Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Sơn La Kư Sự - Phần 2

(Ghi chép về bản cũ, mường xưa)

 Nguyễn Khôi 
LỜI THƯA
 
Khoảng thời gian từ 1955 - 1975 th́ 18 Châu Mường (huyện miền núi) phía Tây bắc Việt Nam là khu tự trị Thái Mèo, sau đổi là khu tự trị Tây Bắc. Tổ chức Nhà nước VNDCCH trên Trung ương là chính phủ ở Thủ đô Hà Nội, dưới là khu  hay tỉnh rồi tới huyện, xă, thôn (bản). Thời đó chính quyền cơ sở (chiềng - xă) c̣n rất yếu: Chủ tịch xă, trưởng bản phần lớn nói tiếng phổ thông (kinh) c̣n chưa thông, mới vơ vẽ đọc thông viết thạo…Để giúp cơ sở hoạt động có hiệu lực th́ cấp tỉnh, huyện thường cử cán bộ xuống giúp xă “chỉ đạo” (kiểu cố vấn, trợ lư) gọi là “cán bộ phụ trách xă”, nôm na là “cán bộ cắm bản”, thực hiện “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân bản).
NK tôi sau khi tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp lên Sơn La công tác (1963-1984) ở Ty Nông nghiệp, rồi Ban nông nghiệp tỉnh ủy nên đă có nhiều đợt làm “cán bộ cắm bản”, để lại nhiều kỷ niệm không thể phai mờ…Nay đă ngót 40 năm, xin ghi lại đôi ḍng hồi ức “cắm bản” ghi chép về Bản cũ, Mường xưa.
Hà Nội, 28-2-2012
Nguyễn Khôi

MỤC LỤC

Số TT

Bài Phần 1 Số TT Bài Phần 2

1

Bản quê yêu dấu

27

Lẩu xá

2

Cơm Bản (Văn)

28

Đường lên Tây Bắc

3

Nhớ Cơm Bản (thơ)

29

Cây Mắc Chai

4

Canh Bon (thơ)

30

Hoa Ban

5

Ngủ Bản

31

Lịch sử nguồn gốc Thái

6

Sơn La xưa

32

Mường trời, Mường người

7

Sông Chó

33

Xửa cỏm, Váy Thái khăn Piêu

8

Đám cưới Thái

34

Quắm tố Mướng

9

Cầu vào Bản 

35

Lời ăn tiếng nói

10

Tiếng mơ trâu (thơ)

36

Táy Pú xấc

11

Núi Mường Hung - Ḍng sông Mă

37

Thiết chế xă hội Thái

12

Bóng núi (thơ)

38

Khu tự trị Thái Mèo

13

Nhớ Mường Hung (thơ)

39

Luật tục Thái

14

Xuân biên cương

40

Quan chức và trí thức

15

Chiều bản nhỏ (thơ)

41

Tang lễ Thái

16

Tắm ở bản

42

Cổ tích

17

Lễ Tằng Cẩu

43

Đèo Pha Đin

18

Tục đẻ ngồi

44

Suối mó nước nóng

19

Nhà sàn bếp lửa (thơ)

45

Lễ hội Lung ta

20

Sông Đà hùng vĩ

46

Du lịch Mộc Châu

21

Bến Tạ Bú (thơ)

47

Người bắn Hổ

22

Cây đào Tô Hiệu - Ai trồng?

48

Câu chuyện săn Voi

23

Nhà sàn Thái

49

X̣e Thái

24

Gái Thái

50

Nhạc Khí Thái

25

Pí pặp (thơ)

51

Thơ Ca Thái

26

Tên một số món ăn

52

Chuyện t́nh ở  Chiềng Ly

 

 

PHẦN 2

Bài 27: 

LẨU XÁ

Rượu cần (lẩu xá - rượu của người Xá “Khơ Mú”) là thứ rượu ủ men (không cất = lẩu xiêu).
* Men lá gồm các thứ quả bơ, mắk cái, củ riềng, lá trầu không, quả ớt…giă nhuyễn với gạo tấm, sau đó nắm thành từng miếng tṛn dẹt như bánh rán, đem ủ trong đống rơm, xếp từng lớp đều nhau từ 15 - 20 ngày có mùi men bốc lên đem phơi, để gác bếp khô. Khi dùng giă nhỏ rắc vào cơm rượu. Mỗi mẻ rượu cần 7 - 9 bánh.
* Cái rượu: Vỏ sắn khô gọt ra ngâm suối 3 ngày đêm cho hết mùi bồ hóng và độc tố  ở sắn, vớt lên phơi khô trộn với trấu lẫn tấm đưa lên “chơ” (dụng cụ đồ hấp, đồ cho chín, đổ ra mẹt để nguội đem men rắc trộn đều, tiếp tục ủ bằng lá chuối hoặc lá rừng (bó nhum, bỏ cá) để rượu bốc men rổi bỏ vào chum (ché) lấy lá chuối hoặc mảnh ny long bịt kín (để hở th́ rượu sẽ bị chua) - sau 25 - 30 ngày th́ có thể dùng được, để càng lâu th́ rượu càng đặc, càng ngọt.
Ngoài sắn khô, c̣n làm bằng ngô, ư dĩ, củ dong riềng, chuối, dừa, củ mài…
 
*VĂN HÓA RƯỢU CẦN:
Rượu cần (lẩu xá) c̣n có tên là lẩu kép (rượu trấu), lẩu pẳng (rượu ống), lẩu co (rượu cây) rất  đậm ngọt.
Rượu Thái Sơn La: 1kg gạo + 2kg trấu + ½ lạng men. Ủ 5 - 7 ngày.
Khi uống: Mở nắp, đổ nước lă sạch vào ngâm 1 phút cho ngấm, cắm cần vào và đổ nước (sừng trâu) liên tục khi ta hút… uống đông vui: 1 hũ từ 10 - 12 bạn bè coi như là anh em “lẩu khay cáy khả” (rượu mở là thịt gà…).
Khi chum rượu lẩu xá đă mở là trống, khèn, cồng chiêng ḥa theo các điệu “khắp”, múa x̣e dập d́u say sưa tới sáng.
Bên hũ rượu cần là nơi hội tụ mọi cộng đồng mường bản, chân thành, đoàn kết, b́nh đẳng, không phân biệt ai với ai.
* Lẩu Xá chính hiệu:
Tháng 11/1993, Nguyễn Khôi tôi tháp tùng đoàn đại biểu Hội đồng dân tộc của Quốc hội do B.S Y Ngông Niêk đăm (chủ tịch) làm trưởng đoàn sang thăm hữu nghị nước CHDCND Lào. Ngày 25/2/1993 Đoàn Việt Nam lên vùng Lào Thâng, Lào Sủng ở tỉnh Luông Phạ Bang giáp với Sơn La.
Ở bên Lào: Người Lào Lùm (Thái) là ở vùng thấp, đông nhất. Thứ nh́ là Lào Thâng (rẻo giữa) chủ yếu là người Khơ Mú. Thứ 3 là Lào Sủng (Mèo, Hmông) ở vùng cao.
“Xá” là tên gọi miệt thị với người Khơ Mú của giới quư tộc Thái Sơn La xưa.
Thật là  dân dă: Trên một băi đất rộng, các chum “lẩu xá”  được bày ra, khèn Hmông (khèn lên man điệu) cất lên các điệu múa Khơ Mú rất phong phú và đặc sắc đan xen với các đợt hút rượu cần với kiểu uống 2 người đủ đầy 2 sừng trâu (ống  rót nước lă pha thêm vào chum rượu) - nước rượu râm ran cay ngọt chảy từ cổ họng vào tới dạ dày làm bừng tỉnh cả người (đúng là một liều thuốc tăng lực mạnh hơn  cả “ḅ húc” của Thái Lan). Thật là vui  như tết, trong cuộc vui say đoàn kết, người người ḥa đồng với nhau tưởng như không c̣n phân biệt dân tộc, không c̣n Quốc gia, người với người là bạn, là đồng chí anh em cùng chung cuộc sống thanh b́nh./.
 
