̣n cho bô lăo già bản Xửa Cang Ho “ăn” Mường Pục, Mường Mẻng…
Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền đất đầu sông Thao nước
đỏ.
-
Riêng con út Lạng
Chượng không có Mường để “ăn” - “con út không có ngựa, con út không
có Mường” (giàu con út khó con út là thế). Lạng Chượng mới bàn với
các tay chân giúp việc là các ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu
tập binh tướng, dân chúng mở lối đi t́m Mường. Quân đi đến Khau cả,
Khau Pục, Mường Min th́ tiến thoái lưỡng nan, chúa bèn cúng “pang
cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ.
-
Chọn ngày lành,
quân Lạng Chượng đến Mường Lùng - dốc Khau Phạ
nh́n thấy cánh đồng rộng (xă Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc quân vượt
dốc Xam xíp vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con
gái, Lạng Chượng ưng ư nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.
-
Tới Mường Chai, Tạo ở đây
sợ phải dâng nhiều trâu.
-
Binh Chúa
vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè
(Sông Đà)… đến đây vấp phải sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ
Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu. Mác Chúa ngắn nên chúa phải
chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt cạo trọc đầu
phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa rút binh về Ít
Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.
-
Rồi sau một thời
gian nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng
chiếm được đất Mường La từ Nặm Bú qua Khau
Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xă), Cọ, Kẹ
qua núi Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của Khun
AmPoi ở núi Khau Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi
chúa lập mưu “Mỵ Châu - Trọng Thủy”xưa, xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày
lành chúa mở tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất
Mường Muổi.
-
Quân Chúa tiến
lên Mường Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ,
qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng chế đất bé trũng như vũng
trâu đằm, chim
cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại cũng thấy. Quân chúa tiến vào
Mường Thanh, đất này thật tốt “nhất Thanh, nh́ Ḷ, tam Than, tứ Tấc”
(4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn, tṛn như cạp
nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm
ruộng, chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.
-
Lạng Chượng làm
chúa Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra
Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn
sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi
mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường
Muổi.
-
Cứ tiếp là Tạo
Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy
nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ (người Xá ḍng dơi
Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ
sinh ra chúa Ḷ Lẹt.
-
Ḷ Lẹt lấy tên hiệu là Ngu Háu
(rắn hổ mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào đất triều cống
Đại Việt từ đấy.
-
Cứ thế, cứ thế…
ghi chép kéo dài cho tới năm Mầng Cậu (Đinh Hợi -Đồng Khánh
nhà Nguyễn năm thứ 2) quân Pháp lên
đánh chiếm Mường La (Thị xă). Thời đó Tây tiến lên Pa Tần bị Tạo
Điêu Văn Tri đánh cho phải lui về - Mường Lay - Mường La, măi sau
Quan 6 ở Hà Nội sai Pa Vi lên dụ Tạo Tri hàng phục - Thế là 16 châu
Thái bị Tây cai trị từ đấy cho đến 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên…
-
* Bản Mường Thái dưới thời thực
dân Pháp đô hộ (Thành Thái thứ 2: 1890 - 1954):
-
- Cầm Văn Oai làm chủ Mường Mụa
(Mai Sơn)
-
- Ở Mường La: Tây đóng
trụ sở (kiểu tỉnh lỵ ở Tạ Bú gọi là Vạn Bú)
-
- Cầm Văn Hoan
làm Tuần phủ cai quản 9 châu Thái đen.
-
Cầm Văn Oai ở Mường Mụa kiêm
chức Quản đạo Thái đen.
-
Điêu Văn Tri quản đạo vùng Thái
trắng.
-
Bạc Cầm Hạc làm tri châu Mường
Muổi
-
Hoàng Văn Cấp làm tri châu Mường
Vạt
-
Xa Văn Cả làm tri châu Mường
Xang.
-
1/2/1917 Chánh
xứ Lô Mét mở trường dạy chữ Quốc ngữ và
chữ Tây ở Sơn La. Cũng năm đó chủ Mường La là Cầm Văn Quế lên thay
cha là Hoan vừa mất, Hoan làm chủ Mường La 33 năm, khi chết, làm ma
mổ 32 trâu và trồng 36 cây heo ở mộ.
-
Năm 1919, Quế làm nhà ngói bắt
dân mỗi “xổng” nộp 100 đồng bạc trắng.
-
Năm 1922 Tây bắt
dân đổi tiền “cống chảy” lấy tiền “hua cỏm” hẹn một năm phải xong,
cứ 3 đồng cống chảy được 1 đồng hua cỏm. Dân mường thời đó túng tiền
lắm, họ phải bán gạo, trâu với giá rẻ mạt (trâu mộng 12 đồng/1 con
và mua hàng với giá cắt cổ như sợi vải, thuốc lào, 1 kg muối giá 5
hào).
-
Năm 1931 Tây xây
nhà tù Sơn La mở đường cái ô tô đi Tạ Khoa (qua đèo Chẹn), năm 1932
Tây lại mở đường đi Thượng Lào qua rẻo Pa Háng, rồi mở tiếp đoạn Mộc
Châu về Suối Rút (đường 41) người Thái gọi đó là đường Pha Lỉ, Pha
Tổ… dân phải đi phụ đục núi phá đá
nhiều người bị chết - con gái phải gả bán sớm (lấy tiền) Bản mường
không yên vui.
-
-
-
Bài 35:
LỜI ĂN TIẾNG
NÓI
-
Lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày bộc lộ nhân cách, lối
sống (tính cách) của một dân tộc. Nhiều khi chỉ một hiện tượng (một
hành xử) cũng đă để người ta có cảm t́nh hay khó chịu về dân tộc đó.
Ví dụ có người nhận xét:
-
Tính cách người
Hàn Quốc qua hiện tượng lặng lẽ xếp hàng cả tiếng đồng hồ trước
giờ lên máy bay (c̣n người Nhật th́ qua vụ sóng thần và thảm họa nhà
máy điện hạt nhân Fucưxima hồi 11/3/2011 từ người dân tới ông Thủ
tướng đă hành động, ứng xử như thế nào (qua màn h́nh ti vi) đủ cho
cả thế giới kính phục người xứ mặt trời mọc.
-
- Người Tàu
(Trung Hoa) có một nền văn minh rực rỡ cỡ 5000 năm lịch sử, nhưng
khi tiếp cận với số đông cụ thể th́ lại thấy như bước vào xă hội
thiếu trật tự như “vào đến pḥng đợi ở sân bay, đă thấy rất đông
người ngồi la liệt trên ghế hoặc dưới đất, nói chuyện ồn ả hoặc ăn
uống nhồm nhoàm. Nét nổi bật của người Trung Quốc là ăn to, nói lớn…
khi lên máy bay th́ xô đẩy chen lấn, la hét chửi bới nhau, rồi giành
giật chỗ để hành lư. Khi đă vào ghế ngồi yên vị rồi là họ bắt đầu mở
miệng để chuyện tṛ, tranh luận to tiếng như một cái chợ”.
-
Hai tính cách nổi
bật là: Chen lấn và sẵn sang xâm phạm
vào sự riêng tư của người khác.
-
Về đi lại h́nh
như người ta không bao giờ chú ư (nhường đường) hoặc có nhường họ
th́ cũng không có lời cảm ơn. Về sinh hoạt th́ hở cái ǵ ra là mất
cắp, tính vùng miền cục bộ (như ở ta là
dân Nghệ Tĩnh) rất mạnh mẽ.
-
Việc khạc
nhổ th́ người Tàu đứng số một thế giới đến nỗi khi tổ chức Thế vận
hội Bắc Kinh (2008…), lănh đạo phải có
chỉ thị cấm khạc nhổ ngoài đường phố Thủ Đô.
-
- Người Hà Nội:
Xưa nổi tiếng là thanh lịch, hào hoa phong nhă, th́ nay xuống
cấp đáng báo
động: Ra đường thấy bất cứ cái ǵ lạ (như tai nạn xe máy, căi nhau)
là xúm đông xúm đỏ gây tắc nghẽn giao thông. Ăn tục, nói tục th́
chắc Tàu cũng phải chào thua: Xô đẩy chen lấn, nói to, trộm cắp…,
đái bậy th́ thôi rồi.
-
Tính khoe mẽ,
trưởng giả, học làm sang (kể cả tham nhũng) đang trỗi dậy, hoành
hành đáng sợ, sự coi thường kỷ cương, luật pháp diễn ra khá phức
tạp.
-
C̣n về người
Thái, qua nhiều năm “cắm bản” Nguyễn Khôi tôi thấy có hai điều nổi
bật: Chất phác thật thà (không nói dối =
ba vẹo), không trộm cắp (kin lắc); nếu ai mắc phải th́ bị cộng đồng
dân bản tẩy chay, xua đuổi.
-
Đặc biệt trong
sinh hoạt thường ngày của người Thái là nhẹ nhàng, dịu dàng, rất ít
khi to tiếng (vợ chồng ít khi căi nhau), không đánh mắng trẻ con,
phụ nữ (phụ nữ được tôn trọng,
yêu quư), trong các bữa liên hoan tiệc tùng diễn ra khá lớp lang,
trật tự - khi vui là “hát” (khắp) là x̣e (xe) là hút hai sừng trâu
rượu cần, là cụng ly vài ba chén rượu cất (lẩu xiêu). Không đồng ư
th́ nói “đồng ư thôi” một cách nhẹ nhàng
-
Nói năng vào thưa ra gửi (xo phép), gặp nhau có lời chào “khẳn qua,
xiểng qua” cho tặng nhau có lời cảm ơn chân thành và c̣n hẹn gặp
lại. Dân bản sống với nhau kiểu công xă thị tộc nông thôn “tắt lửa,
tối đèn”có nhau, chia ngọt sẻ bùi, t́nh nghĩa thủy chung.
-
Lời ăn
tiếng nói của người Thái được bộc bạch trong “Quăm son Côn” (ḷi
khuyên răn người). Đó là những câu rất đạo lư đời thường nhưng khá
minh triết:
-
- Về mặt “xưng hô” th́:
-
Thẩu
hịa me/ Ké hịa lua
-
(Già gọi Mẹ/
vừa gọi Thím)
-
- Ăn
xem nồi, ngồi trông hướng, có ư tứ:
-
Năng hảu bấng thí
-
Ní hảu bấng bón
-
(Ngồi phải xem chổ/ đi
phải xem nơi)
-
Nung sửa bang nha ngoi
táng
-
Nung xỉn hang nha ngoi
tu
-
(Mặc áo
mỏng (nữ) đừng đứng trước cửa sổ
-
Mặc
váy mỏng đừng đứng trước cửa vào ra)
-
Au mia bấng me nai
-
Sự quai bấng me tổn lang
-
(Lấy vợ xem mẹ vợ/mua
trâu xem trâu đầu đàn)
-
Thốm nặm sa
lai hảu bấng chong
-
(nhổ
nước miếng phải xem khe dát)
-
Khong
xáu ca đi
ca panh nha chăm xảu
-
(thấy người có của
quí giá đừng sán đến gần)
-
Cốn
tai pợ sốp/cốp tai pợ o
-
(người chết v́ cái
miệng/ ếch chết do lắm tiếng kêu)
-
Phua mia cu mưng nha va
-
(t́nh vợ chồng chớ gọi mày tao)
-
Quăm
đi phăng cảu sok
-
Quăm hại hí cảu na
-
(chớ lời lành chôn chín
tấc
-
Chở lời xấu dài chín
xải)
-
Xép
khẩu é kin nốt háy
-
Quây
khanh né xỉ nột bản
-
(Đói bụng tưởng ăn hết
cả chơ (xôi)
-
Buồi cương
cứng tưởng địt được (nữ) cả bản.
-
Nha chằm díp nha khịt ton
-
(Khi cầm nắm xôi chấm chớ có
-
Kẹp thêm miếng
thức ăn (cá thịt) -
tức là đừng ăn tham - xấu.
-
Nhay pay đón mưa đăm
-
(Đừng có đi trắng
về đen - ăn
ở hai ḷng).
-
Nha du chăm nưa xiêu
-
(Đừng có xán vào vợ người khác)
-
Chẩu bái ngắm xiêu
ngăm
-
(Ḿnh không
nghĩ ngợi, ư tứ ǵ
(vô tư) th́ sẽ có người khác nghĩ (nhớ) đến ḿnh).
-
Xin trích
một số câu đă trích ra tiếng phố thông:
-
* Người Thái có luật Mường,
lệ bản.
-
Có thấp có cao/ biết cao biết
thấp.
-
* Nhiều người đắp thành bờ.
-
Một người phá thành
thác.
-
* Không được ba hoa
-
Không được nói phét
-
Không được sợ việc
-
Không được lười biếng
-
Không được ngủ sớm
-
Không được dậy trưa…
-
* Không được nhai chộp choạp
-
Không được cái không bảo có
-
Không được kề cà say rượu
-
Không được đánh vợ
-
Không được ăn trộm
-
Không được
nói dối
-
* Ăn cơm trước khi nuốt phải
nhai
-
Giơ dao ba lần mới chém
-
Nghĩ ba lần mới nói
-
* Bố mẹ nuôi không bằng thầy dạy
-
Thầy dậy không bằng tự ḿnh làm
nên
-
* Đông con cháu, thiếu gạo ăn
-
Sướng con cu, mù con mắt.
-
Những cái buồn
của người Thái:
-
“Con dại,
vợ chết, bố mẹ mất sớm, anh em ở xa”
-
Vợ chồng xa nhau, bỏ nhau, thiếu
cơm, thiếu muối
-
Đi thuyền không có mái chèo
-
Lạc rừng trời tối/ cơm không,
chẳng có thức ăn. Đêm nằm không có vợ để ôm. Dằm (gai) chọc móng
tay / ve cắn lỗ tai.
-
Mắt mù, tai điếc
-
Đào con dúi
hang sâu / nói chuyện t́nh với gái nặng tai.
-
Đắp bờ phải bùn
nhăo.
-
Ăn không có bạn
-
Ở chẳng có phường
-
Đau bụng không có thuốc
-
Đau mắt, đói chữ chẳng có thầy.
-
Anh em ghét chẳng
ai thương.
-
*
-
* *
-
Lai côn đi/ lai
phi pương cáy / lai mạy pên hươn chăn
-
(Nhiều người th́
tốt / nhiều ma th́ tốn gà - phải cúng / nhiều cây thành nhà đẹp).
-
Đông luông báư mi mạy
-
Chí au săng pên pá
-
(núi rừng to không có cây
-
Th́ lấy đâu thành rừng)
-
Lời ăn tiếng nói
(tư cách đạo đức Thái) được đúc kết
thành tục ngữ, thành luật Mường lệ bản để giáo dục mọi người sống,
lao động trở thành những con người tốt, có kỷ cương, có t́nh nghĩa
xây dựng bản mường - đất nước ngày một giàu đẹp.
-
Góc
thành Nam Hà Nội 19/4/2011
-
NK
-
Bài 36:
TÁY PÚ XẤC
-
-
Cùng với “quắm
tố Mướng” là truyện Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc” là một sử thi
tầm cỡ về “kể ông cha chinh chiến”…
-
Táy ở đây dùng đa
nghĩa, như “trên đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua,
đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là Táy
Quắm Tố… Táy nghĩa là kể.
-
Pú là ông nội,
người tôn kính như “Bác”, Pú ở đây là
ông cha, lănh tụ, thủ lĩnh.
-
Xấc là chiến
tranh: Đi trận là
Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc
phản, giặc ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc
pua mương. Mặt trận là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất
là xấc to mương - “xấc” đánh nhau cả xâm lược lẫn tự vệ.
-
Nội dung thư theo
lịch sử của Quắm tố mướng, mở đầu từ Tạo Ḷ tới Cầm Nho (Kăm nho) là
50 đời.
-
Sử thi viết theo lối
hát “khắp” dùng rộng răi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và nghi
lễ.
-
Mở đầu là:
-
Cạy hin pẻn ke ma bốc
-
Nộc tót háy tai thẩy
-
Tai thẩy tai ti non
-
Tai cuông côn cuông kon mạy xọk
-
Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo
-
Chang nháư tai
thót nguông thót nga pạt
-
phạk Tao,
u, khong…
-
Ẩy đá dẹp đá tảng
lên cạn
-
Chim gơ kiến chết già
-
Chết già tại nơi nằm
-
Chết trong bộng trong cành cây Xọ
-
Cụ Tổ đổ xuống vào mộ đồng Ḷ
-
Voi lớn chết rụng ṿi ngà bên
sông Thao,
-
nậm u, MêKông…
-
Đoạn tả Ḷ Lạng
Chượng đem quân đi đánh chiếm Mường La
-
Mi khỏi
kôn pay cón
-
Hảư Ải Ón uôn tang
-
Tốc Xả chi, Xả cha
-
Tốc Mương Bá, Mương Ai
-
Tốc Mương Chai, Mương chiến
-
Tốc Pák chiến ti
nặm hăm
-
Tốc Pák Păm ti
nặm hạk
-
Pọng cánh quen
phăn hủa
-
Phăn hủa hảư kôn
xen kôn păn
pú bải
-
-
Có chân sai đi trước
-
Cho Ải Ón dẫn đường
-
Đến Xá chi, Xá cha
-
Đến Mường Bá, Mường Ai
-
Đến Mường Chai, Mường chiến
-
Đến ngả
suối chiến nơi sóng cuộn
-
Đến ngả
suối Păm nơi nước phèn
-
Pọng và Quen (quan và dân) đóng
thuyền
-
Đóng thuyền cho
quân ức quân ngh́n
cụ bơi.
-
-
Đoạn kết:
-
-
Bản
Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu
-
Thẩu xia bản xia na
-
Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay
kín
-
Đin na Lụa na Lài to đaư coi
xảng
-
Hák vá Sen
Lộc lau Ké xia tạu
-
Thẩu xia bản xia na
-
Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen
-
Đin na tạu tin đán
-
Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu
-
Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha
-
Kọ pưa pang xên phon chu tang măn hụ
-
Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin
-
Đin Na Lăng to đaư coi xảng
-
Cựt áo quảng hom pay chom tom.
-
-
Ho
Luông sinh vun đắp Bản Lụa
-
Lại đă già ĺa can
-
Khuất ĺa bản ĺa ruộng
-
Mới để Ho luông Tiên mà vào
hưởng ăn
-
Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hăy quản
-
Nhưng rồi Sen Lộc đă già ĺa can
-
Khuất ĺa bản ĺa ruộng
-
Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc
làm Sen
-
Bao đất ruộng bản Ṃn
hăy quản
-
Ruộng trải tận chân lèn
-
Mo yên vào bản Pán
-
Bản thủa ông cha truyền lại
không buông
-
Bởi thông thạo mọi đường cúng tế
-
Bản Lăng dành Sự phúc lên “ăn”
-
Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hăy
quản
-
Lo rộng tính xa dân chúng sum
vầy.
-
(Theo Vương Trung).
-
-
-
-
Bài 37:
THIẾT CHẾ XĂ HỘI THÁI XƯA
* Bản (làng):
Là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của
các gia đ́nh phụ hệ thuộc nhiều ḍng họ. Bản trung tâm của Mường gọi
là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng Lề (TX Sơn La)
Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn
tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế - xă hội và chính trị
của một Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở
Yên Châu) có nơi gọi là Viêng (Viêng Chăn - Lào, Viêng Lán ở Yên
Châu).
-
Trong Mường
có hai loại Bản:
-
- Bản của dân
tự do (dân páy)
-
- Bản của dân lệ thuộc (dân
Thín).
-
Đứng đầu Bản là
Tạo Bản (Quan bản) thường là người ḍng
họ Tạo Mường - (Quư tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”. Quyền
lợi của Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi “khoảng 1000 bó mạ
(10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)” truyền
đạt mọi tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản,
khi thôi chức vụ phải trả lại ruộng.
-
Họ được dân bản đến
giúp công xá, biếu xén thịt và sản vật.
-
* Xổng (Poọng)
gồm 3 - 5 bản (như kiểu Tổng, Xă?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là
quư tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ (25.000m2), dân Xổng
phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén
Tạo Xổng.
-
Giúp việc
Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng… mất uy tín hay chết th́ dân bầu
lại.
-
* Mường: Gồm
nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường. Chết dân bản bầu mới. Toàn
bộ đất đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đ́nh Tạo chỉ
“ăn” một đám ruộng là “lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2),
dân phải đến làm không công cho Tạo.
-
Theo Quắm tố mướng
th́ chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng mới tập trung được dân cư
cũng như có nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất th́ mới có bản
Mường. Từ khi Mường Ḷ (Văn Chấn, Nghĩa Lộ - quê tổ Thái đen Việt
Nam) ra đời từ Tạo Ḷ th́ bản Mường cũng dần dần được tổ chức thành
hệ thống.
-
Nhiều bản hợp
thành Xổng (Sổng), có nơi gọi là Ngụ (dưới cấp Lư Trưởng “xă”). Một
hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken) cộng với 3 - 4 Xổng thành một Mường.
Từ 4 - 8
mường trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường,
Lộng, Bản là đơn vị hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp
huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ là dưới Mường Ph́a (trực
thuộc Ph́a).
-
Mỗi Chu (Châu)
khi mới xác lập mang tính
chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa
phương (phong kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).
-
-
BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN
LA - TÂY BẮC
-
-
Cánh đồng Mường
Ḷ (Tông Ḷ) do Tạo Ḷ đứng đầu khai phá dựng bản, lập mường vào
thế kỷ 11 (nhà Lư) đă là nhà nước phong kiến tập quyền) nhưng sử
sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan
lại) ở các Châu Thái Tây Bắc.
-
Theo Quắm Tố Mướng th́ khi Mường
Ḷ (mường khởi thủy) ra đời th́ có phân chia:
-
Họ Lướng dệt mo
-
Họ Ḷ
dệt Tạo
-
Họ Lường (Lương)
làm Thầy mo
-
Họ Ḷ làm Tạo.
-
Như vậy Tạo Ḷ làm chủ (Chúa)
Mường Ḷ.
-
Luật Mường đă
xác định: Tất cả các thứ (kể cả đất đai) là của Vua, của Tạo -
đó là quyền sở hữu Nhà nước.
-
An Nha (Quan
Châu) phân quyền ban cấp tất cả các sản
vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường ph́a,
Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.
-
Ai săn bắn được
thú to, cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho ph́a
một đôi thăn, nếu không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử
phạt. Do đó mỗi người dân phải luôn tự răn ḿnh.
-
“Phít nọi sia quai
-
Phít lai bên khỏi
-
É pảo hữ dók mi
-
É pi hữ dók tó
-
É khó hữ dók tạo quan”
-
“Sai phạm nhỏ mất trâu
-
Sai phạm lớn thành tôi tớ
-
Muốn có sẹo th́ đùa với gấu
-
Muốn
béo (sưng mặt), th́ đùa với ong
-
Muốn nghèo khó th́ đùa với Tạo
Quan”
-
Quy định bổng lộc
dành cho các Quan chức ở các Châu Thái Tây Bắc thời phong
kiên - thực dân (trước thời giải phóng 1953) là: “Làm chủ vùng đất
cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày nương cuốc / cuông
nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu hươu,
nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quư - dân ai vi phạm đều bị phạt
tiền, dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”.
-
-
* VỀ
TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
-
Thường đặt địa
danh theo tên sông suối, núi, đất (na, nà) cỏ cây, con ǵ.
-
Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ
có Mường Ai là có 1 bản.
-
“Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn
vị hành chính…
-
“Mường” theo
nghĩa rộng là 1 vùng miền, đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung
Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao
Chỉ phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma,
Mường Lùm (lúm) chỉ thiên hạ, cơi đời.
-
Đă có bản Mường là phải có Tạo
(chủ mường):
-
Khột ma Phái mi mương
-
Tánh Mường phái mi Tạo
-
Khai ruộng phải
có Mường
-
Dựng mường phải có Tạo
-
Chiềng hay Xiềng (Viêng):
-
Là đơn vị Bản
trung tâm của Mường trong (mường cuông). Chữ “chiềng” bao giờ cũng
có một tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ riêng. Ví dụ:
Bản Ban là trung tâm của Châu Mường “Mường
Mụa” (Mai Sơn) - lúc này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản Ban,
vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường), đồng thời là
tên của cả châu mường Mường Mụa.
-
Châu mường Mường
Sang (Mộc Châu) là Chiềng Chu; Châu mường Mường
Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.
-
Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ) thường có hào lũy vây
quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này nhiều khi trở
thành tên của Châu mường - như Viêng Ḷ, Viêng Chăn (Lào).
-
Châu mường Mường
La có Viêng dựng ở bản Giảng (thị xă) nên gọi
là Viêng Giảng đồn pḥng thủ gọi là “che”, ở Mường La đặt ở bản Ái
nên gọi là che Ái ở cách xa 10km.
-
Thời VNDCH phần
lớn “Chiềng” được áp sang là “xă”.
-
Bản Mường trung
tâm là Mường trong (Mường Cuông), ở ngoài là Mường
Ph́a ngoài (Mường Ph́a Nọk) - Bản trung tâm của Mường Ph́a ngoài
cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:
-
Mường Chanh
là mường ngoài của Châu mường Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường
Sại là mường ngoài của
Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954,
ta đổi gán “chiềng” là “xă”.
-
Bộ máy chính quyền các chức dịch
phân chia thành hai đẳng cấp rơ rệt:
-
1. Ḍng dơi
quư tộc Châu mường gồm họ gốc có tên Ḷ Cầm (đó là họ Ḷ to, Ḷ
luông) để phân biệt với Ḷ bé (Ḷ b́nh dân). Họ Ḷ Cầm phân chia ra
các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao),
Hoàng.
-
Ḍng dơi quư tộc Thái có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim
= Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa).
-
Người thuộc họ quư tộc được phép
tham gia giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Ph́a
và An Nha Châu Mường.
-
2. Người thuộc ngoài
họ quư tộc như Ḷ, Lường, Cà, Ṭng… th́ chỉ được phép giữ chức dịch
(cấp thấp) là người đứng đầu bản và các ông Quan hàng “Xổng”.
-
Đó là luật tục quy định, người nào đó có thế lực muốn phá vỡ quy
định này dù là quư tộc hay b́nh dân th́ đều phải đổi họ gọi là “nhập
đẳm”(tư đẳm) - ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Ph́a, An Nha th́ phải đổi
thành họ quư tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại
người họ quư tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… th́ cũng
phải đổi họ xuống thành họ Lường, Cà…
-
Mọi chức dịch
trong của bộ máy của Mường Ph́a (chế độ Ph́a Tạo) đều do An Nha
(Chủ Châu (huyện) và Ph́a Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ nhiệm
xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang
tên “Hội đồng bô lăo toàn mường” (Thẩu ké hang mương)
do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu).