 
 
Bài 28:

ĐƯỜNG LÊN TÂY BẮC

*Đường lên Tây Bắc xa xôi
Nếp nhà  sàn thấp thoáng
* Đường lên Tây Bắc quanh co
Tiếng chim rừng đây đó…
(Nhạc sỹ  Văn An)
Có 3 đường lên Tây Bắc theo 3 nẻo:
- Nẻo  thông thường (năm 1963) đi từ bến Kim Liên (liền công viên Thống Nhất và hồ Bảy mẫu) qua thị xă Hà Đông theo Quốc lộ 6…
- Đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ (1953 - 1954) đi từ Yên Bái - Nghĩa Lộ qua đèo Lũng Lô sang Phù Yên…
- Đường nhánh đi từ Hà Nội qua Hưng Hóa - Thanh Sơn (Phú Thọ) vượt đèo Cón vào Phù Yên theo đường 13 qua Sông Đà.
* Sau khi qua bản Song Pe (xem vợ chồng A Phủ) sang đ̣ bến Ta Khoa, lên đèo Chẹn, tới chân đèo Chiềng Đông tụt xuống C̣ Ṇi (đường 6) lên TX Sơn La.
1. NẺO QUỐC LỘ 6:
Quốc lộ 6 đi từ Hà Nội - Sơn La - Điện Biên dài 504km, điểm đầu là cầu sông Nhuệ (TX Hà Đông) là km số 0, điểm cuối là TX Mường Lay.
*Cầu sông Nhuệ - TX Ḥa B́nh 63km (đêm ngủ ở  Ḥa B́nh hay chợ Bờ) - ở đoạn quốc lộ  6 này có đài kỷ niệm anh hùng Cù Chính Lan đánh xe tăng Pháp năm (1953).
- Từ cây số 65 TX Ḥa B́nh đến TX Sơn La 256Km
- Sơn La - Tuần Giáo 56km
- Tuần Giáo - Mường Lay 100km
Thời Pháp (trước 1945) Quốc lộ 6 chỉ hết địa phận tỉnh Ḥa B́nh, sang tới địa phận Sơn La là đường 41 (xă Chiềng Yên): Khởi đầu cây số 0 là chỗ suối Rút đổ vào sông Đà, đi một chặng tới cây số 22 (năm 1963) ô tô sáng đi từ Ḥa B́nh hay chợ Bờ lên tới cây số 22 (Sơn La) là trạm Công an kiểm tra giấy tờ và nghỉ ăn trưa, có cửa hàng mậu dịch Quốc doanh. Ăn trưa xong đi lên ngược dốc tới đỉnh Đèo 46 (cây số 46) cao khoảng 1500m ngang núi Tam Đảo - Đây là bản Mèo (Hmông) đỉnh núi sương mù, nước suối giữa tháng 4 dương lịch nhúng lạnh buốt tay; tại đây cũng có 1 cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh (vùng cao) nơi hội tụ dân bản đến mua hàng gặp gỡ khá đông vui. Xe ô tô ca (giá 12đồng/ từ bến Kim Liên Hà Nội lên tới Sơn La, cây số 302 km đầu cầu Trắng bắc trên suối Nậm La qua thị xă tới bản Xẳng (xă Chiềng Xôm) chui qua gầm đèo Cao Pha đổ xuống Nậm Bú (xă Mường Bú rồi tới Sông Đà chỗ bến Tạ Bú).
Từ đỉnh đèo 46, xe ô tô xuống dốc một mạch suốt xă  Lơng Luông (Mèo) tới chân đèo là bản Hang Trùng (mường) cây số 58, rồi tới vườn Đào - cây số 64 có cửa hàng Bưu điện, trụ sở Sư đoàn 335, 1 đội của nông trường Mộc Châu (sau này thêm nông trường ḅ sữa Sao Đỏ ở cạnh đấy). Chợ Thảo Nguyên cùng Phố Thảo Nguyên đông vui, thấy máy cày, máy kéo biểu tượng của Chủ nghĩa xă hội hồi những năm 60 của thế kỷ 20 “anh đi khai phá miền Tây”, 4 giờ chiều xe tới thị trấn huyện lỵ Mộc Châu đông vui. 1 bàn ăn thịnh soạn, mất độ 1đồng (0,3đồng/1kg gạo) đủ bia rượu, thịt ḅ xào. Nhà trọ Quốc doanh đủ chăn đệm (đêm Mộc Châu mùa hè cũng dưới 20oC).
Sáng hôm sau, ăn phở 5 hào, xe ngược đi Yên Châu, tới cây số  82 là hết địa phận nông trường Mộc Châu, xuống 1 cái đèo nhỏ vào đất Tú Nang, cứ thế xe đi 1 bên núi, 1 bên suối Sập, 11 giờ tới thị trấn Yên Châu nóng bức như mùa hè dưới xuôi, chuối, muỗm, đường phên… bày đầy các “Quán” tự giác bên đường. Đến đoạn suối có cầu đi vào thị trấn là thấy chị em tắm truồng ngập sâu dưới suối…
Cơm trưa  ở Yên Châu, xong vượt đèo Chiềng Đông xuống C̣  Ṇi, Hát lót vượt dốc Mường Hồng vào khu sân bay Na Sản…  khoảng 2 - 3 giờ chiều là tới thị xă.
Thị xă  Sơn La hồi 1963 - 1965 các ṭa nhà đang xây, lô nhà 2 tầng chân đồi Khau cả là dành cho cơ quan, phía dưới đường Tô Hiệu là các dăy nhà cấp 4 cho cán bộ công nhân viên. Thời đó cơ quan biên chế c̣n ít người (Ty Nông nghiệp tất cả có 21 người).
Thời đó Quốc lộ 6 đi 1 xe/ 1 luồng, rải đá dăm, cấp phối - đi từ Hà Nội - Sơn La mất 2 ngày rưỡi (qua nẻo Suối Rút - chợ Bờ, nay đă là ḷng hồ sông Đà), nay đi mất có 6 tiếng đồng hồ.
 
2. NẺO QUA ĐÈO LỦNG LÔ
 
“Cho tới đầu năm 1953, Quốc lộ 13A (tức Quốc lộ 37 ngay nay) mới được khởi công để cho Tướng Giáp đưa quân lên đánh Pháp, ở Nà Sản…, con đường nối từ ngă 3 Vực Tuần qua Thượng Bằng La (Văn Chấn, Yên Bái) lên đèo Lũng Lô”.
“Đèo Lũng Lô anh ḥ chị hát”
(Thơ Tố Hữu)
Từ đèo Lũng Lô qua Phù Yên, qua Sông Đà vượt đèo Chẹn ra C̣ Noi (Sơn La). Từ ấy mới thực sự có con đường nối từ chiến khu Việt Bắc sang Tây Bắc và cũng là con đường huyết mạch của từng đoàn từng đoàn bộ đội - dân công lên đánh Pháp giải phóng Lai Châu - Điện Biên Phủ (1953 - 1954) làm chấn động địa cầu. “Đường lên Tây Bắc quanh co” chính là đi lối này.
“Lũng Lô”, tên bản địa là “Trảng nương hoang giữa rừng cây cổ thụ”. Đèo Lũng Lô ngăn cách hai tỉnh Yên Bái - Sơn La, đỉnh đèo ngợp trong sương mù bao phủ, bốn mùa ẩm ướt, nước chảy qua đường đá gồ ghề. Trước ngày h́nh thành đường 13A, Lũng Lô chỉ là một con đường ṃn men theo triền núi, rất ít người qua lại. Thi thoảng mới có dân bản Cơi (Phù Yên) và bản Dạ (Văn Chấn) qua lại thăm nhau hoặc đi săn muông thú, vào rừng đèo lấy song mây, đào củ mài trong những ngày giáp hạt. Người Mường ở vùng này gọi là đèo Lũng Lỗ (lỗ thủng) với h́nh tượng là trên đỉnh đèo mây mù trắng, nh́n từ chân đèo lên đỉnh xuyên qua một lối ṃn dưới tán cây cổ thụ th́ thấy như một cái lỗ thủng trên trời cao? Cũng có ư kiến giải thích “lũng” là thung lũng, “lô” là cây lau? Trước ngày giải phóng Tây Bắc (1953) Lũng Lô thuộc khu du kích Mường Thải (Phù Yên) đánh quân Pháp rất  kiên cường. Giặc Pháp và tay sai ở Phù Yên sợ không dám bén mảng đến. (theo Đinh Chanh - văn nghệ Sơn La “suối reo” số 6/2004).
3. Nẻo qua đèo Cón giữa Thanh Sơn (Phú Thọ) và Phù Yên (Sơn La) là thêm 1 đường chính phụ trợ cho Quốc lộ 6.
Quốc lộ 6 tới địa điểm C̣ Ṇi (co là cây, Noi, có lẽ đọc chệch “loi” là mậy loi, một loại nứa nhỏ bằng ngón tay dùng đan phên liếp thưng nhà)…đây là “rốn bom” do tàu bay B26 của Pháp dội bom chặn đường quân ta lên Điện Biên, ở đấy có tượng đài TNXP.
Con đường 13A (nay là đường 37) từ đèo Lũng Lô qua rừng ông Giáp ra C̣ Ṇi xưa qua đoạn núi Pu chạng hảy (dốc voi khóc) vượt hẻm dốc đá Suối Cao (Bắc Yên) ra bến Tạ Khoa (nay đă có cầu) qua pha Sông Đà lên đèo chẹn.
4, Đường lên Tây Bắc thời Lê Trịnh : Theo Lê  Qúy Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” th́ một dải sông Đà có 8 châu (huyện).
8 châu thuộc Phủ Gia Hưng là Phù Yên, Mộc Châu, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Sơn, Mai Châu, Sơn La và An Châu.
3 châu thuộc phủ Điện Biên là Ninh Biên, Lai Châu và Tuần Giáo.
3 châu thuộc phủ An Tây là Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai và Luân Châu. Đường đi từ Thăng Long lên th́ Châu Phù Hoa (nay là Phù Yên) đi mất 6 ngày; Châu Mộc; 8 ngày; châu Mai Sơn; 10 ngày; châu Mai Sơn có các động (Mường Bản) là Tŕnh ban (Chiềng Ban), Tŕnh chanh (Mường chanh).
- Châu Sơn La đi mất 12 ngày, có một xứ gọi là “hang cá” (chính là bản Bó Cá có cầu đá ở TX Sơn La), có mỏ yết Ong (Hiếu Chai - Mường Chai).
-  Lên Châu Thuận (Mường Muổi) hết 12 ngày.
- Châu Quỳnh Nhai, thổ âm gọi là Mường Chăn (Mường Chiên) đi lên mất 20 ngày có mỏ đồng Vạn Bằng, Vạn Ma.
- Lai Châu, thồ âm là Mường Lễ (Mường Lay) đi đường 22 ngày phong tục sân vật giống như Quỳnh Nhai (cũng là người Thái trắng).
- Châu Tuần Giáo: Thổ âm là Mường Quay (Mường Quài = con trâu) đi mất 18 ngày.
- Chây Tuy Phụ: Thổ âm là Mường Tè 
Hồ Chí  Minh viết:
Đi đường mới thấy gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
“Đường lên Tây Bắc” quả thật là như vậy.
7/3/2012 - NK
 
 
Bài 29:

CÂY MẮC CHAI

 

Ở Tây Nguyên, bên Lào có cây Kơnia đặc thù, đă đi vào lời ca tiếng hát, như một biểu tượng của quê hương xứ sở… th́ ở vùng Yên Châu - Mường La (Sơn La) có cây Mắc Chai, mà hầu như khắp nước Việt Nam này không đầu có? Đó là một loại cây thuộc họ nhà Muỗm - Xoài, nhưng cao to vượt tầm: Cao vài ba chục mét, gốc hai ba người ôm không xuể, đặc biệt là tán tṛn như một quả cầu xanh (lá nhỏ như lá cây Quéo), thường là cao vượt lên trên mọi cây cổ thụ khác, nên trên đường đi Quốc lộ 6 hay bề Bản, từ xa hàng cây số, ta đă trông thấy cái tán quả cầu xanh Mắc Chai in lừng lững trên nền trời xanh cùng bóng núi tím thẫm cao vời vợi như đang chờ đón đợi ta về…
Ở cây Mắc Chai như một điềm nghịch lư của tạo hóa: Cây th́ cao to vật vă nhưng quả th́ lại bé như quả trứng gà (có khác ǵ một bà mẹ to béo đẫy đà hết cỡ lại đẻ ra một chú bé tí hon?) - Quả Mắc Chai bé, hạt to chiếm tới 4/5 thể tích quả (thật là vô duyên, ăn chẳng bỏ) nhưng bù lại: Khi quả chín, chỉ một làn gió là nghe tiếng “lộp bộp”, một loạt quả tự rụng, ta nhặt lên bóp vân vê (như trước khi ăn quả vú sữa Miền Nam) rồi cắn đủ có một lỗ, rồi hút lấy nước cùi (bột vàng óng) th́ ôi thôi rồi: Thơm ngon vượt cả nước quả xoài đóng hộp ở sân bay Mun Bai (bên Ấn Độ) mà Nguyễn Khôi tôi có lần Transis (ghé qua) được thưởng thức thơm mát đến lịm người dưới cái nắng 45oc cùng những người dân bản địa da đen như bồ hóng.
Thời chiến tranh, ai từ Thuận Châu về thị  xă, lên tới đỉnh đèo Sơn La, dựng xe đạp vào gốc Mắc Chai, trải tấm Nylông, giở cơm nắm ra ăn, tu một hơi nước bi đông rồi ngả lưng đánh giấc. Ṿm cây Mắc Chai như một cái lọng xanh vừa che mát, vừa che kín mắt bọn giặc trời Mỹ… thế là cứ yên chí nằm nghe chim hót, lũ sóc chuyền cành kiếm quả rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa… và cây Mắc Chai như Mẹ hiền che chở ru cho ta một giấc ngủ b́nh yên để rồi (lấy sức) lại lên đường ra trận…
Cây Mắc Chai như ai đứng đợi
Đón ta về ngọt lịm giấc trưa.
 
 
 
 

Bài 30:

HOA BAN

 
* Chua chụ xướng chua bók ban
Pan Péng xướng pan bók khẳm
(Đời son trẻ như hoa ban
Đời thương như hoa khẳm).
Hoa Ban Tây Bắc là biểu tượng, là tín hiệu nghệ thuật đặc thù biểu hiện bản sắc văn hóa của thiên nhiên và con người Sơn La - Tây Bắc.
Nó là  loài ḥa kỳ diệu gắn bó mật thiết giữa thiên nhiên với đời sống con người… Nó là món ăn ngon (hoa ngọt), là h́nh tượng thơ tượng trưng cho những ước mơ, tâm hồn trẻ trung (mùa xuân) tính cách cao đẹp, mối t́nh thủy chung của con người.
Tết xong: Hoa đào đỏ, hoa mơ, hoa mận nở trắng các lối đi khắp các bản mường, và gió lào ù ù bốc lửa, trời hanh khô đến khó chịu - ngày 4 mùa: Sớm xuân, trưa hè, chiều thu, đêm đông, đang mùa đốt nương, khát khao cháy bỏng trời đất và ḷng người th́ đột nhiên qua một đêm tất cả các cánh rừng đều trắng ngát hoa Ban - Toàn bộ cây là hoa (lá mới nhú) cây đơm hoa, mát thơm dịu ngọt…
Thật là  cái đẹp, cái ngọt, cái mát trời cho giữa ngày tháng 3 nắng nóng ngột ngạt.
“Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Đủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào vừa ngái ngủ”
- Y Phương.
Đó là mùa động t́nh (t́m bạn) của con Nai, con hoẵng, mùa của ân ái lứa đôi.
Cây Ban thuộc họ Mưồng, thân gỗ “bộp” cao 5 - 6 mét, hoa trắng hay tím 5 cánh bướm. Trong 5 cánh có 1 cách chủ (cánh chúa): Tựa như 4 cách kia nhưng trên cái nền trắng hồng hoặc tím phớt của cả bông hoa, cánh chúa có thêm những kẻ xanh, tím, hồng (màu sắc cầu vồng) mềm mại trải dọc theo cánh hoa tạo thành những đường nét h́nh khối rất lạ mắt. Nếu nh́n xa th́ mỗi bông hoa Ban giống như một nàng Bướm mà cánh chúa và nhị hoa là thân và ṿi bướm, 4 cánh c̣n lại là 4 cánh bướm, cả chùm hoa Ban là cả một đàn bướm bay rập rờn trong gió xuân nhẹ nhàng - cánh Ban chúa tạo hồn cho sắc hoa là vậy.
Cây Ban ở  Sơn La thường mọc trong các phiêng đá lồi đầu, những triền núi khô cằn mà cây vẫn phát triển xanh tốt.
Ở nhiều nơi như Lào, Malaysia, Nam Ninh (Quảng Tây - Trung Quốc) không thiếu cây Ban nhưng khi nở hoa th́ cây vẫn xanh, hoa thưa nên không độc đáo như rừng Ban Tây Bắc Việt Nam. Tất cả cành trơ khẳng khiu qua một mùa đông sương muối (dưới 0oc về đêm), sang xuân là “Ban pún” lấm tấm mầm non của nụ và lộc. Chúng đang chờ những cơn mưa đầu mùa (để gieo ngô, trồng sắn) để hút lấy cái hơi ẩm của trời đất, hút lấy hơi Xuân ấm nóng (của gió Lào) mà nở bung.
“Và em ơi, một đêm xuân
Hoa Ban bừng nở
tần ngần
chào em ”.
“Nghĩ đến em đi đường sông chỉ thấy đá vồng chỉ thấy hoa Đào, hoa Ban, hoa Vông rụng đầy ḍng trôi…”
Lúc hoa Ban tàn để lại quả non trong đám lá  xanh mới nảy mầm lúc cuối mùa xuân, báo hiệu mùa làm nương rẫy mới.
Hoa Ban tàn anh hăy tra ngô
Hoa Ban làm quả anh hăy dọn nương tra lúa.
Cây Ban là cây “chỉ thị”: Đất nào cằn, cạn kiệt màu mỡ là xuất hiện cây Ban.
Kinh nghiệm dân gian Thái: Nh́n Ban nở để dự  đoán thời tiết mùa màng trong năm “năm nào vào đúng tuần cữ Ban nở rộ đều một lượt trắng ngát cả rừng, hai bên bờ suối là năm ấy mưa không dai quá, nắng không dữ, ít lũ lụt, ít hạn hán (mưa thuận gió ḥa) mùa màng tươi tốt thu hoạch lúa ngô đầy bồ. 
 Về món rau mùa khô (cuối xuân) th́ hoa Ban cả một rừng, dân bản tha hồ đi hái về “đồ” lên thay rau, phơi khô trữ ăn dần, hoa Ban làm nộm. Ăn hoa Ban như ăn 1 vị thuốc (trị kiết lỵ), giải nhiệt, lợi sữa, giải độc.
Hạt Ban già rang lên ăn thơm ngậy.
Rễ Ban đỏ chữa dạ dày, gan. Lá ban nấu  để rửa vết thương, sát trùng.
Song hau hặc căn báu mau Ban bók
Báu hên mua bók Ban xia
Báu tính bươn tính pi
Sướng pi cánh nọng hau hặc nhám lằng
(Đôi ta yêu nhau không tính mùa Ban nở
Không thấy ngày Ban tàn
Không tính tháng, không tính năm
Măi măi như mùa ban đầu đôi ta yêu nhau).
Ngoài hoa Ban, ở Sơn La - Tây Bắc dọc theo các khe suối c̣n có cây hoa Mạ (hoa ngựa) gắn với sự tích “bó mạ khun chương”: Kể về con ngựa của anh hùng Lạn Chượng khi chết hóa thành bông hoa Mạ, xuân đến nở rực vàng bên bờ suối, đón các cô gái chàng trai đến gặp gỡ tự t́nh nơi bến tắm bản quê./.
8/3/2012 - NK
 
 
 

Bài 31:

ĐÔI NÉT VỀ LỊCH SỬ NGUỒN GỐC THÁI SƠN LA

 

* Người Thái - mơ hồ trong tên gọi? Gốc gác ở Trung Quốc (trong số 56 dân tộc; với 1,16 triệu người), tên xưa gọi “Thái Lặc” (Tai Lue) - “Dai” (Thái tây song bản nạp) 2 ngôn ngữ là Tày Pong và Thái Đam (Tày đăm). Ngoài ra là tiếng Tráng (choang).
Thư tịch cổ gọi Điền Việt, Kim X́, Hắc Xỉ, Hoa Man, Bạch Y, Bạch Di, Bách Si, Bá Di…
Thời Hán quận Ích Châu là của người Thái (xem thất cầm Mạnh Hoạch - Tam Quốc Chí)? Rồi di cư theo dọc sông Lan Thương (Mê Kông) tới Myanma, Lào, Thái Lan, theo sông Hồng xuống Việt Nam.
* Người Thái ở Việt Nam:
C̣n được gọi là Tày Khao (trắng) đăm (đen) Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), hàng Tổng (Tày Mường), Pu Thay, Thổ Đà Bắc.
Nguồn gốc: Bách Việt, gồm với nhóm Choang (tráng), Tày, Nùng.
Di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 7 - 13, trung tâm là Mường Theng (Điện Biên), từ đây họ tỏa đi Lào, Thái Lan, bang Shan (Myanma), đông bắc Ấn Độ cũng như ở Nam Việt Nam? (gốc đi từ - xíp xoong păn na).
Ở Việt Nam: Đời Lư 1067 có Ngưu Hống (rắn hổ mang - tô tem), chỉ người Thái vào triều Cống, sau 1280 dưới sự cai quản của triều Trần.
Các thủ lĩnh Thái được gọi là “Phụ  đạo”.
- Họ Đèo cai quản các Châu Lai (lay), chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nhan.
- Họ Cầm cai trị Châu Phù Hoa (Phù Yên), Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Châu Luân, Châu Ninh Biên.
- Họ Xa cai quản Châu Mộc
- Họ Hà cai quản Châu Mai
- Họ Bạc ở Châu Thuận
- Họ Hoàng ở Châu Việt (Mường Vạt - Yên Châu).
Dân số: 2009 có 1.550.423 người Thái (thứ 3 ở  Việt Nam) có mặt khắp cả nước. (Sơn La có  572.441 người chiếm 53,2% toàn tỉnh); Nghệ An 295,132 người, Thanh Hóa có 225,336 người; Điện Biên 186,270 người, Lai Châu 119,803 người, Yên Bái 53,104 người, Ḥa B́nh 31,386 người, Đắc Lắk 17,135 người, Đắk Nông 10,311 người.
* Họ của người Thái: Bạc, Bế, Bua, Bum, Cà  (Hà, Kha, Mài, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo,  Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm, Leo, Lèo, Lềm, (Lâm, Lịm) Lư, Ḷ, (Lô, La), Lộc (Lục), Lự, Lường, (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, ph́a, Quàng (Hoàng, Vàng), Quảng, Sầm, Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Ṭng (Tọng), Vang, Vi (V́) Xa (Sa), Xin.
- Ngôn ngữ: Nhóm ngôn ngữ gốc Thái của hệ ngôn ngữ Thái - Kađai.
- Kinh tế: Nông nghiệp (lúa nước, lúa nếp), các thứ hoa màu, chăn nuôi trâu, ḅ, lợn, gà, dê, cá… đan lát, dệt thổ cẩm, số nơi làm đồ gồm.
- Gia đ́nh: Phụ hệ, vợ theo họ chồng, có  tục ở rể.
Hôn nhân một vợ một chồng.
- Tục lệ ma chay: Chết là về Mường trời tiếp tục sống ở thế giới đó.
- Văn hóa: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết khá phong phú, có chữ viết riêng, có nhiều truyện thơ (sống chụ son sao, khum lú - Nàng ủa, tản chụ xiết xướng…).
- Nhà cửa: Người Thái đen có nhà nóc h́nh mai rùa, chỏm đẩu đốc có khau cút (hoa nhà) rất độc đáo.
- Trang phục: Đẹp, nhiều kiểu.
Nam giống với người Tày, Nùng, Kinh.
Nữ: Thái đen mặc áo ngắn (xửa cóm) màu tối (chàm, đen) cổ áo khác Thái trắng là loại cổ  tṛn đứng.
Đầu đội khăn Piêu thêu hoa văn theo môtyp từng mường. Váy ống (kín) giống Thái trắng, màu đen, cạp gấu váy phía trong nẹp đỏ.
Khi lấy chồng tóc búi ngược lên đỉnh đầu “tằng cẩu” (Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy).
 