-
Quan hệ giữa cấp
châu mường với bốn mường Ph́a ngoài th́ không hẳn, theo thứ cấp trên
dưới mà theo cơ cấu truyền thống ṿng đồng tâm xoay quanh trục.
Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là Chiềng
là Trục, c̣n các Mường ngoài ở ṿng đồng tâm.
-
Trước thế kỷ 19,
các Châu Mường Thái hợp thành khu vực “16 châu Thái” (Xíp hốc Châu
Tay) -
trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới
h́nh thức thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường lớn).
-
Triều đ́nh Trung Ương từ Lư, Trần, Lê, Nguyễn gọi đơn vị Mường
Luông là “đại tri châu”, đến năm 1834 vua Minh Mạng đổi (xóa bỏ)
chế độ đại Tri Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc), đặt
các Châu Mường Thái thuộc tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên
bờ sông Thao, Phú Thọ hiện nay). Đến năm 1884, đất nước ta mất 6
Châu mường Thái nhập vào bản đồ Trung Quốc theo Hiệp định Thiên Tân
kư giữa thực dân Pháp và triều đ́nh Măn Thanh.
-
Tổ chức xă hội
theo các đơn vị Mường xưa là một bước
đệm chuyển từ tổ chức thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (xă hội Thái gọi
là Đẳm) sang tổ chức Quốc gia dân tộc. Thuộc ngữ “Mường” không c̣n
là như một quốc gia dân tộc nữa, người Thái ở Lào, Thái Lan đă mượn
danh từ gốc Pali - SanoKis là Pa Thết để chỉ đất nước (Mường Pa thết
Lào)
-
Đấy cũng là lư
do, trong dân gian vẫn quen gọi nước Thái Lan là Mường Thay, Lào là
Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam như chậm
hơn mới đi từ Đẳm đến tŕnh đô bản mường (dưới cấp quốc gia) rồi
phát triển gia nhập quốc gia dân tộc Việt Nam (Pa thết Việt Nam).
(Thái Việt Nam chưa lập “Nhà nước riêng” mới ở dạng tự trị Bản
Mường).
-
QUAN HỆ D̉NG HỌ GIA Đ̀NH VÀ HÔN NHÂN
-
Người Thái có ba quan hệ về họ hàng:
-
1. Ải noọng:
Gồm anh em, chị em chưa xây dựng gia đ́nh sinh ra từ một (cùng mẹ
cùng cha hay khác)- nội tộc 4 đời.
-
2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai hay
thuộc khổi Ải noong và rể.
-
3. Lung Ta: Họ nhà gái (bên
ngoại).
Bài 38:
KHU
TỰ TRỊ THÁI MÈO
-
-
Toàn cảnh
thị xă Sơn La
-
-
Ngày 29 - 4 -
1945 chủ tịch Hồ Chí Minh (VNDCCH) kư sắc lệnh
thành lập khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là khu tự trị Tây Bắc).
-
Kỳ họp thứ hai
Quốc hội khóa V phê chuẩn xóa bỏ cấp khu và hợp nhất 1 số tỉnh. Hội
đồng nhân dân khu tự trị Tây Bắc họp ngày 19 - 20/1/1976 tại
thị xă Sơn La (thủ phủ khu tự trị) công bố quyết
định của Quốc hội (thời Tổng bí thư Lê Duẩn) kết thúc 20 năm tồn tại
của khu tự trị.
-
Thành tựu: Theo báo cáo 20 năm
hoạt động của khu tự trị Tây Bắc, ngày 19-1-1976 của UBHC khu th́:
-
1, Về chiến đấu
đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Toàn
khu có 82 xă trực tiếp chiến đấu, 16 xă bắn rơi máy bay mỹ và 21 xă
bắt sống giặc lái, sản xuất được giữ vững, huy động 562000 lượt
người với 95 ngh́n mét khối vật liệu đá đảm bảo giao thông phục vụ
chiến đấu.
-
2, Kinh tế:
Từ 1954 thực hiện “cải cách dân
chủ” (ở xuôi là cải cách ruộng đất) đă xóa bỏ chế độ bóc lột cuông
nhốc (chế độ Ph́a Tạo), xóa bỏ ruộng chức, chia ruộng cho nông dân
lao động, đă đưa 79% hộ nông dân vào hợp tác xă nông nghiệp - 50% số
HTX lập được kế hoạch sản xuất hàng năm, thực hiện 3 khoán - những
HTX tiên tiến như Nậm Mùn, Bản Phủ (Lai Châu), Púng Luông, Cao Đa
(Nghĩa Lộ), suối Ĺn, Kim Chung (Sơn La)…
-
So với năm 1955
th́ sau 20 năm, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 228%, b́nh quân
hàng năm tăng 16%, diện tích trồng lúa tăng gấp 7
lần, diện tích hoa màu tăng 2 lần. Đă có 195 HTX đạt trên 5 tấn
thóc/1 ha. Đă h́nh thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn như ḅ,
chè Mộc Châu, Cam Đường, vùng chè Văn Chấn, vùng lúa lợn Điện Biên,
vùng ngô Nà Sản…
-
Hàng năm khai
thác 28000 m3 gỗ,
2,5 triệu cây tre nứa, 7000m3 củi,
có 13 lâm trường, 50 HTX nghề rừng.
-
Cây chè cả khu có 5000ha thu
7000 - 8000 tấn/ năm.
-
- Về chăn nuôi:
Ngay sau ngày giải phóng 1953 - 1954 toàn khu mới có 63.000 con
trâu, 28.000 con ḅ, 5000 ngựa, 137.000 lợn, sau 20 năm phát
triển có 140.000 trâu, 43.000 ḅ, 52.000 ngựa, 313.000 lợn.
-
Hằng năm cung cấp cho miền xuôi:
2000 con trâu, ḅ cày kéo, trên 2000 tấn trâu ḅ thịt.
-
Về công nghiệp -
thủ công nghiệp: Năm 1955 mới xây dựng được
xí nghiệp đầu tiên “cơ khí Thuận Châu” với giá trị sản lượng khoảng
7000đ/năm, (giá 1kg gạo là 3 hào). Sản xuất công cụ: Từ 1962 phát
triển công nghiệp địa phương (điện, cơ khí, vật liệu xây dựng, may
mặc, chế biến nông sản…) sản xuất tới trên 40 loại sản phẩm, trị giá
1974 là 25 triệu đồng.
-
1955 cả khu
mới có 1 nhà máy thủy điện 24 KW, chưa có điểm cơ khí nhỏ nào th́
sau 20 năm đă có hàng ngh́n KW nhiệt điện, 30 trạm thủy điện nhỏ từ
5 50 KW, có 250 điểm cơ khí nhỏ.
-
Giao thông: Đă
mở mấy đường ô tô liên tỉnh, xuống tới huyện gần 3000km. Sơn La mở
đường lên vùng cao CoMạ, Nghĩa lộ lên
Trạm Tấu, Lai Châu lên Mường Tè, xây hàng trăm cầu cống lớn. Đảm bảo
cho 1 đầu dân cung cấp hàng năm 6 kg muối; 4 mét vải, 3 kg dầu hỏa.
-
Giáo dục: Trước
1954: 99% dân mù chữ, chỉ có 25 trường tiểu học với khoảng 750 học sinh.
Đến 1974 - 1975 th́ đă có 1974 lớp mẫu giáo với 3720 cháu, 2181 lớp
vỡ ḷng với 49.982 học sinh, 449 trường phổ thông cấp 1 (tiểu học)
với 24.989 học sinh, 107 trường cấp 2 (Trung học cơ sở) với 14.461
học sinh và 13 trường PT cấp 3 với 2193 học sinh, có trường dân tộc
nội trú (riêng cho con em dân tộc Mèo) có 350 - 400 em theo học từ
vỡ ḷng đến cấp 2.
-
Y tế: 90% xă có trạm y tế, có 40
bệnh viện và bệnh xá với 2000 giường .
-
Văn hóa văn nghệ được phát
triển.
-
Chính trị: Có 17
đại biểu Quốc hội khóa V (trong đó 13
là dân tộc thiểu số), bộ máy UBHC các cấp: Số cán bộ người daan tộc
chiếm 76 - 80% (số cán bộ dân tộc 20 năm tăng từ 865 lên 9575 người,
số có tŕnh độ trung học, đại học là 934 người trong số 8722 người),
số cán bộ lănh đạo các cấp từ 375 người (1955) lên 4324 người
(1974).
-
Trích báo
cáo do ông Ḷ Văn Hặc
-
Chủ tịch
UBHC khu tự trọ Tây Bắc tŕnh bày./.
-
-
Bài 39:
LUẬT TỤC THÁI
-
(Hồ Thuận Châu)
-
Luật tục Thái
là một luật lệ bản Mường thời phong kiến sơ kỳ với uy quyền rất
lớn của chúa đất mà cao nhất là An Nha (1 châu)
-
Luật tục Thái phân biệt rạch ṛi
với 47 loại người và 17 loại tội phạm trong xă hội.
-
Luật tục quan tâm
cả các đấng thần linh, môi trường thiên nhiên, nó có ảnh hưởng rất
lớn đến thái độ của con người đối với thiên nhiên,
trời đất, núi sông, rừng rú.
-
Đây là cơ sở để thi hành công
lư, ngăn ngừa tội ác, là đạo lư làm người. Mỗi Mường (Châu) có luật
tục riêng.
-
- Phần đạo làm người: là những
quy ước ứng xử cá nhân
-
- Phần tục lệ cưới xin
-
- Tang ma………….ví dụ
-
LUẬT LỆ NGƯỜI THÁI
ĐEN Ở THUẬN CHÂU
-
Mở đầu: nói chút
về lịch sử người Thái theo Quắm Tố Mướng.
-
1. Ranh giới đất Mường Muổi:
-
Tục
ngữ có câu “Mườnng Muổi rộng phía sông Mă,
Mường La rộng phía Sông Đà”. Mường chia ra các Xổng (ngũ), lộng,
quen. Châu Mường Muổi có 5 mường Ph́a:
-
- Mường Muổi
(Chiềng Pha) là mường trong mường, vua kinh gọi là Xuân Mai. Các
mường ph́a phía ngoài có:
-
* Mường Lầm phía sông Mă, vua
kinh gọi là Nam Trịnh
-
* Mường Sại phía Sông Đà, vua
kinh gọi là xă Khinh Khoái.
-
* Mường Piêng (xă Thanh B́nh)
-
* Chiềng Pấc
(Trịnh Bắc)
-
Mỗi một Mường
Ph́a chia nhiều bản, nhiều Giáp. Giáp
nào ở xa Mường th́ gọi là “lộng”, lộng bé th́ gọi là Quen. Mỗi một
Mường Ph́a chia thành nhiều xổng (vua kinh gọi là Ngũ) người Thái
quen gọi là Xổng Ngụ. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng ngụ, ngơ
Mường phía ngoài có 3 xổng ngụ.
-
2, Phong cấp bậc hàng châu được xếp đặt theo lệ như sau:
-
- An Nha là gốc
của Bản
Mường (Tri Châu) giúp việc có Ph́a Thổ (thư lại) ph́a thông (thông
lại). Mường ph́a có Ph́a Lư (vua kinh gọi là Lư trưởng); ph́a phó
(phó lư) 2 ph́a này coi trông bản Mường ḿnh. Có 8 chức ông ở Xổng
(vua kinh gọi là kỳ mục) từ ông xen (pằn) đến tận ông chá hườn.
-
Có ông mo, ông nghè, ông chang,
giúp quản lư luật lệ, cúng tế.
-
3, Quyề n
lợi bổng lộc các quan chức.
-
An Nha ăn 10 mẫu
ruộng trong phạm vi bản chiềng đi
(chiềng ly), thu “thóc lười” (tô thuế) của dân hàng Châu: mỗi mẫu
phải nộp một tạ thóc.
-
Án Nha có 9 bản nhốc (làm dịch
vụ)
-
Thư lại
ăn 6 mẫu ruộng Chiềng Đi hưởng 3 bản nhốc.
-
Thông lại ăn 5 mẫu ruộng Chiềng
Đi, 3 bản nhốc.
-
Ph́a lư
(lư trưởng) ăn 5 mẫu ruộng, phó lư ăn 3 mẫu ruộng.
-
Ông xen đứng đầu Xổng Pằn ăn 8
mẫu
-
Ông Pọng đứng đầu Xổng Pọng ăn 6
mẫu
-
Ông Ho Luông đứng đầu Xổng Ho
Luông ăn 4 mẫu ruộng
-
Ông Pọng Cang
đứng đầu Xổng Phọng Cang ăn 3 mẫu ruộng
-
Ông quan xư (ho
cang) ăn 2
mẫu (giúp việc ông Xổng Phọng Caug)
-
Ông Ho Hé ở bản
Lăng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pằn.
-
Ông Pụa ở bản Púng ăn 2 mẫu giúp
việc ông Xổng Pọng.
-
Ông Chá hươn ở
bản Lẹng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Ho Luông.
-
Khi Ph́a xức
nộp thuế th́ ông Xổng phải xức đến quan bản, quan bản bổ xuống đầu
dân Mường phải nộp đầy đủ.