CÔNG TR̀NH KIẾN TRÚC
 
Người thái sang ở Sơn La đến nay đă trên 10 thế  kỷ nhưng không thấy có dấu vết ǵ về các công tŕnh kiến trúc gạch, đá…? Có lẽ chỉ có một cầu đá bản Cá bắc qua suối Nậm Cá chảy ra Nậm La ở đầu thị xă ra phía Chiềng Xôm? Và một số khu nhà xây của tỉnh trưởng Sơn La Bạc Cầm Qúy, (sau này trụ sở huyện ủy Thuận Châu, rồi bị bom Mỹ phá hủy hồi 1966 - 1973)… c̣n không hề thấy Đ́nh, Chùa, đến Miếu ǵ ở Sơn La đất cũ?
Người Thái ở Sơn La không theo Tôn Giáo nào, chỉ thờ “Phi” (ma tưởng tượng) người chết làm lễ chia của “bỏ mả” là xong, không có giỗ chạp hàng năm, Tang ma có lễ gọi hồn, dẫn hồn về mường trời, xong coi là xong.
Nhà ở người Thái: hầu hết là gianh, tre, gỗ, nứa - đục đẽo đơn giản, đa số là không ngăn buồng (2 loài: cột chôn và cột kê) hoàn toàn là vật liệu tự nhiên sẵn có ở rừng núi bản địa.
.Người Thái ở Sơn La: Có 4 ngành (chi): tới 2009 có 58 vạn người.
-Thái trắng (Tày đón) cư trú ở Mường Chiên (Quỳnh Nhai), Ngọc Chiến (Mường La).
-Thái đen (Tày đăm) ở Thuận Châu, Mường La, Vai Sơn, Yên Châu, Sông Mă. Đặc biệt Thái đen ở Yên Châu lại khác hẳn so với ở vùng  trên cả về tiếng nói, ăn mặc, phong cách, tập tuc.
 Chi (ngành) ở Mộc Châu, họ tự gọi là Thái đỏ (Tay đeng); cũng một chi ấy. Ở Bắc Yên, Phù Yên lại tự xưng là Tay đón (Thái trắng) ở xă Huy Bắc tự gọi là Tay khoong (người khoong) - “khoong” là một địa danh miền Tây Thanh Hóa (nơi họ từng ở ngày xưa). Nhóm Thái ở Pác Ngà (Bắc  Yên) tự gọi là Tay Eng (người Eng) “Eng” cũng là địa danh ở Thanh Hóa.
Tay đeng (Thái đỏ Mộc Châu) gốc gác từ Vân Nam qua Lào: từ Luông Pha Bang qua Mường Xáng; Mường Xăm, qua rừng Mường Xén vào đất giao chỉ (đời Lư) thuộc Nghệ An. Từ Mường xén họ tỏa ra Thanh Hóa qua Hồi Xuân, La Hán vào Mường Mun (Nai Châu) rồi lên Mộc Châu Sơn La.
Cuộc di cư này do chúa đất họ Vi Khăm (Vi Vàng dẫn đầu vùng em trai là Vi Ngân (vi bạc): Vi Ngân ở lại M ai Châu, người anh Vi Khăm ngược lên Mường  Moóc (Mường Xang - Mộc Châu).
Do đi tới nơi đất mới nên: Ở Mai Châu có bản Lác (bản lạ). Ṭng Đậu nguyên âm là Toong Táu (Toong = lá, táu là cây gỗ Táu - cây to, lá to dùng để gói muối, lót xôi khi cúng lễ. Đồng Bảng nguyên âm là “Động Páng” (động:  rừng già, rừng cây cổ thụ, Páng là cây chuối rừng, nay ta qua Đồng Bảng vẫn thấy nhiều cây chuối rừng v́ đất quanh năm ẩm ướt.
Họ “Vi Khăm” sau đổi thành họ Xa (Sa) có 2 truyền thuyết:
- Chúa Vi Khăm vào triều đ́nh (nhà Lê Trịnh) qua cổng thành th́ Quan coi cổng thành Thăng Long vấn danh, hỏi họ tên ǵ ở đàu tới? Do ngôn ngữ bất đồng nên Chúa Vi Khăm trả lời sai ư đi “Tôi là ở xa đến” - Quan nghe ú ớ ghi “Chúa đất họ Xa - nay do chữ nghĩa chính tả lung tung ghi xa = Sa”?
Thuyết 2: Sau khi Chúa đất Vi Khăm qua đời - anh em trong nội tộc tranh giành… người anh thắng thế làm chúa, em phải xuống làm thường dân lấy họ “Vi Văn…” Người anh v́ đă thề độc “cụ chí pái sá xịa mưng, mưng nha Pay năm hó phụ” (Tao sẽ từ mày, cạch từ đây không chung Họ nữa).
Từ đấy từ (Xá = Sa) thành họ chính của ḍng Vi Khăm. Măi về sau gọi chệch cho nhẹ đi Sá thành Sa… nhưng khi khấn cúng bái vẫn phải xưng là “Chúm mú Vi Khăm ” - (ḍng họ Vi Khăm) cho đến ngày nay.
* Quan hệ  xă hội Thái:
Cơ cấu xă hội cổ truyền là Bản mường hay chế độ Ph́a Tạo Tông Tộc gọi là “Đằm”. Mỗi người có 3 quan hệ trọng yếu:
- Ải noọng: Nam giới 4 đời trong gia tộc (bên nội):
- Nhinh Sao: Tất cả thành viên nữ…
- Lúng ta: Tất cả thành viên Nam thuộc họ vợ (bên ngoại).
 
 

Bài 32:

MƯỜNG TRỜI                                           

 
Với người Thái: chia vũ trụ thành 3 tầng theo một trục dọc. Trên cùng là Mường Phạ (Mường Trời), ở giữa là Mường Lùm (mường người thấp) và dưới cùng nữa là ḷng đất là Mường bọoc đai (Mường của những người lùn sống trong ḷng đất). C̣n gọi Mường Pha là Mường Bôn nhằm chỉ thế giới ở trên đỉnh đầu - ngoài ra c̣n gọi là Mường Then (Mường của các Then = thượng đế, thần linh). Người Thái ở Qùy Châu: “theo quan niệm hữu thức của người Thái th́ Mường Phạ là nơi cao nhất của vũ trụ, đó là một khoảng rộng màu xanh, h́nh tṛn úp lên mặt đất. C̣n đất là một tấm rộng vô hạn mà trời chỉ úp được một phần. Tầng trên cùng là tầng riêng của các thế lực siêu nhiên, đó là một thế giới hỗn mang, chưa định h́nh, không rơ ràng, rất ít ảnh hưởng tới cuộc sống của con người.
Xuống thấp hơn là Mường Then của các vị thần linh, c̣n tổ tiên của người Thái th́ ở một cỏi riêng khác: Nhóm Tày Thanh gọi là “đẳm chảo”, c̣n nhóm Tày Dọ (đều ở Nghệ An) th́ gọi là “Đẳm Pang”. “Đẳm Chảo”là nơi trú ngụ của người  chết theo các ḍng họ khác nhau, rồi lại c̣n phân đẳng cấp:Tầng lớp trên là cho các họ Ḷ Căm, Hủn Vi, Mừn Quang. Tầng lớp mới là các họ b́nh dân như Quản Quang, Quản Lự… (có 2 “đăm”:bậc giữa và bậc cuối).
Theo Cầm Trọng th́ người Thái đen Sơn La cũng na ná là “đẳm hướn luông” (quư tộc) và “đẳm hướn nọi”cho thường dân.
Mường Then là h́nh ảnh thu nhỏ của thế giới trần gian: Cùng lao động sản xuất, đó là một xă hội giàu có trù phú, ruộng đồng quanh năm tươi tốt, dưới ao cá lội từng đàn, đèn thắp sáng quanh năm. (như thiên đường), vị thần chủ là “Then Luông” (Then lớn) - thường gọi là P̣ Then: Cai quản cả thế giới.
Dưới P̣  Then là một hệ thống các vị thần giúp việc như Then Ná, Then Ảo, Then Thao Ai, Then Thư ai, quản lư các ḍng họ Quư tộc, thấp hơn là Châu Cuống Cảng (họ ở bậc trung) do các Then Thư Noọng cai quản  trông coi các họ b́nh dân… tuy vậy có những ḍng họ khác nhau nhưng lại chung 1 Then Ná.
Ở Then Ná c̣n có các Mẹ Náng (bà mụ) là vợ các Then, làm nhiệm vụ Me bẩu (đúc nặn người cho đầu thai xuống trần gian), Me Náng nặn rồi chỉ sang Then Bẩu (khuôn), rồi qua Then Chằng để cân đo số mệnh rồi rơi xuống Then Chẳng cân đo xong rồi tiếp xuống Then Bắc để đi đầu thai…
Trên Then Ná  c̣n có Mẹ Xuổn Ném và Pù Noọng Pả  trông coi vườn mệnh và ao cá vía để giữ cho mệnh luôn được b́nh yên, trên Then Ná có một vườn mệnh trong đó có một máng nước chảy vào ao nuôi cá mệnh (Pa Vẳn) mỗi con tượng trưng cho một mệnh người dưới trần. Nếu nước chảy đều th́ hồn khỏe mạnh, con người được b́nh an, nước không chảy th́ cá chết, mệnh người cũng hết.
Chính v́  vậy: Khi con người lên cao tuổi  thường tổ chức lễ “Tum bẩư nho bủn” (lau chài sửa lại vườn mệnh, đặt lại máng nước), để tăng tinh lực và sức sống cho con người.
Ở Mường Then c̣n có nhiều vị thần linh khác: “Then Khúm” trông coi việc  thiện, Then Tàng lo làm ra con người và loài vật, Then Bấu lo đúc người, Then Khạt (Then Chằng) đo số mệnh,… Then Bắc theo dơi sổ số mệnh, Then Kôm quan sát bốn phương trời, Then Cáo quản lư phạm nhân, Then Thùm coi lũ lụt, Then Lốm tạo mưa gió, Then Ú, Then Đá lo xử phạt sát sinh. Tầng cuối cùng của Mường Phạ là nơi ở của các hồn người chết (chết không b́nh thường) th́ phải vào “Mường phi tai sút đuôn” ở gần Mường Lùm - C̣n b́nh thường th́ vào Đẳm Chào.
Trạm dừng chân đầu tiên do Mo dẫn hồn là Pặc Phắng Kén, nơi trời và trần gian gặp nhau là Táng Cộp “Táng cộp nừng hả phiền” - Chỗ gặp nhau (như kiểu chợ âm phủ) đan xen như cái nan xe kéo sợi, ở đây là trạm tiếp đón nên có nhiều xôi thịt do người trần cúng lễ. Do đó những hồn nghèo đói, chết không b́nh thường kéo tới đây kiếm ăn - v́ thế người Thái rất sợ phải qua nơi này; khi đói loại ma này c̣n xuống cả Mường Lùm quấy nhiễu.
MƯỜNG NGƯỜI
Mường Lùm: Qua tụt  khỏi Mường Phạ, xuống dưới là Mường Lùm (cơi người) là mường ở dưới sàn trời “mường tớ cọng lùm phạ”.
Lùm là thấp, thung lũng - C̣n gọi Mường Piếng (bằng phẳng) = mường bằng phẳng ở dưới gầm mường trời là mường có thật trong vũ trụ luận Thái, đây là thế giới của con người khác biệt về bản chất so với Mường Phạ - Mường Phạ là cơi hư, tâm linh, c̣n Mường Lùm là cơi thực của con người và các loài vật, là các bản mường của nhiều tộc người (kể cả Kinh, Lào…) và “dân số” của các loại Mường (Phạ, Lùm) bao gồm cả các thế lực siêu nhiên khác, kể cả ma quỷ. Ma quỷ đi lang thang ở các Mường Phi, người th́ ở các Mường Côn (có phi pú ở núi cao, phi pá ở mường sâu, phi ngược ở vùng nước xoáy cùng cơi Mường Lùm do con người làm chủ thể).
MƯỜNG BOỌC ĐAI
Là “Mường trong ḷng đất” của loại người tí hon “Táy boọc đai” đây là ở Quỳ Châu (Nghệ An), c̣n phía Sơn La - Tây Bắc không có khái niệm này. Đó là thứ “phi đóng kín” hay “phi dóc dách”.
“Cờ boọc đai” là cái ống nhỏ cuốn dùng tơ lấy ra từ kén tằm (cái suốt) - Boọc c̣n có nghĩa là “hoa”, đó là nụ tơ hoa biểu tượng của lũ người tí hon sống dưới ḷng đất, đứng đầu là “vua hoa tơ” (Pủa boọc đai).
“Phi” với người Thái là gồm cả thần thánh, hồn người chết và cả hồn, vía người đang sống - “Phi” là tín ngưỡng thờ vật hinh, một thứ sơ khai của Tôn giáo.
Linh hồn người sống là “phi vẳn”, ở người chết là “phi bướn”, với các thần linh là “phi then”, các tổ sư nghề Mo (phi môn, phi một) rồi phi bản, phi mường, phi pú, phi huổi, phi pá…
Thế giới của Phi có ảnh hưởng rất lớn tới thế giới thực của con người (can thiệp, phù hộ) - do đó phải cúng bái cầu khẩn…
      *
* *
Theo Hoàng Nó (Sơn La) th́:
Quan niệm về trời đó là Mường Phạ, Mường Bôn hay Mường Then. Có 11 Then gốc gọi là “Then ngồi chơng” (Then năng chóng) và 22 Then anh em (Then Pi Noong), mỗi vị Then là một đấng “sáng tạo” tạo mưa, gió, nắng hạn, lụt…
11 Then gốc, đáng kể là Then Luông (cụ Then già Pú Then Thẩu) hay chủ Tum Vang (như Ngọc Hoàng).
Hai là “Then chăng tê ba” - chữ “tê ba” gốc chữ Pali  - Sancrít th́ Têbra nghiă là “cơi trời” - hư vô ngự trên đỉnh Pha Bôn điều khiển đúc ra người… Ba là “Then Ban” tạo ra họa phúc, duyên phận, sang giàu…
* Tục lệ cúng Then: Có 3 lễ chính:
1. Căm xeng: Báo ngày kiêng cấm
2. Xên kẻ: Cúng giải hạn
3. Xên hươn: Cúng nhà tức tổ tiên
Tháng giêng Tạo kiêng kỹ
Tháng hai Tạo căm xeng
* Đêm của ngày kiêng cấm: Mỗi nhà lấy một bó cỏ gianh, bó lạt, một con dao buộc vào đ̣n gánh - tượng trưng để phi tổ tiên đem lên sửa chữa nhà cho Then. Đầu đ̣n gánh treo một túi xôi, gói thịt gà luộc để cho tổ tiên ăn - Đặc biệt bắt 1 con dế mèn đực bỏ vào giỏ để đêm chúng gáy - Dế Mèn sinh nở vào tháng 7, nó tượng trưng 1 con trâu để tổ tiên dắt lên cày bừa ruộng nhà Then. C̣n có việc: Lấy 1 tổ hoang rỗng của ong ḅ vẽ treo lên mái nhà để báo hiệu nhà tôi đă thực hiện đầy đủ cúng căm xeng.
* Xên kẻ: Cúng đầu tháng 2, cụ tổ phải lên chầu Then phục dịch. Làm ở gian giữa nhà có đầu trâu hay đầu gà, phía sau bà Một ngồi, phía trước lót vải trắng đổ gạo nếp thành một đống con, trên đặt 1 quả trứng gà luồn trong 1 ṿng tay bạc, xung quanh mâm có đốt nến (sáp ong).
Đọc hát bài Xên do bà Một g̣i là “Á ní” mất 1 ngày đêm “lời thỉnh cầu Then xá tội cho tổ tiên, cầu xin phúc lộc”.
* Xên hươn c̣n gọi Ló Liêng tổ chức cúng nhà  trong 3 tháng (giêng, hai, ba) vào các ngày 7, 8, 9, âm lịch thành mộtchuỗi lễ hội đan xen căm xeng - xên kẻ và xên hươn.
Xiên hươn là mời tổ tiên về ăn cỗ cuối buổi cúng, ông mo phải cúng cơm rượu để đưa tiễn đưa đi đưa lại để các vị về nơi Mường phi của các hồn.
 