-
Khi Ph́a xức
phu phen xuống đến xổng nào, th́ ông Xổng xức Quan bản cắt phiên đi
phu từng nhà…ông Xổng dẫn phu nộp cho Ph́a
-
Lúc nào An Nha,
ph́a cần ǵ
th́ gọi ông Xổng tới hầu
-
Mỗi xổng có:
-
Quan pách:
về tư pháp (ăn 1,5 mẫu) các pách xông chia làm quan các bản
-
Dưới quan pách mỗi xổng có 2
giúp việc là Quan Pḥng
-
Dưới
quan pḥng mỗi xổng c̣n có 2 Quan chiềng quản lư việc xây dựng nhà
cửa, đốc thuế, mường phai, cúng mường, Quan chiêng ở xổng nào th́ do
người ở đó làm …vv…
-
Mỗi bản có quan
bản (tạo bản) giúp việc có chá bản, 1
bản có 7-8 mẫu th́ quan bản được 3,5-4 sào.
-
Ở Mường Muối ngoài 4 xổng ở
trong Mường c̣n có 5 lộng (Mướng É, Mường Bán, bản Pịn, Muội Nọi,
Chiềng Đa) mỗi Lộng có 1 Tạo Lộng.
-
Mỗi Lộng có bản
Quen (Ken), do 1 Tạo Quan đứng đầu
-
4, Lệ xin làm chức
dịch:
-
Ai có tên Quảng, tên xự (được
Bản mường) đặt cho th́ mới được phép xin làm Quan bản, đi từ thấp
lên cao, có “tiền xin chức” nộp cho An Nha (tri châu).
-
5, Về kiện cáo, phạt vạ:
-
Án Nha có quyền phạt vạ thu từ
1,2 nến đến 12 nén bạc
-
Thư lại được phạt
vạ từ 1,2 - 6 nén bạc
-
Quan chiềng, quan chá, quan
bản được phép An nha (phạt vạ thu 5 đồng cân đến 4,4 lạng bạc).
-
6, Quy định về phu phen tay dịch
-
7, Về bắn súng nhầm, làm
cháy nhà, do đi săn bắn nhầm chết người, phải góp tang ma:
-
- Dựng 1
cây “heo” có 20 vải cờ
-
- Mổ 1 con trâu tang lễ
-
- Tiền xuống nước, xuống lửa 3
lạng bạc
-
- Tiền đắp cản nước mắt 1,3 nén
bạc
-
Làm cháy nhà ḿnh
để lây sang nhà
khác bị phạt: 3 lạng, 2 trâu
-
8, Săn được thú to phải biếu xén:
-
- Đùi to sau biếu An Nha, các
ph́a
-
- Thịt thăn to biếu
ông Xen
-
- Đường thịt thăn trong biếu ông
Pọng
-
- Thăn treo biếu ông Ho Luông
..vv…
-
9, v.v làm cuông nhốc: quy định như sau:
-
Những bản phải
làm cuông nhốc trong mường làm theo Luật định, bản ở xa ở xổng nào
th́ làm cho
xổng đó.
-
Các chức dịch
phải dẫn dân cuông nhốc bản mỉnh được
đi vỡ hoang, làm thủy lợi, lập bản.
-
Người
Xá Khao (Kháng) ở bản nào đều phải là cuông nhốc ở đó. Người Mèo
không phải làm cuông nhốc nhưng phải nộp thuế, nộp lợn gà cúng tế ở
mường.
-
10, V.v làm cho người (nữ) bị chửa hoang và chửa
trước khi thành vợ:
-
- Án Nha, thư lại thông lại
bị tội này cũng bị phạt 12 nén bạc, làm trước (ăn cơm trước kẻng)
bị phạt 6 nén.
-
- Con chức dịch (Tạo và nàng) đi
chơi bị làm chửa, phạt 6 nén bạc
-
Đàn bà góa nhà Án
Nha ph́a tạo tội chửa hoang phạt 12 nén
bạc.
-
- Ai đó ngoại t́nh: phạt 12 nén
bạc
-
- Làm chửa không chịu lấy
(kể cả gái) bị phạt cho cả 2 phía.
-
- Quan chức bị phạt được An Nha
giảm ½ số bạc.
-
11. Xử phạt trộm cắp:
-
- Ăn cắp hoa màu phạt 1,2 nén
bạc, nếu là con nhà chức dịch th́ bị tăng gấp 2
-
- Ăn cắp
thóc lúa: đền gấp 2, phạt 1,2 nén bạc.
-
- Ăn cắp trâu bắt
làm tôi đ̣i (nô lệ) cho Ph́a Tạo, nếu
không phải phạt gấp 3 lần (3 trâu)
-
12. Ngoại t́nh:
-
- Vợ ngoại t́nh:
nếu chồng bắt được có quyền giết chết, đánh đập kể cả t́nh nhân,
không coi bị án mạng, kiện th́ được 12
nén bạc
-
- Đàn ông ngoại t́nh: bị chồng
người ta đánh giết cũng không bị tội, kiện bị phạt 12 nén bạc.
-
13. Bổng lộc cho các quan trong pḥng cúng lễ:
-
- Ông Mo ở bản Pán hưởng 3 mẫu
ruộng, lấy người 2 bản làm nhốc
-
- Ông Nghè ở bản
Pán hưởng 1 mẫu
ruộng và 1 bản làm nhốc…
-
14. Đất nước, rừng và cúng lễ:
-
Mường
bản chỗ nào mà chẳng có ma (phi) phù hộ: cấm không được vi phạm
những nơi sông, núi, ao thiêng…
-
15. Cúng Mường: tục lệ quy định là:
-
1/- Xên cha
(lễ cúng Mường) là lớn nhất thuộc lệ
hàng Châu Mường, tổ chức vào ngày “cúng nhà” cho An Nha…
-
2/ Xên Mường: lễ có 1 trâu, 1
ḅ, 5 lợn, 1 chó, 1 vịt, 32 gà + rau quả…lễ ở gian “tạy” của nhà An
Nha.
-
3/, Xên
kẻ khó Mường (cúng giải hạn cho Mường): 1 trâu, 3 lợn, 10 gà, 1
chó cúng ở nơi “cửa hồn chiềng” phía
“cửa xen” phía trên Mường mé cuối ḍng suối.
-
4/, Cúng hồn chiềng: Cỡ như trên
làm ở “cửa hồn chiềng” phía “cửa pọng”.
-
5/, Cúng tiễn tối
tớ ma nhà:…. Dựng lều ở
sân nhà An Nha.
-
6/, Lễ cúng điều lành.
-
7/, Tế đen trắng:
2 trâu 1đen/1 trắng cúng hồn Mường và
họ ngoại Tạo ĂmPoi.
-
8/, Tế ở cửa suối
Muội: Cửa sông Nặm Muội là nơi có khu rừng già nguyên sinh ở Mường
Sại. Đó là nơi cụ chủ “Ngu Háu Cầm Ḷ Lẹt” đă dựng nhà cúng tế tổ họ
Tạo - tổ tông người Thái đen: 1 trâu đen.
-
16. Lễ
cúng cho mỗi người, mỗi nhà.
Bài 40:
QUAN CHỨC
VÀ TRÍ THỨC
-
Người Thái ở Sơn
La, trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong
kiến tầng lớp quư tộc, thầy mo đều được học hành, có chữ nghĩa…nên
Ph́a Tạo và con em họ thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc)
vừa là trí thức ở địa phương.
-
Thời Lê Trịnh,
triều đ́nh đặt chức “phụ đạo” để cái quản các Châu
Mường.
-
- Châu Phù
Hoa (Phù Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế
tập.
-
- Châu Mộc;
phụ đạo là Xa Văn Phấn (tổ tiên là Xa Khả Tham, làm quan
Đại tư mă hồi đầu nhà Lê).
-
- Châu Mai: Phụ đạo là Hà Công
Ứng, sau con là Hà Công B́nh kế tập.
-
- Châu Mai Sơn:
Phụ đạo Cầm Nhâm Tuần
-
- Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân
Mang.
-
- Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm
Chính.
-
- Châu Quỳnh Mai:
Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm.
-
- Thời xă hội chủ nghĩa (sau
1955…) về tri thức ở Sơn La nổi bật có
-
1/ - Gia đ́nh
nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa,
em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng
hợp Hà Nội, ông có nhiều công tŕnh giá trị về Dân tộc học. Em trai
là: Đạo diễn nổi tiếng Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam
Sao”.
-
Con trai là Tiến sĩ ngành ngân
hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
-
2/ - Nhà dân tộc
học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người
Thái ở Tây bắc Việt Nam” và nhiều tác phẩm khác.
-
3/ - Hoàng
Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ -
làm tới chức Bí thư tỉnh ủy Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN.
-
4/ - Cầm Ngoan:
Phó chủ tịch khu,
chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội.
-
5/ - Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) -
Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La
-
6/ - Nhà văn Sa Phong Ba (Sa
Viết Sọi) sinh 1948, Thái ở Cao Đa (Bắc Yên) Hội Viên Hội nhà văn
Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
-
7/ - Điêu Chính
Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu
tiên ra tiếng phổ thông “Sống chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu).
-
8/ - Nhà thơ Cầm
Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xă Sơn La) thượng
tá, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La.
-
9/ - Nhà nghiên
cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mă, đại học, có
nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật.
-
10/ -
Nhà thơ Ḷ Vũ Vân
(1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).
-
11/ - Họa sĩ Ḷ An Quang (Bản
Cọ, TX)
-
12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích
-
13/ - Nhạc sĩ Cầm
Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao
hưởng bài ca Tây Bắc” “Liên khúc tiễn dặn người yêu”.
-
14/ - Nhà thơ Vương
Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu - 1938 - Hội viên hội
nhà văn VN.
-
Tác phẩm: Ing Éng
(thơ), Mối t́nh Mường Sinh (tiểu
thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương Han.
-
15/ -
Nhà thơ Ḷ Văn Cậy (1928-1994) quê Sốp Cộp
(Sông Mă) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Ḷ Văn
Cậy.
-
16/ - Nhà thơ Ḷ Văn E
(1933-1995) quê Sốp Cộp.
-
17/ - Phó giáo
sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên,
chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công
tŕnh về dân tộc học.
-
18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ,
hát)
-
19/ - Phát thanh viên VTV1
Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).
-
Đặc điểm: Các
quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường,
xă, huyện, tỉnh thường là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy
tín với nhân dân, có năng lực quản lư (cai trị) có tín nhiệm với
trung ương.
-
Từ sau khi tái
lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch
UBND tỉnh), Cầm Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc
hội), Thào Xuân Sùng (HMông, Bí thư tỉnh ủy), Ṭng Thị Phóng (Bí thư
tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn
Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc của chính phủ);
các tướng như Ḷ Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt sỹ như Ḷ
Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của
nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê
hương ngày một giàu đẹp.
-
-
-
-
Bài 41
TANG LỄ THÁI
-
-
Nghi thức chung:
nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc
đến chủ tŕ, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực - rồi phát tang.
-
Chết, rất kiêng
kỹ ngày “măo” đó là ngày con Ong, ngày
vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như c̣n sống
(Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”. Ngoài
ra c̣n kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma
(phí).
-
Sau khi tắt thở:
con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm,
thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót
ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải căng
trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
-
Cây nêu làm bằng
cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm
toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để treo áo người quá cố (đàn
ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải màu trắng và
đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải,
tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo).
Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”,
hướng về đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây
nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người
th́ không phải đem theo thức ăn v́ đă có ông thầy Mo cúng bái “làm
tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy Xam háp bung, Xam háp
khẩu nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo nồi).
-
Cây nêu bên
mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa
là hồn đă về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở
với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết làm,
gần gũi với tang chủ.
-
Khi khâm niệm
(cộn pang) phải có 2 mảnh thổ cẩm lót dọc 2
sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai
chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài,
con dâu th́ mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài,
con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân
quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm
đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
-
Không được đến
gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn
khách, cơm trưa và chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể
phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có th́ cháu rể thay, cỗ có 3
mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4
chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1 thang
tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đă lo được mâm
cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.
-
Sau đó trải tấm
vải trắng lên quan tài, trên đó có những
miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố,
cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu
cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.
-
Sau khi viếng,
cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác được bó vải đặt trên
1 cái kiệu tre khiêng ra g̣ đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma)
chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho
vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…
-
Tục ngữ có câu “cốc cồ lộn báư
bên/ vên tai báư hụ” (không tự nh́n thấy gáy ḿnh/ ngày chết không
ai biết trước), sinh có hẹn, tử bất kỳ là vậy!
-
-
-
-
Bài 42
CỔ TÍCH
-
-
1, Tháp Mường Và:
ở Sốp Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mă, là Tháp của dân tộc
Lào).
-
2, Đền thờ
vua Lê Thái Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế.
-
Là vua trẻ anh
minh, vua đă 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch.
Vào tháng 3 năm canh thân 1440 và 1441 trên vách đá (núi) nh́n xuống
cánh đồng Chiềng An có khắc 1 bài thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm
khẳng định sự toàn vẹn lănh thổ và mong thiên hạ thái b́nh. Trải qua
500 năm chữ khắc vào đá c̣n rơ nét ở cửa Động La.
-
Đền thơ vua Lê
Thái Tông mang dáng dấp đền cổ Việt Nam (khởi công 9/2001, khánh
thành 22/1/2003) để ghi công đức vua và
là nguyện vọng chính đáng của nhân dân Thành phố Sơn La hôm nay ở tổ
2, phường Chiềng Lề.
-
Theo Đại Việt
sử kư toàn thư th́ 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên
phản nghịch Nghiễm ở Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào)
làm phản.