 
 

Bài 32:

XỬA CỎM

ÁO NGẮN PHỤ NỮ THÁI

 
 
Trong trang phục Thái th́ cái áo ngắn (Xửa cỏm, xửa cóm) là độc đáo và đặc sắc nổi bật ít dân tộc tạo h́nh được đẹp như thế.
Áo phụ nữ Thái có nhiều kiểu dáng: Áo dài (xửa hí), áo ngắn dài tay có cúc bướm bạc (mắc pém) gọi là xửa cỏm, áo ngắn hở nách là “xửa khép”…
“Xửa cỏm” cổ truyền vừa là lễ phục vừa là thường phục, chỉ khác là về chất liệu vải (vải thường hay tơ lụa, cát bá, sa tanh) khi đi lễ th́ quàng thêm tấm thổ cẩm rộng chừng ba bốn mươi phân hơi lệch chéo sang một bên, cách điệu một chút nghệ thuật ở phần hạ bán thân, chỗ ngay thắt lưng “xửa eo” xuống.
Màu sắc xửa cỏm tùy thị hiếu từng người có thể giữ nguyên màu vàng óng của tơ tằm hay nhuộm hồng nhạt hoa đào, xanh thanh thiên, màu tím hay màu nơn chuối… đó là những màu sắc được ưa chuộng (vải tự dệt) mua của người Kinh, người Hán…, c̣n Váy th́ màu đen, đen nhánh, váy lụa th́ nhuộm chàm, tím thẫm rồi nhúng bùn ao cho thật đen, thật mượt.
Xửa cỏm may thân áo bó sát người, tay áo rộng, từ nách khâu hẹp dần xuống. Gấu áo khâu lót thêm 2 lần vải, rộng chừng ba phân, khâu đột nịt chặt ôm lấy ṿng eo thắt đúng lưng long, phần trên đủ ôm lấy bộ ngực nở nang khít khao gây ấn tượng. Mép gấu áo chỉ đủ chấm tới mép cạp váy, ngang thắt lưng nên khi cử động (cúi xuống hở tí eo lưng, dướn ḿnh hay ngă về phía sau th́ hơi hở nude (nuy) chỗ rốn khá gợi cảm. Trước ngực từ tới Rốn là 2 hàng cúc bạc “mắc pém” như một đàn bướm bay dọc trên 2 nẹp tà áo.
Về số cúc bướm (mắc pém) có 2 ư kiến:
1. Hàng mắc pém với số lẻ 11 cặp được bố trí khéo léo dày đặc lấp lánh trên ngực phụ nữ Thái - Số lẻ ở đây tượng trưng cho sự vận động, phát triển đi lên (số chẵn tượng trưng cho sự yên tĩnh, không động, không phát triển - những sản phẩm dùng cho phụ nữ đang sống thường  thiết kế với số lẻ, c̣n để cho thế giới hư vô “phi” là số chẵn).
Bậc cầu thang để lên xuống nhà này hàng ngày có số lẻ, chỉ làm chẵn khi đưa ma.
2. Hai là: Màu nền tà áo không trùng với màu  áo và cúc bạc. Số cúc bao giờ cũng “số  chẵn” với ư nghĩa đầy đặn, trọn vẹn dành cho chồng con - khác với những số lẻ trong kiến trúc nhà ở, “lẻ” là sự sinh sôi phát triển.
Hai ư kiến trên đều có lư lẻ… Thực tế ở mỗi vùng, mỗi chi (ngành) Thái có quan niệm khác nhau đôi chút - có lẽ là:
* Với con gái chưa chồng th́ Xửa Cỏm có số  hàng Mắc phém số lẻ.
* Khi có chồng con rồi th́ xửa cỏm có số  hàng cúc bướm số chẵn.
Cũng có thể số hàng chẵn hay lẻ phụ thuộc vào chiều dài của áo (áo người cao hay thấp) miễn sao cho nó cân đối hợp lư là đẹp.
Xửa cỏm của  phụ nữ Thái đen: Cổ  áo cạp hai lần vải, khâu đột, cổ đứng có  phần g̣ bó cứng nhắc th́ xửa cỏm của chị  em Thái trắng lại bẻ tai, chiết giấu mép, ṿng cổ rộng h́nh trái tim mở dài hở đến trước ngực rất mềm mại duyên dáng.
Các cô gái rất ưa kiểu xửa cỏm này, c̣n các “bà xă” khi vẻ đẹp lư tưởng “eo kíu meng nhay” lưng eo con ṭ ṿ không c̣n nữa, th́ các chị rất ư tứ khi mặc xửa cỏm đă khéo léo dùng các móng tay ém đẩy lớp mỡ bụng lên (đă qua nhiều lần sinh đẻ) rồi vừa cài cúc bướm nên vẫn tạo được h́nh dáng thon thả gọn gang.
 

VÁY THÁI:

 
Có nhà thơ đă cảm:
“Váy em sắm lệch, nhiều khi cũng t́nh”
Váy (xỉn) của phụ nữ Thái màu đen, khâu kín mép kiểu váy ống, ṿng ống rộng gấp đôi ṿng eo, cạp váy màu trắng, c̣n độ dài tùy theo cao thấp của người mặc và thường là chùng quá bắp chân. Ở trong gấu váy, chị em cạp thêm một đường viền vải màu đỏ thắm rất cách điệu gợi cảm:
Ai đó hát ngất ngư Phố Bản
Lũ nghé tơ nhảy giỡn rộn bờ khe
Ngọn gió quẩn thổi tung viền váy đỏ
Làm ngả nghiêng lơi lả cánh rừng tre.
Váy mặc bó sát vào mông, tạo 1 đường cong thật  đúng như một nhà Văn Trung Hoa đă khắc họa cái  đẹp “phong nhũ phi đồn” (vú nở, mông to) của người phụ nữ đang th́ của thời hoạt động t́nh dục mạnh mẽ, sinh con đẻ cái để ṇi giống phát triển và trường tồn.
Khi mặc váy nếp phần thừa quấn vào một bên hông rồi gấp bẻ trở lại đằng trước thành một đường chiết ly thẳng từ eo xuống gấu váy. Tuy thế, nếp gấp này không làm mất đi nét uốn lượn ở phần hạ bán thân của người phụ nữ Thái.
Thắt lưng được làm bằng lụa tơ tằm dài gấp 2 lần rưỡi ṿng eo, rộng chừng bốn năm phân, màu hoa lư hoặc màu xanh nơn chuối. Hai đầu chính nối thêm 2 mẩu vải màu đỏ chói gây chú ư.
Từ nhỏ các bà, các mẹ đă dạy con cách thắt khăn nơi thắt lưng (xài yêu) để sao “Eo kíu manh po” (thắt đáy lưng con ṭ ṿ).
Khi thắt lưng th́ thắt ngay dưới cạp váy trên hông, mối đằng trước hơi chếch về phía bên hông một chút. Ngày nay, nhiều cô gái đă “cải tiến” dùng dây thắt lưng hoa nhiều màu gấp nếp - không thắt mà quấn giấu mối, trông khá điệu đàng, mảnh dẻ, kiêu sa. (Theo Phan Kiến Giang)

 