-
Vua thân chinh
điều khiển 6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng
voi xin hàng. Ta thương nó quỳ ḅ không mang vũ khí, không nỡ
chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về, để lại bài thơ khắc
trên vách hang Thẳm báo kế:
-
Nghĩ đến người xa đêm khổ tâm,
-
Thổ tù sao lại dám quên thân
-
Thế gian đă có anh hùng chúa,
-
Thiên hạ ai tha kẻ nghịch thần…
-
Đường xá khó khăn đừng cậy hiểm,
-
Hang cùng đá ấm áp hơi xuân
-
Yên được dân lành nhơ nhớp hết,
-
Dân xa được hưởng tấm ḷng nhân.
-
(Năm đầu
niên hiệu Đại Bảo)
-
Canh thân
1440.
-
Nguyên văn chữ Hán là:
-
Bộ chẩm lưu tâm niệm viễn chân,
-
Man tù hà sự tốc vong thân.
-
Thế gian nhược hữu anh hùng chủ,
-
Thiên hạ thùy dung
phản nghịch thần.
-
Ồ đạo duyên
vân không thị hiềm,
-
Âm nhai rương
noăn kỷ diên xuân.
-
Cách
trừ ô nhiễm an dân thiện
-
Nhẫn sử hà mạnh ngoại chí nhân.
-
3, Di tích
nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm
1908, giai đoạn 1930 - 1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ
cách mạng Việt Nam với các tên tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường
Chinh, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Song Hào, Văn Tiến
Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Tùng, Tô
Hiệu.
-
4, Nghĩa trang
liệt sỹ Tô Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn La, ở thân đèo
Khau Cả phía quốc lộ 6 lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua thăm gốc ổi” của
Trần Huy Liêu).
-
5, Sân bay
Nà Sản: Tháng 10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào
Nà sản…đă làm quân Pháp mở ra bài học
để Đại tướng Henrie Navare hi vọng sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ
của máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của quân Anh để xây
dựng cứ điểm Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn cứ
Nà Sản là để ngăn quân ta tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 -
1953 quân Pháp rút khỏi Nà sản bằng không vận sau 1 thời gian cầm
cự.
-
6, Ngă ba C̣ Ṇi: nơi
đây được Tây gọi là “ngă ba tử địa” chỉ trọng năm ngày từ mùng 1
đến 5/4/1954, máy bay quân Pháp đă dội xuống đây 36 tấn bom để ḥng
ngăn chặn quân ta… Địa danh Ngă Ba Có Ṇi đă đi vào trang sử vàng
chói lọi của TNXPVN, nơi có đài tưởng niệm 100 chiến sĩ TNXP hi
sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
-
7, Di tích cách mạng Lào ở bản
Lao Khô, Xă Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.
-
8, Di tích lịch
sử Kỳ Đài Thuận Châu: ở cách trung tâm huyện lỵ Thuận Châu (Chiềng
Ly) 1 km về
phía tây. Ngày 7-5-1959 kỷ niệm 5 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ
và 4 năm ngày thành lập khu tự trị Thái Mèo, Bác Hồ cùng đoàn Đại
biểu chính phủ (Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, nhà thơ Tố Hữu, Bộ trưởng
y tế Phạm Ngọc Thạch) lên thăm đồng bào và chiến sỹ Tây Bắc… đă được
tổ chức một cuộc mét ting lớn ở đây (thủ phủ Khu tự trị lúc bấy giờ)
-
-
-
-
Bài 43.
ĐÈO PHA ĐIN
-
-
Nơi trời ghé xuống hôn mặt đất
-
Núi vồng
lên ôm ấp mây trời
-
Cứ như thể ta bay vào bát ngát
-
Giữa đất trời hạnh phúc sóng đôi
-
(NK)-
-
Tên
đèo Phạ là trời, Địa là đất(c̣n gọi là Vách trời), hàm nghĩa đây là
nơi tiếp giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận Châu Sơn La đi
Tuần Giáo (Lai Châu) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao
nhất 1648 mét, nơi có cột truyền h́nh nặng 70 tấn, chịu sức gió
200km/h; dốc đèo 10% - 19%.
-
Ở chiến dịch Điện
Biên Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin
phía ta có 8000 thanh niên xung phong “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay Pháp dội bom chặn đường lên của quân
ta.
-
Từ năm 2006 -
2009 sửa Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ
(tránh), làm đường mới ở độ cao thấp hơn phía trái Quốc lộ 6 cũ, cao
khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi lại dẽ dàng.
-
Đèo Pha Đin có
thể coi là thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng
gió, sương mù, mây ngợp
luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cơi thần tiên khi ta lên tới đỉch.
-
-
-
-
Bài 44:
SUỐI, MÓ NƯỚC
NÓNG
-
-
1, Suối nước nóng
Bản Ṃng (Thành
phố Sơn La) cách trung tâm thành phố 6 km về phía Tây Nam có suối
nước nóng bản Ṃng, nhiệt độ là 38oc nhiều chất khoáng
tốt cho điều trị khớp, thần kinh…
-
2, Suối nước nóng
Ngọc Chiến ở
độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3 dân tộc: Thái trắng, Hmông,
LaHa nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng chảy qua bản Lướt,
tắm gội đẹp da.
-
3, Mỏ nước
thần ở bản Miềng, xă Mường Lèo,
rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh.
-
4, Chỗ bản Ít
tong (huyện lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước nóng, mùa đông bốc
hơi nghi ngút, nóng gần 50ođượm
mùi khoáng: tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.
-
-
-
Bài 45
LỄ HỘI LUNG
TA
-
-
Người Thái trắng
(Quỳnh Nhài và các noi) thường th́ vào
chiều 30 tết âm lịch…coi như thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang
năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, c̣n cá nhân th́ tắm gội mặc quần áo
mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người trong bản ra
suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1 năm
mới, đó là để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều
không may mắn của năm cũ, tống tiễn tai ương theo ḍng nước đi măi
không lặp lại…đồng thời cho con người sức khỏe, năm mới tốt lành,
gặp điều hay, làm ăn phát đạt. Để chuẩn bị cho lễ hội gội đầu trước
đó cả tuần chị em đă vo gạo nếp lấy nước, đổ vào cái nồi cất giữ để
cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi nước
tắm là nồi nước thơm của cây mùi già. C̣n cánh đàn ông gội nước bồ
kết nướng ai nấy áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối,
bờ sông.
-
Chị em cởi trần,
kéo cạp váy
lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước
gạo nếp chua, nước lá thơm, nồi xơa theo ḍng nước…
-
Đàn ông th́ quần
cộc, cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn
ông c̣n mang súng kíp ra bờ sông bắn nổ to vài phát tiễn năm cũ đón
năm mới ḥa trong tiếng chiêng trống ấm vui của cả bản.
-
Gốc gác sự tích
của “lễ hội Lung ta” (lễ hội gội đầu) là trong buổi lễ: Ông Mo c̣n
hát kể về công lao của nữ tướng Nàng
Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc ngoại xâm, đuổi
chúng tới tận cơi Mường Xo (Phong Thổ - Lai Châu)…Dẹp xong giặc; cho
quân sỹ nghỉ ngơi, tắm gội trên ḍng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng
chiến thắng…v́ thế người Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn c̣n lưu
lại phong tục này - đó là lễ hội lung ta (xuống bến nước làm lễ gội
đầu) vừa là tẩy trần sạch sẽ vừa là để tưởng nhớ vị anh hùng dân
tộc…
-
-
Bài 46
DU LỊCH MỘC
CHÂU
-
-
Cao nguyên Mộc
Châu ở độ cao 1050m so với mặt biển,
cách Hà Nội gần 194 km (quốc lộ 6), rộng khoảng 25 km, dài 80 km với
16000 ha đồng cỏ, mùa hè mát mẻ (20oc) mùa đông rét đậm,
khô ráo, mù sương…
-
Đây là vùng lư
tưởng để nuôi ḅ sữa (toàn vùng đă nuôi 7200 con, công ty ḥ sữa Mộc
Châu có 3500 con, đạt sản lượng 7000
tấn sữa tươi/năm, toàn vùng trên 7000 con đạt trên 28.000 tấn/năm,
năng suất 20,5kg/con/ngày).
-
Đây là những đồi
chè nối tiếp nhau bát ngát, ta cứ ngỡ
tới vùng chè Cameron Highland ở Malaysia? Từ thị trấn nông trường,
tới Tân Lập, Cờ đỏ đi vào Ngũ động bản Ôn là những sóng đồi chè xanh
tươi…toàn vùng có tới 3200 ha chè (toàn Sơn La khoảng trên 4000ha)
đó là chè Phiêng Khoài (Yên Châu), chè Nà Sản, Phiêng Cầm (Mai Sơn),
chè Pḥng Lái, chiềng pha (Thuận Châu), chè Tà Xùa (Bắc Yên); ở Mộc
Châu có 6 công ty - nhà máy chè…trồng và chế biến các loại chè San
Tuyết, trà Ô Long, trà Kim Tuyên…tổng số trên 3000 ha các loại,
trong đó hơn 2700 ha đạt năng suất cao 74,1 tạ/ha.
-
Mộc Châu đang
là nơi du lịch lư tưởng của người Hà Nội đến với vùng khí
hậu ôn đới gần nhất: 194 km, đi ô tô mất 3 giờ đồng hồ. Đó là các
điểm:
-
- Đông Sơn Mộc
Hương, nằm ngay trung tâm thị trấn nông trường với diện tích 6915
mét vuông, từ quốc lộ 6 đi vào có 150 mét, qua 240 bậc tới cửa hang,
di tích người xưa 3000 - 3500 năm.
-
- Thác Dải Yếm
(thác Nàng) thuộc bản Vắt, khởi nguồn
từ 2 khe nước Bó co lắm và Bó tá cháu chảy ra thành suối Vắt, qua 5
km ḥa vào suối Bó Sập giáp biên giới Việt Lào chảy về phía Yên Châu
tạo ra thác dải yếm mùa mưa, thác rộng 70m.
-
- Rừng thác sải
yếm đi
ngược quốc lộ 43, khoảng 600 m rẽ sang 1 hẻm đi 300m là vào bản Vặt
(Thái) khá phát triển nghề dệt Thổ Cẩm - ở đây có lễ hội xe chá, ẩm
thực trên hồ Noong Buông.
-
- Thắng cảnh đỉnh
núi Phiêng Luông cao 1500m (ngang Tam Đảo) trên đỉnh là 1 băi bằng sông
cỡ 10 ha tha hồ hóng gió trông mây vùng biên giới Việt Lào.
-
- Ngoài ra c̣n
tham quan rừng thông Mộc Châu, thác
Thái Hưng, chùa Chiền Viên.
-
Mùa xuân đẹp nào
hơn vườn đào Lơng luông, hoa mơ hoa mận
ở vùng Mèo Vân Hồ?
-
- Ẩm thực: Các
cửa hàng ở thị trấn có các món
“lợn cắp nách” “đặc sản gà dai” lẩu dê nấu ngải cứu - các món nướng
Thái, Lẩu xá, cơm lam, xôi thơm….
-
Có thể nói Mộc
Châu - miền xanh thẳm cao vời vợi lưng trời, 1 viên ngọc bích ở địa
đầu miền Tây Bắc của Tổ Quốc đó là vùng nông thôn miền núi ngàn đời
hoang sơ dân dă đang công nghiệp hiện đại hóa ở 1 tŕnh độ cao…đến
đây để ta vừa hoài niệm bâng khuâng, vừa hứng khởi trông về tương
lai tươi sáng và tràn trề hi vọng….
-
-
-
Bài 47
NGƯỜI BẮN HỔ
-
-
Tháng 6/1963, vào
huyện Sông Mă (vùng biên giới Việt Lào)
và tôi được các anh ở đây kể câu chuyện “anh Sáng bắn Hổ”.
-
Số là hồi 1952
- 1953, vùng này là hậu địch, Việt Minh ta mới xây dựng được khu căn
cứ nhỏ với 1 đội du kích tuyên truyền vũ trang…anh em phải ở lán
trong rừng, luôn di chuyển để tránh địch, ăn th́ nhờ lấy trộm gạo ở
mả mấy người mới chết ngoài Paheo (rừng ma), đào củ mài, hái rau
rừng đợ bữa qua ngày. Trong đội có anh Ḷ Văn Sáng vác súng kíp vào
rừng t́m con don, con dím, con lợn rừng…Thế là vào 1 đêm anh đến
phục sau gốc cây bên bờ hồ, chờ lũ lợn về uống nước, khoảng 10 - 11
giờ khuya, đám lợn vài con ủn ỉn đổ về ao (hồ), 1 ông ba mươi (hổ)
to đùng, cỡ con ḅ tháu cũng khẽ khàng bước ra “ŕnh” vồ chú lợn
choai (chắc mẩn, 1 bữa ngon), gốc cây anh Sáng nằm phục cách hổ độ 7
mét… Đúng lúc Hổ vồ lợn th́ anh Sáng cũng bất thần nổ súng…một phát
xuyên táo chết tươi 2 chú Hổ và lợn. Thật là hi hữu “trời cho” may
và tài, b́nh tĩnh chớp thời cơ…
-
Thế là 1 tiếng
“hú” đồng đội anh chay ra: người vác lợn, người khiêng hổ về căn cứ
được 1 phen liên hoan xả láng…
-
Tiếng lành đồn xa
“anh Ḷ Văn Sáng người bắn hổ” làm vang danh tiếng tăm đội du kích,
làm bọn Pháp và tay sai hết hồn mỗi khi quân
ta tập kích đánh giặc trừ gian…cho đến ngày giải phóng.
-
Sau này, anh Sáng
tham gia công tác thoát ly, hồi 1962 - 1963…anh
Sáng đă trở thành Bác Ḷ Văn Sáng, chủ tịch ủy ban hành chính huyện
Sông Mă: 1 vị chủ tịch râu tóc bạc phơ, cao ráo, cường tráng (đẹp
lăo) thông minh tháo vát, ung dung thư thái dẫn dắt (lănh đạo) nông
dân huyện sông Mă cùng cả nước tiến lên xă hội chủ nghĩa.
-
-
-
-
-
Bài 48
CÂU CHUYỆN SĂN VOI
-
Tháng 8/1983, sau
khi đi họp Quốc hội kỳ giữa năm (tháng 6, về…bác Cầm Ngoan, chủ tịch
UBND tỉnh Sơn La, phó chủ tịch Quốc hội) goi
tôi (NK) ra th́ thầm: anh sang bảo anh Thường (trưởng ty lâm nghiệp)
2 anh em vào sông Mă chỉ huy trạm kiểm lâm cùng đồn biên pḥng đi
săn lấy 1 con voi rừng để đón chủ tịch Trường Chinh sắp tới (vào dịp
2/9 lên thăm tỉnh). (1)
-
Thế là NK tôi cùng
anh Nguyễn Xuân Thường (khoảng 52 tuổi hơn NK 7 tuổi, người Mường ở
Yên Lập - Phú Thọ sang công tác hậu địch xa nhà từ hồi 1950, hồi
1963 làm bí thư kiêm phó chủ tịch huyện Sông Mă, Bác Ḷ Văn Sáng làm
chủ tịch) lên 1 xe u oát, cùng khoảng 5 kg Keo Mậu dịch quốc doanh
đem theo để làm quà cho bọn trẻ các nhà thân quen (chẳng biết có đứa
nào là “con gửi” của bí thư huyện ủy cũ hay không, có trời mới
biết?).
-
Đường dài 120km,
qua 7 khúc suối (1 xe đi trên ḷng suối), mất trên 10 tiếng đồng hồ
th́ tới Bản Địa bên này bờ sông Mă, vào ở nhà chủ tịch xă Nà Nghịu,
cũng là trung tâm thị trấn huyện Ly. Điện thoại réo Hạt trưởng kiểm
lâm (quân của trưởng ty lâm nghiệp) và thượng úy đồn trưởng biên
pḥng về nhận lệnh…
-
Xong,
cả tối 2 anh em cùng chủ tịch xă, mới thêm cả phó chủ tịch huyện phụ
trách nông nghiệp: 4 anh em, 2 con vịt, ít cá sông, 1 hũ rượu cần, 1
chai lẩu xiêu “hảo hán nớ” - au hảnh nớ…cạn chén bơ bao ngày xa cách
(hồi tháng 6/1963, NK Tôi cách đấy 20 năm, hồi mới ra trường, xung
phong vào Sông Mă làm quân anh Thường xuống chỉ đạo sản xuất ở xă Nà
Nghịu…nên cả 2 anh em đều là người cũ, bạn cũ xa lâu mới về… cuộc
Kin lẩu (cuộc rượu) tới khoảng 11giờ đêm th́ có tiếng vó ngựa lộc
cộc của hạt trưởng kiểm lâm chạy về: Báo cáo 2 anh đă trông thấy
voi.
-
- Ừ thế
th́ tốt, ngồi xuống, ta au hảnh (cạn chén) vài choác để lấy khí thế…
-
Chiều tối hôm
sau, mấy anh em đang ngồi hàn huyên trao đổi xây dựng vùng cánh kiến
Sông Mă, xử lư vấn đề sấy Long Nhăn của bà con khai hoang Hưng Yên
nên như thế nào?... th́ có tiếng xe đạp (hồi này chưa có xe máy) của
thượng úy trưởng đồn biên pḥng chạy về báo cáo:
-
- Thưa 2 anh, bọn chúng em phối
hợp với kiểm lâm đă tiếp cận voi, con này voi đực, ngà c̣n nhỏ, cỡ
7 - 8 tạ…
-
- Được, cứ thế mà triển khai…
-
Sáng hôm sau: Hạt trưởng kiểm
lâm cùng phó chủ tịch huyện đến:
-
- Báo cáo 2 anh
em, nếu bắn được voi bọn em dự kiến ăn
chia như sau:
-
2 đùi sau,
lá gan, ṿi
và ngà xin gửi 2 anh về biếu tỉnh - c̣n lại: một ít huyện ủy, 1 ít
ủy ban, c̣n lại chia đều đầu người ở hạt kiểm lâm và đồn biên pḥng.
-
- Thế cũng được;
các cậu xuống tận nơi xem anh em chúng nó “săn” thế nào, phải chắc
ăn đấy…
-
Chờ 2 ngày, bặt tin
-
Đến ngày chờ thứ 3 th́ cả 2 hạt
trưởng và trưởng đồn hớt hải chạy về:
-
- Báo cáo 2 anh,
voi nó đánh hơi thấy không lành, nó sợ,
chạy về Lào (bên kia biên giới) mất rồi…
-
Ôi, thế là cụt
ṿi, thế là hết chiều ni voi đi măi…
-
Thật
là vô vọng - 2 anh em (NK tôi và anh Nguyễn Xuân Thường) không ai
nói với ai câu ǵ, chia tay huyện c̣n dặn với 2 chú em:
-
- Các cậu cứ tiếp tục theo dơi
bám sát trận địa, phát hiện thấy voi th́ “điện” ngay ra tỉnh…
-
Bữa tiệc
chiêu đăi chủ tịch Trường chinh lên
thăm cán bộ, nhân dân tỉnh Sơn La năm ấy diễn ra b́nh thường, Chủ
tịch tuổi đă cao, ăn kiêng, không uống rượu, tính cụ vốn là tiết
kiệm (ăn uống đơn giản như Bác Hồ) nên các vị quan chức đầu tỉnh bữa
ấy cũng không dám “hảo hán nớ” - “au hảnh nớ”…
-
Và chú
voi (săn hụt) chắc là đang quay ṿi vung vít như nhắn sang bên kia
biên giới:
-
- Vua chúa bây giờ có ư thức bảo
vê động vật hiếm quư, không ai được ăn thịt voi đâu nhé.
-
Chuyện thật như đùa vậy!
-
Hà Nội, 11 -
3 - 2012
-
NK
-
(1)Lúc này
NK đang làm
-
Thư kư Đ/c
chủ tịch tỉnh
-
-
-
-
Bài 49
X̉E THÁI
-
-
Múa x̣e, c̣n
có tên “x̣e khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có
32 điệu, nổi tiếng nhất là x̣e phong Thổ, x̣e Mường Ḷ.
-
Phổ cập
là điệu “khắm khen” mọi người nắm tay nhau quay ṿng tṛn, biểu hiện
cho t́nh đoàn kết; điệu “khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời
rượu tỏ ḷng yêu quư và mến khách; điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào
về phía trước ư nói trời đất dù có băo giông, sống gió nhưng t́nh
cảm con người với nhau th́ luôn gắn chặt; Điệu “phá xí” tức bỏ bốn,
tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu “nhôm khăn”
tức tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà
mới, sinh thêm con cháu, cưới xin…
-
Ở vùng Mộc Châu -
Mai Châu (Tày Đeng) có các điệu x̣e
chá, x̣e ồng bổng, x̣e kiếm, x̣e đánh máng…
-
X̣e ồng
bổng là 1 điệu múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau
nhảy nhót xung quanh đống lửa theo nhịp “ḥ huậy, ḥ huây” mừng
thắng lợi gịn giă sau cuộc đi săn về hoặc xung quanh ṿ rượu cần
mừng nhà mới.
-
Đặc điểm x̣e này:
trang phục b́nh thường chỉ có đàn ông x̣e, “nhạc” miệng là tự hô,
cổ vũ người xem, vui nhộn phóng khoáng. Điệu x̣e “đánh máng” dành
cho nữ giới, cứ 3 cặp mỗi cặp dùng
2 chày gỗ gơ vào máng dùng để giă gạo, tạo ra tiếng chày gịn chắc,
nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn ră.
-
Các điệu x̣e (xe)
được các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng dáng
gần gũi với dân bản như “xe cúp” (múa nón),
xe tẳng chai (múa chai), xe kếp phắc (hái rau), xe cáp (múa sạp)…
-
Các điệu x̣e ṿng
sôi nổi bao nhiêu th́ các điệu x̣e đơn, x̣e tốp lại tinh tế duyên
dáng bấy nhiêu - với triết lư âm dương:
trời đất, nước - lửa và ư nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa kỳ ảo trong
các điệu x̣e Thái từ xưa tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ
hội.
-
-
-
-
Bài 50
NHẠC KHÍ THÁI
-
-
Từ xưa người
Thái đă làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt nhạc
tiếng sáo giữa núi rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ để “pay
ỉn sao” nói tiếng ḷng vào con tim người mà ḿnh theo đuổi…
-
1, Pí tam lay (pí nốc ống) cấu
trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch
thanh, ống 2 đôi khi được lắp thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang
của âm thanh.
-
2, Pí lào nọi
(sáo lào nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy
khác là 1 hàng âm 6 lỗ.
-
Xuất xứ: từ “pí”
(sáo) có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn hoẵng
(từ pép đẻ ra pí cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên
tiếng Hoẵng kêu (Hoẵng giác) đó là lúc con đực đi t́m con cái để bắt
chước tiếng Hoẵng gọi bạn t́nh phải chăng vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa
tép mà véo von mà “bếp nhà sàn, tiếng pí thổi say mê” là thế?
-
Ngoài sáo c̣n có KHÈN…
-
-
-
-
Bài 51
THƠ CA THÁI
-
-
Xứ Thái,
có thể nói là
xứ sở của hát thơ (khắp xư).
-
Vốn thơ ca
cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng”
hoặc sử thi “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ t́nh như Sống chụ
son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương
Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….
-
Bước
đầu đă có làn điệu “ḷng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài
thơ, xét theo h́nh thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo
Dương Đ́nh Minh Sơn th́:
-
- Hệ tín ngưỡng
“hát thơ mo”
do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
-
- Hệ
dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ t́nh, hát ví, hát ḥ trên
sông, hát ru, hát đồng dao……vv….
-
Ở người Thái 2
chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ư nghĩa “Thơ để giải
bầy nỗi ḷng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cơi ḷng ai
đó”.
-
Thơ Thái là 1 thứ
“kinh thi” bản địa, hồn quê ḥa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ
dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như
đă nói ở trên đă trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.
-
Thơ đương đại của
các tác
giả Thái Sơn La (thời cách mạng xă hội chủ nghĩa) thường dùng lời
thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc ḿnh, làm
chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lănh
đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài
mới:
-
-
HÀO QUANG KHẨU CẢ
-
(tác giả tự dịch)
-
Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau
cả (1)
-
Là nói lên:
-
- Rắn hơn sắt
thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi
cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng
của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh
hùng đất nước.
-
Nhưng:
-
Khâu Cả
là ḷ luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân,
góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu
và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông:
chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh
thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng
ḿnh, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt
Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/
mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.
-
Sơn La,
9/7/1998
-
Hoàng Nó
-
(Cầm Văn
Lường - 1925 đă mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn.
-
-
(1) đồi Khâu Cả:
ngọn núi (đồi) ở giữa thị xă Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh
công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề.
-
Sau
là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
-
-
-
-
-
-
ĐÔI BỜ THƯƠNG
NHỚ
-
-
Mặt trời đi qua sàn nhà người
thương
-
Hạt nắng c̣n vương bên thềm cửa
sổ
-
Hoàng hôn đi mặt trời không rủ
-
Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng
hôn.
-
Anh mượn
gió gửi lời câu thương nhớ
-
Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao
giờ
-
Mười sẽ quên và chín sẽ quên
-
“Sông Mă cạn bằng đĩa mới quên”
-
Chín lần quên để ngàn lần thương
nhớ!
-
Anh là con thuyền trôi trong
ḍng sông đôi mắt
-
Để đôi bờ bên nhớ bên thương
-
6/1997
-
Hà Trường Giang (1950)
-
Quê huyện
sông Mă - Sơn La
-
-
VÀNG VÀ THƠ
-
-
Một câu thơ, một
hàng vàng
-
Cân coi thử, ai nặng hơn ai?
-
Nem công, chả quế ăn vội
-
Không hóc cũng cay!
-
Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa
ngọt
-
Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt
-
Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim
-
Cái ǵ giữ măi hương
thơm
-
Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt
-
Thơ bằng tim, đậm măi trong tim
-
Cầm Biêu (1920-1997)
-
Quê Mường Chanh
- Mai Sơn
-
-
-
LỜI MẸ
-
-
Yêu nhau bằng lời nói
-
Mẹ bảo chưa đủ
-
Bằng mân khiêng cỗ nặng
-
Mẹ bảo cũng chưa no
-
Vội đón sau đón trước
-
Cành vướng sợi tơ ḷng
-
Mẹ bảo!
-
Hăy lấy ngày làm
gang để đếm
-
Lấy tháng làm sải để đo tấc ḷng
-
Mưa to có cùng nhau hứng?
-
Mặt trời làm tấm gương soi
-
Soi vào khuôn mặt
-
Soi vào ḷng dạ tim gan
-
Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần
-
Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp
ngón tay
-
Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt…
-
Đầu lưỡi nếm cho rành
-
Tự đáy ḷng ḿnh “cân đong”
-
Xử sự công bằng
-
1983
-
Ḷ Văn Cậy (1928 -
1994)
-
Quê Sốp Cộp
- Sông Mă
-
-
-
-
-
-
-
-
-
HOA RỪNG
-
-
Thấy em lượm bông vạt nương chân
núi
-
Như đứng
giữa dải ngân hà
-
Anh vứt bó cây, chạy ngay tới
-
Chẳng đợi em ưng ư
-
Anh cứ mà lượm theo.
-
Mới đầu anh lượm cây này, em
lượm cây kia
-
Rồi lượm chung cây
-
Lượm chung cành
-
Lượm cả tay nhau.
-
Mặt trời bảo về, ta chưa muốn
-
Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng
bên nương
-
Tắm trong hương hoa vừng thơm
ngát
-
Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng
xanh
-
Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em
lay động
-
Hàng cúc bạc long lanh
-
Ngực em mười đôi cúc bướm
-
Có mười
đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng
-
Ngực rực hồng tia nắng
-
Ngực ngấn đầy hương hoa.
-
Vương Trung
(1938)
-
-
ÁNH CHỚP TRỜI
XA
-
-
Mưa rơi trên núi Giảng?
-
Chớp lóe sáng chân mây!
-
Ai phơi ǵ sàn ngoài
quên dọn. Mau dọn!
-
Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than:
-
- Tháng 5,
tháng trời buồn, không buồn
-
Tháng 6, lặng mưa dông - Sao
dông (1)
-
“Rồng chọi rồng” ngày đêm không
ngớt.
-
Cất tiếng cười hai cháu cầm tay
-
- Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi!
-
-
(1) Tục ngữ:
Tháng 5: trời buồn
-
Tháng 6:
trời kiêng mưa
-
Sơn La 19 -
5 - 1979
-
Ḷ Văn E (1933
- 1995)
-
Quê Sốp Cộp
- Sông Mă
-
NHỚ CON
-
-
Có điều ǵ sánh được
-
Mẹ nhớ con
-
Thương từ những lỗi lầm
-
Mưa lâm thâm mà ḷng mẹ thành
băo
-
Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây
-
T́nh yêu của mẹ là trái chín
trên cây
-
Để cho con bốn mùa hương vị ngọt
thật đắm say
-
11 - 1992
-
Cầm Thị Phụi
-
(Phó chủ tịch HĐND tỉnh)
-
-
ĐÊM HỘI MÚA
X̉E
-
-
Tiếng trống, tiếng cồng vang
giục giă
-
Như chắp cánh niềm vui bay cao
-
Cả “Khuống” mường bỗng dưng
nghiêng ngả
-
Với ṿng x̣e nhún nhẩy say sưa
-
Đôi chân thon thon quen theo lối
nương.
-
Đôi chân bè đạp
ṃn lối ruộng
-
Quyện bên nhau rập ŕnh
-
“Khắm xéo” quàng
trên áo cóm
-
Tất cả rung lên, cả rừng hoa
chao đảo
-
Cái dùi gỗ băm trên mặt trống
-
Rền như giông,
như sấm
-
“Họa…họa…Huệ…Huệ…”
-
Cả ṿng x̣e cuồng lên
-
Theo nhịp trống, nhịp tim
-
Tung chân nhảy hết ḿnh, hết sức
-
“Đàn bướm” cúc
muốn bay khỏi ngực
-
Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo
-
Ṿng x̣e quay, quay măi không
ngừng
-
Lương Văn
Tộ (1946)
-
Quê Sông Mă -
Sơn La
-
CÂY BAN TRÊN
RỪNG
-
-
(Tác giả tự dịch)
-
Ào ào băi xoáy
-
Đá lăn, cây đổ
-
Thân sâng,
gốc sở ngổn ngang
-
Một cây Ban đứng điềm
nhiên
-
Cạnh lối lên nương làm cỏ
-
Hỏi giông,
hỏi gió
-
Sao Ban kia vẫn b́nh yên phận
thường?
-
Cây ban rằng: “ḥa t́nh yêu”
-
Trắng trong tuổi trẻ
-
Chung thủy tận già
-
Lửa mường đất gốc, chưa thành
than
-
(th́ không thể chết
-
Gió dập thân,
cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh)
-
Một cây Ban
-
Đứng trên nương
-
Ḷ Xuân
Thương (1936)
-
Quê Púng Tra
- Thuận Châu
-
-
-
-
CHIỀU BẾN VẠN (1)
-
-
Bến cũ đâu hỡi sông?
-
Bến ở trong ḷng nước
-
Miệt mài ngày đêm chảy
-
Về Ḥa B́nh khơi xa.
-
Bản t́nh ca bất tận
-
Gập ghềnh đá nơi đâu?
-
Ở trong ḷng nước ấy
-
Với biển hồ phẳng lặng
-
Xóa những ḍng vách ngăn.
-
Và mai lên
-
Ngược xuôi
-
Thuyền đánh cá
-
Và chiều buông
-
Sương giăng tṛn
-
Trăng xóa
-
C̣i tàu vang xa, vang xa
-
Bến Vạn Yên
1995
-
Hoàng Bạch
Long 1949
-
Quê Huy Thượng - Phù Yên
-
(1) Bến Vạn
Yên: Phố
nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xă Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà
ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông.
-
-
KHOẢNG XANH
-
-
Gió Lào mang hơi lửa
-
Hun sém cả trưa hè
-
Cháy khét tiếng ve
-
Rừng tre trơ trụi lá
-
Con chim vội vă sà xuống khe
trốn
-
Sợi nắng muốn
chăng đan mặt cỏ
-
Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả
-
Trái đất đă quen mùi khắc
nghiệt!
-
Đến con kiến cũng c̣n phải ung
dung thư thái
-
Miệt mài tha mồi về tổ
-
Ai như quả bứa chín vàng mơ
-
Trong trẻo giữa trưa hè
-
Thời gian nḥa vào im lắng
-
Một khoảng không
trống vắng
-
Vỗ ào vào cánh xanh
-
Ḷ Vũ Vân
1943
-
Quê Bắc Yên
- Sơn La
-
-
XUÂN BẢN THÀN
-
-
Tết
-
Ở bản Thàn
-
Cái vui
-
Sôi lên từ hũ rượu cần
-
Bụng trống
-
Vú chiêng
-
Rung lên
-
Cả mái sàn chao đảo
-
Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu
-
Măng vầu
-
Măng sặt
-
Dỏng tai đón mưa rơi
-
Xuân 1996
-
Ḷ Vũ Vân
-
-
-
-
-
-
BIỂN Ở THẢO
NGUYÊN
-
-
Ở độ cao một ngh́n năm mươi mét
-
Rất xa biển nên
thèm nghe sóng biển
-
Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao
xao
-
Ước có biển nên gom mây về làm
biển
-
Biển Thảo Nguyên biển trắng
vỗ mênh mông
-
Đảo là những ngọn thông, chóp
núi
-
Cho thuyền chim đi
về neo đậu
-
Thảo nguyên xanh đắm ḿnh trong
màn huyền ảo
-
Đưa ta về thời xưa cổ tích
-
Dưới đại dương lộng lẫy thủy
cung?
-
Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa
khoảnh khắc
-
Bỗng chốc tan - biển biến
về đâu?
-
Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá
-
Lại trong veo,
ngời sắc Thảo Nguyên.
-
Thảo Nguyên
Mộc Châu hè 1997
-
Ḷ Vũ Vân
-
-
NHỚ VỀ PHỐ VẠN
-
-
Chúng tôi dân tứ xứ
-
Gặp nhau ở nơi đây
-
Dựng nên một Phố nhỏ
-
Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1)
-
Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)
-
Tôi Mường Bi, Mường Động (3)
-
C̣n chị hay mơ mộng
-
Theo chồng lên nơi đây
-
Là dân
Nam Định đó (4)
-
Một dăy phố nhỏ thôi
-
Bao ḍng đời đă chảy
-
Tụ về Phố nhỏ này
-
Nhớ bến Vạn thuở ấy
-
Thuyền đuôi én ngược xuôi
-
Ai đi xuống chợ Bờ
-
Ai ngược ḍng Đà Giang
-
Lên Mường Chiên,
Mường Ét
-
Ḍng sông vẫn êm trôi
-
Nối phố nhỏ của tôi
-
Với bao bờ thương
nhớ
-
Ơi bến Vạn, phố Vạn
-
Phố của chúng tôi đó
-
Mùa đông heo hút gió
-
Tết về câu đối đỏ
-
Tiếng pháo lại rộ vang
-
Tiếng chuông điểm đ́nh Ang (7)
-
Tiếng trống vang đ́nh Hán
-
Hồn thiên cổ bay về
-
Bản làng trong khói hương
-
Mùa hè nóng rát bỏng
-
Những cây phượng trước ngơ
-
Lại cháy đỏ màu hoa…
-
Nay phố đă đi xa
-
Ch́m đáy nước sông Đà
-
Ôi phố núi nho nhỏ
-
Phố của chúng tôi đó
-
Vẫn cháy màu phượng đỏ
-
Trong ḷng mỗi chúng tôi
-
Rồi một ngày không xa
-
Hoa phượng lại rực đỏ
-
Trên phố mới nguy nga
-
Tôi lại viết bài ca
-
Về bến Vạn, phố Vạn
-
Phố
của hoa phượng đỏ
-
Thắm măi bên sông Đà
-
6/1996
-
(1) Bến
phố Vạn Yên (Tân Phong,
Phù Yên)
-
(2) 2 tỉnh
của quê gốc người Hoa
-
(3) Thuộc
Ḥa B́nh quê người Mường
-
(4)
Chợ Bờ (Ḥa B́nh), nay ch́m dưới hồ
-
(5) Thuộc
Quỳnh Nhai
-
(6) Đ́nh
Ang, Đ́nh Hán là 2 ngôi đ́nh thuộc
xă Tâm Phong
-
Nhà thơ Đinh
Tân (1942)
-
Dân tộc
Mường
-
Quê Tân
Phong, Phù Yên, Sơn La
-
CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA
-
-
Điều tra dân số
1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641
người). Có 12 dân tộc anh em.
-
Thái
|
-
482.985
|
-
Người chiếm
54,7 %
|
-
Kinh
|
-
153.646
|
- Người chiếm
17,42%
|
-
Hmông
|
-
114.578
|
- Người chiếm
13,00%
|
-
Mường
|
-
71.906
|
- Người chiếm
8,15%
|
-
Các dân tộc khác
|
-
|
- Người chiếm
6,73%
|
-
Tŕnh độ dân trí tính đến 2002:
-
Tỉ lệ biết chữ 70,8%
-
Học sinh phổ thông 220.430 em
-
Giáo viên 10.209
người
-
Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26
người/1 bệnh viện
-
-
-
-
-
Bài 52:
CHUYỆN T̀NH
Ở CHIỀNG LY
-
“Ngắm họt
Mường Muỗi
Nhớ về Châu Thuận”.
-
-
Với ngh́n năm
lịch sử, bản Mường Chiềng Ly là trung tâm chính trị - kinh tế - văn
hóa của 18 Châu Mường Tây Bắc….đă để
lại nhiều giai thoại về các mối t́nh khá cảm động.
-
-
1) Mối t́nh thứ nhất: Khun
Lú - Nàng Ủa.
-
-
Thuở đó, Then
(chúa tể của Mường Trời) sinh hạ được một nàng công chúa đặt tên là
Cong Péng. Lớn lên Nàng xinh đẹp và thông minh hơn người. Trên Mường
Trời chẳng có ai xứng làm chồng Nàng. Duy nhất chỉ có Then (cha) là
xứng đáng. Nhưng luật đời không thể loạn luân. V́ vậy Then gọi nàng
đến cho xuống trần gian làm người, hẹn 23 năm sau sẽ trở về trời.
-
Dưới trần gian
khi đó có Ph́a Chiềng Ly, quyền uy lừng
lẫy, sinh được 2 quư nữ đào tơ.
-
“Cắm xôm, chị khiến trăng mờ
-
Nàng em Ngân Liếng, cá ngơ ngẩn
nh́n”
-
Một hôm, khi
“hè đă sang Ban tàn rừng biếc/ muôn loài ve tha thiết kêu ran/ mưa
rào tràn ruộng bậc thang/ nắng oi đă gọi 2 nàng ra sông/ tuột váy áo
vẫy vùng sông nước/ Phô tấm thân ngà
ngọc dưới trời/ Từ trời, trời ngắm trời coi: eo như tiên cá, 2 chồi
như hoa/ Trời thầm tính: ta đà có cách/ gửi con ta vào quách 2
nàng…” Thế là công chúa Cong Péng được biến thành một quả sung chín
mọng và thơm phức trôi đến 2 nàng đang tắm; 2 chị em bắt lấy và chia
nhau ăn
-
Nàng Ngân Liếng ăn liền mát dạ
-
Nằng Cắm Xôm nuốt cả ngọt thơm
-
Thấy người khoan khoái râm ran
-
Chừng như phép lạ mê man động
t́nh.
-
Từ đó 2 chị em
đều có thai mặc dù chưa hề chung sống với ai cả. Hai cô nàng
đều rất đau buồn và hổ thẹn! Thế rồi cha (Ph́a Chiềng Ly) nhờ uy thế
nên vẫn t́m được chồng cho 2 nàng.
-
Chồng Cắm Xôm là Khum Pâng
-
Chồng Ngân Liếng là Khun Bái.
-
9 tháng 10 ngày:
Cô chị sinh được chàng Khun Lú, cô em sinh ra Nàng Ủa,
cùng sinh ra lớn lên ở trong dinh thự ông bà ngoại ở Chiềng Ly.
Trước đó 2 chị em (2 mẹ ) đă từng thề bồi:
-
Ta cùng chịu phép trời biến hóa
-
Sinh gái trai sẽ gả cho nhau
-
Cho chung một Mệnh khổ đau
-
Cùng là gái: gả trước sau một
chồng.
-
Hết thời
hạn ở rể, ông Ph́a Chiềng Ly cho Khun
Bái đem vợ và con (Nàng Ủa) về quê sinh sống.
-
Hai trẻ sinh ra
lớn lên ở bên nhau, vốn có duyên trời nên yêu nhau tha thiết, 2
mẹ cùng vun vén hùn vào…Nay xa cách rất chi là thương nhớ; Rồi nhiều
lần t́m cách thăm nhau, mối t́nh ngày một bền chặt. Nhưng rồi “thấm
thoát” qua nhiều năm nhiều tết…ông tạo Bái
dứt khoát theo “Luật Mường” đă gả Nàng Ửa cho Khun Trai….và gia đ́nh
chàng Lú cũng ép chàng phải lấy Nàng Mành (Méng)... Kết cục là Nàng
Ủa và Khun Lú quyên sinh chết v́ người t́nh như đă ước hẹn. Hồn 2
người biến thành 2 ngôi sao Khun Lú - Nàng Ủa (Sao Hôm, Sao Mai) bị
trời chắn 1 bức phên ngăn cách chỉ được nh́n thấy nhau chứ không
được gặp nhau; và đúng như trời định: 23 năm sau, hồn Ủa về gặp
Then, Then liền lấy làm vợ (con gái ḿnh đă đầu thai sang kiếp khác
để khỏi vi phạm Luật trời - Trời cũng khéo biến hóa là vậy). Chàng
Lú và Nàng Ủa chỉ c̣n là:
-
Đứng xa cách đôi bên cùng liếc
-
Lệ đưa t́nh thảm thiết đắng cay
-
Đất không thương, trời lại đầy
-
T́nh chung cũng chỉ khóc hoài
mà thôi
-
Chàng lẩn khuất mây trời vạn
kiếp
-
Nỗi nhớ thương biền biệt không
gian.
-
-
2. Mối t́nh
thứ 2: T́nh chàng thi sĩ.
-
-
Thầy giáo
trẻ Trần Lê Văn (sinh 1920, quê Vị Xuyên - Nam Định) năm 1943 được
Nhà nước Bảo hộ (Thực dân Pháp) cử lên dạy Tiểu học ở Chiềng Ly,
được bố trí ở 1 gia đ́nh người Thái họ Bạc (Bạc Cầm, Cầm Văn… thuộc
tầng lớp quư tộc Thái - sau này 1946 -
1953 tỉnh trưởng Sơn La thuộc Pháp là Bạc Cầm Qúy).
-
Thời trước năm
1945 ở xứ Thái (Sơn La) này quan đầu tỉnh là công sứ người Pháp (tên
Tây lai Cousseau - rất gian ác: vợ hắn người Việt, con nhà giàu, do
Bố mẹ giúp hắn “chạy” được cái hàm
“Hồng lô tự thiếu khanh” (trật Chánh Ngũ phẩm) của Triều đ́nh Huế -
đó là 1 con cáo già trong giới quan cai trị của thực dân Pháp ở Sơn
La thời đó).
-
Con gái rượu của
chủ nhà là cô Bạc Thị Nâu, cũng là học sinh của Thầy Văn. Chàng trai
Thành Nam
23 tuổi, có tâm hồn thi sĩ ở cận kề cô Nàng tuổi cập kê “trai chằm
nhinh báu đi” (trai gần gái không tốt)- thế là 1 mối t́nh trai gái
thầm lặng bốc lửa. Khi mẹ Nàng phát hiện ra con gái ḿnh “đầu mày
cuối mắt” với thầy giáo Văn th́ bà tuyên bố như dao chém đá “cho dù
chúng nó “yêu” to bằng trái núi cũng không gả”- mối t́nh Thái Kinh/
ngược xuôi quả là trắc trở… Nhưng may thay: Vừa lúc ấy, Việt Minh
nổi lên, bọn thống trị thực dân Pháp và bè lũ tay sai chạy bán xới
lên Lai Châu rồi sang Vân Nam (Trung Quốc - đang là thời chính quyền
của Quốc dân Đảng - Tưởng Giới Thạch), anh giáo trẻ Trần Lê Văn trở
thành cán bộ giáo dục của chính quyền cách mạng tỉnh Sơn La, mối
t́nh Trần Lê Văn - Bạc Thị Nâu xem ra thuận buồm xuôi gió th́ t́nh
thế lại xảy ra vào lúc ngặt nghèo: một cánh quân Pháp tràn từ Vân
Nam xuống nhằm chiếm lại 18 châu Mường Xứ Thái. Thế là một đám cưới
gấp (đám cưới t́nh thế): chỉ có nhà gái với chú rể (cùng đại diện
đoàn thể Việt Minh) thật đúng như nhà thơ đă ghi lại:
-
Tháng hai sườn
núi trăng ngơ ngác
-
Đám cưới hiu buồn một giác mơ.
-
Lư do làm chàng buồn v́
-
Cả họ nhà trai có chú rể
-
Anh lính tiền tuyến làm ông tơ.
-
Thế rồi “Nàng
theo chàng về Dinh”, rồi đi qua 2 cuộc kháng chiến…cô gái Thái ở
Bản Chiềng Ly (Thuận Châu) luôn là người vợ hiền thục của nhà
thơ Trần Lê Văn (thường trú ở Thủ Đô cho tới ngày đầu bạc, răng
long).
-
-
3. Mối t́nh
thứ 3: T́nh chàng họa sĩ.
-
-
Họa sĩ Kiều Minh
(sinh 1938 - quê Hà Nội). Năm 1962, sau khi tốt nghiệp Đại học
Mỹ thuật Hà Nội lên công tác ở Sở văn hóa khu tự trị Thái Mèo, đóng
ở bản Chiềng Ly (thủ phủ)…cô Bạc Thị Nguyệt (cháu gái bà Bạc Thị
Nâu) lúc này là “cô Văn Công” - đoàn văn công khu Tây Bắc: xinh đẹp,
hát hay, múa dẻo đă lọt vào tầm mắt của chàng trai Họa sĩ Hà thành.
Thời điểm này: cách mạng đến, xóa bỏ chế độ Ph́a Tạo…làm thay đổi
mọi cách sống và nếp nghĩ, sự ḥa hợp đoàn kết dân tộc có nhiều sự
tiến bộ, đă có nhiều cuộc hôn nhân Kinh - Thái, nên việc nên vợ nên
chồng của đôi bạn Minh - Nguyệt không có ǵ trở ngại. Năm 1975, sau
khi giải thể khu tự trị Tây Bắc: họa sĩ Kiều Minh được chuyển về Bộ
văn hóa, 1984 NK tôi cũng được chuyển về Hà Nội, đến thăm 2 bạn, xúc
động hạ bút viết bài thơ.
-
-
BẢN
CHIỀNG LY
-
-
Bản Chiềng Ly chưa đi đă nhớ,
-
Phố chênh vênh bên núi bên hồ;
-
Gái bản từ lâu quen chợ búa
-
Trai Thuận Châu bao
bạn nằm mơ.
-
-
Người Chiềng Ly hay đi đây đó,
-
Mùa hoa Ban về dự hội Làng;
-
Quả c̣n lửa bay ngang trời phố
nhỏ,
-
Trái tim hồng thiếu nữ đón xuân
sang.
-
-
Tôi say đắm yêu cô Nàng như
thế.
-
Cha mẹ thương cho về ở Kinh Kỳ;
-
Không ở rể mà vẫn là rể quư
-
Để mỗi năm lại
lên tết Chiềng Ly.
-
NK
-
Bài thơ NK viết
lúc đến thăm 2 bạn Minh - Nguyệt ở Hà Nội, được viết lại hoàn chỉnh
ở Chiềng Ly (Thuận Châu) hồi 1993 - bài thơ “Bản Chiềng Ly” được
nxb giáo dục
in vào Tuyển tập Văn học Dân tộc miền núi - 1999.
-
Nhà văn Hoàng
Quảng Uyên tăm đắc với 2 chữ “chênh vênh” của phố Thuận Châu nên
con người Chiềng Ly cũng chênh vênh cùng đất, phải đi đây đi đó
nhưng sự ra đi ấy không phải là “ly” (biệt) mà bởi v́ mảnh đất
có nhiều níu kéo…Thơ NK có một chút ǵ bảng lảng của khói lam chiều
trên nhà sàn Tây Bắc, của nắng nhạt trải thảm cao nguyên mang dấu ấn
hào hoa Kinh Bắc.
-
Với NK th́ sợi chỉ đỏ (thông
điệp) của bài thơ nằm ở 2 câu:
-
…. Cha mẹ thương cho về ở Kinh
Kỳ;
-
Không ở rể mà vẫn là rể quư
-
Là nói lên cái
thành quả của cuộc cách mạng dân tộc gắn với chủ nghĩa xă hội: đă
xóa đi được cái thành kiến phân biệt xuôi/ ngược (Kinh, Thái…)
Không phải ở rể như thời chế độ Phía Tạo, mọi dân tộc anh em đều
có thể trở thành dâu rể trong gia đ́nh
Đại Việt: “Để mỗi năm lại lên tết Chiềng Ly” thăm lại Bản cũ Mường
xưa.
-
-
LỜI CUỐI SÁCH
-
“Sơn La kư sự”
gồm 52 bài
tùy bút, hồi ức, thơ, sưu tầm, ghi chép về xứ Thái một thời NK đă
sống, nhằm để con cháu, bạn bè, ai đó đọc xong “ờ Sơn La, người Thái
nó là như thế…” để thêm yêu cái xứ sở “Sơn La âm u núi khuất trong
sương mù” rồi “nước Sơn La, ma Ḥa B́nh” ngày xưa nó bí ẩn, lạ lẫm,
đáng sợ làm sao?
-
Năm 1962 (vừa tái
lập tỉnh) Sơn La mới có 18 vạn dân, chủ yếu là người Thái,
sau 1975, nhất là sau 1986 người xuôi (Thái B́nh, Hưng Yên…) lên ồ
ạt, đến nay 2009 dân số toàn tỉnh 10.080.641 trong đó dân tộc Thái
trên 48 vạn người.
-
Mọi phong tục tập
quán kể cả tiếng nói chữ viết Thái đang bị “ḥa nhập” ḥa tan, bị
lai ghép đă dần mai một. SOS là thế…
-
Để kết cuốn sách này, có lẽ hay
hơn là nhờ Chế Lan Viên nói hộ:
-
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo
mây phủ
-
Nơi nào qua ḷng lại chẳng yêu
thương?
-
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
-
Khi ta đi, đất đă hóa tâm hồn!”
-
Góc thành nam Hà Nội 26.5.2012
-
NGUYỄN KHÔI
-
-
TIỂU
SỬ NHÀ VĂN NGUYỄN KHÔI
-
-
-
Nguyễn Khôi (tên
khai sinh : Nguyễn Kim Khôi)
-
sinh 1938, quê phố
Đ́nh, phường Đ́nh Bảng, thị xă Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh..
-
NR; 259/39 phố Vọng – Hà Nội.
-
- Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội
-
- UV BCH Hội Văn
nghệ Dân gian Hà Nội
-
- UV BCH Hội VHNT các Dân tộc
Thiểu số VN (Khóa 2)
-
Chuyên viên Cao cấp, nguyên
Phó Vụ trưởng Văn pḥng Quốc hội Việt Nam
-
Các tác phẩm đă xuất bản:
-
- Trai Đ́nh Bảng (thơ) nxb Văn
Học 1995,vhtt 2000
-
- Gửi Mường bản
xa xăm (thơ) nxb vhdt 1998 – Giải
thưởng Hội VHTH các DTTS VN 1998.
-
- Trưa rừng ấy
(thơ tứ tuyệt 100 bài) NXB
VHDT-2005
-
- Chiều phố Vọng
– Thơ, NXB NXB Hội
Nhà Văn -2011
-
- Bắc Ninh thi
thoại (biên khảo) đă tái bản lần thứ 3.
-
- Các dân
tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và đặt tên (biên khảo NXB
VHDT 2006.
-
- Cổ Pháp cố sự-
4 tập, 920 trang NXB
VHDT, viết về cội nguồn nhà Lư.
-
- Có thơ in ở:
tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000 (NXB
lao động); tuyển tập thơ
-
Việt Nam
1975-2000, NXB
Hội Nhà Văn; tuyển tập Văn học Miền Núi-NXB giáo dục1998; tuyển tập
thơ Việt Nam thế kỷ 20 (NXB giáo dục-2005) , tuyển tập thơ Việt Nam
10 năm đầu thế kỷ 21(NXB Hội Nhà Văn 2010)vv…
-
Dịch thuật:
-
- Sống Chu Son Sao (Tiễn Dặn
Người Yêu) – truyện thơ dân tộc Thái
-
- Tiếng hát làm Dâu (dân ca
H’mông) vv…
-
Giải thưởng :
-
- Giải thưởng viết
về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bài thơ ” Về Hà Nội”.
-
- Giải thưởng Văn học Nghệ thuật
Thủ đô 2008 cho Bộ sử Làng Cổ Pháp cố sự.
Nguồn: Nguyễn Khôi |