Khách quan mà chiêm ngường: Ngắm phụ nữ  Thái với trang phục xửa cỏm ta ngỡ đó là một nàng vệ nữ rất cổ điển mà vẫn hiện  đại, bó sát tạo eo, nổi bật các đường cong lư tưởng (như thi hoa hậu)… chị em Thái đă rất táo bạo trong sắp xếp đường nét (gây gợi cảm). Cái váy dài tha thướt xúng xính như muốn kéo dài thêm cho phận hạ bán thân, làm sao chân dài thêm; c̣n cái xửa cỏm th́ cứ như hơi quá ngắn lại ôm xít thân thể vùng trên như dồn nén chật chội, căng phồng như muốn bung ra “bong ra” hiến dâng cho người t́nh “của em của anh đây mà” rất gần gũi thân thương đầy chất nhục cảm.
Khi may mặc bộ “xửa cỏm”, chị em rất chú  ư bố trí phối hợp màu sắc (các tông màu) không diêm dúa, lộng lẫy mà vẫn giản dị, ấm cúng.
Váy đen nhánh thêm viền phía trong đỏ ở gấu váy, khi bước đi xao động cùng khăn piêu trên đầu, bộ xà tích bạc ở thắt lưng thật là vừa tạo h́nh, vừa tạo sắc (hai cái màu nóng tương phản): Màu đỏ ẩn hiện làm cho màu đen thăm thẳm, sâu hơn như ẩn sau đó là vùng “âm” của t́nh ái…
Sự tương phản lung linh sống động ấy trong một tồn tại ở một chỉnh thể thấp nhất, sự  hài ḥa cân bằng âm dương như “ải cắp êm”  (bố với mẹ) đời đời bền vững hội nhập với áo sơ mi, quần Jin hiện đại vẫn không lạc mốt.
 
 

KHĂN PIÊU

 
“Piêu” tiếng Thái nghĩa là “khăn”. Đó là một tấm vải thổ cẩm tự dệt rộng chừng hai gang tay và dài một sải tay, mặt vải sợi dệt thô nhuộm chàm kỹ ngả màu xanh đen, c̣n nhấn thêm nước vỏ cây Ban cho đen nhánh bóng.
Khăn tuy dài nhưng khi đội th́ chỉ một đầu khăn vắt trên đỉnh đầu rủ xuống trán và một đầu thả xuống sau lưng dưới gáy, chỉ những phần hở ngoài mới thêu trang trí hai đầu khăn, c̣n đoạn giữa để nguyên vải chàm thô.
Hai mép đầu Piêu được viền một diềm vải đỏ (hay vải ngũ sắc) kéo sang 2 bên mép cạnh bên bằng một đoạn bằng một nửa chiều rộng khăn, các góc khăn trên mép vải viền được tết chỉ màu thành các “cút Piêu” bằng chỉ nhiều màu thành các ṿng tṛn nhỏ mỗi đoạn ṿng một màu. Tùy loại Piêu mà tết thành từng nhóm 3 hay 5 hay 7 cút.
“Cút Piêu”; h́nh tượng cây guột ở đoạn chồi là non xoắn h́nh trôn ốc nó cũng như 2 cái khău cút trên đỉnh đầu hồi nhà.
Ô vải vuông ở hai đầu khăn là gương mặt của Piêu, là nơi trổ tài thêu thùa của chị em… Bố cục vuông gấm, vải đỏ thành những ô vuông đồng tâm hay lệch 45o so với ô bao ngoài gần mép đầu khăn gây cảm giác chuyển động như bánh xe quay. Cũng có khi bao quanh vuông gấm là các ô vuông nhỡ xếp cạnh nhau thành 4 băng dọc theo các cạnh h́nh vuông, mảng vuông bên trong mới bố cục thành các ô vuông đồng tâm. Ở lối bố cục tất cả đều là những h́nh vuông được thêu thành các dải hồi văn các h́nh móc câu hay tam giác đồi đỉnh, h́nh răng cưa, h́nh ô trám, h́nh đàn khỉ, đàn ngựa đuổi nhau chạy ṿng quanh các h́nh vuông, c̣n mặt h́nh vuông trong cùng th́ thường thêu những ngôi sao ở cánh hay nhiều cách biến thể. Những hoa văn ấy đều phản ánh hiện thực, song không sao chép tự nhiên mà đă được cách điệu thật khái quát và h́nh học hóa, số kiểu hoa văn tuy không nhiều, song nhờ kết hợp khéo léo ở từng bàn tay vàng và theo tập quán từng vùng mà vừa mới lạ vừa quen thuộc lại như mở ra vô hạn (theo TS Chu Quang Trứ).
Về  màu sắc chỉ thêu thường là màu tươi cơ bản. Piêu Yên Châu sặc sỡ, ưa dùng các màu gốc đối chọi mạnh: Trên nền khăn xanh chàm đen, nổi bật lên là những màu sáng mạnh như đỏ rực, vàng nghệ, vàng chanh, trắng, xanh lá cây, xanh lơ tạo thành sự phối hợp màu khá mạnh bạo. Piêu Điện Biên ít màu hơn thiên về đằm thắm.
Khăn Piêu do các cô gái Thái làm ra để dùng, để tặng bạn t́nh làm quà kỷ niệm, tặng cha mẹ, cô bác, anh chị bên nhà chồng. Khăn Piêu rất tiện dụng: Dùng đội đầu, quấn cổ và khi cần th́ buộc làm “địu” để địu con nhỏ. Nó đẹp như câu hát:
“Chiếc khăn Piêu
Thêu chỉ hồng
Theo gió cuốn
Bay về đây
Dâng trên tay…”
Nó chính là nơi lắng đọng tâm hồn (t́nh yêu) và phẩm chất cao đẹp của người con gái Thái.
             8/3/2012 – NK
 
 

Bài 34:

QUẮM TỐ MƯƠNG

 
“Truyện kể bản Mường” là một bộ thông sử của tộc người Thái, ngành Thái đen tŕnh bày những sự kiện nửa hư (truyền thuyết) nửa thực qua cuộc “mang gươm đi mở cơi” cách đây khoảng gần ngh́n năm của chúa đất Thái đen ở Mường Ḷ (Nghĩa Lộ).
Qua phần huyền thoại … đến lúc Then (trời) cho tạo Tum Hoàng xuống làm chủ vùng đầu sông Nậm Lài, Ao Xe, Nậm Tè (Sông Đà), Nậm Tào (Sông Thao)…  rồi tạo Tum Hoàng cho hai em là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống ăn đất Mường Ôm, Mường Ai ngoài ṿm trời, rồi tới dựng Mường Ḷ Luông, cùng theo có các tay chân họ Ḷ, Lương, Quàng, Ṭng, Lèo… tôn họ Ḷ làm chủ. Lúc đó đất Mường Ḷ đă có người. Mọi (Mường), người Mang cư trú. Xây dựng theo Mường Ḷ th́ Tạo Xuông ở lại lấy vợ sinh ra Tạo Ḷ, cho Khun Lường làm mo, Tạo Ḷ làm chúa. Về sau Tạo Xuông cũng trở về quê cũ Mường Ôm, Mường Ai.
Tạo Ḷ lấy vợ sinh ra 7 con trai: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp  Li, Ḷ Li, Lạng Ngang, Lạng Quang và Lạng Chượng… các con khôn lớn, Tạo Ḷ chia cho các con đi làm chúa các mường: Tạo Đúc “ăn” Ḷ Luông, Ta Đẩu “ăn” Ḷ cha, Lặp Li “ăn” Ḷ Gia, Ḷ Li “ăn” Mường Min, Lạng Ngạng “ăn” Mương Vân, Lạng Quang “ăn” Xí Xam, Bản Lọm. Ngoài ra Tạo c̣n cho bô lăo già bản Xửa Cang Ho “ăn” Mường Pục, Mường Mẻng… Rồi các cháu nội được chia đi làm chúa miền đất đầu sông Thao nước đỏ.
Riêng con út Lạng Chượng không có Mường để  “ăn” - “con út không có ngựa, con út không có  Mường” (giàu con út khó con út là thế). Lạng Chượng mới bàn với các tay chân giúp việc là các  ông ho hé, ông mo, ông nghe… triệu tập binh tướng, dân chúng mở lối đi t́m Mường. Quân đi đến Khau cả, Khau Pục, Mường Min th́ tiến thoái lưỡng nan, chúa bèn cúng “pang cha đáp” cầu hồn ông nội là Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống phù hộ.
Chọn ngày lành, quân Lạng Chượng đến Mường Lùng - dốc Khau Phạ nh́n thấy cánh đồng rộng (xă Ngọc Chiến bây giờ) bèn dốc quân vượt dốc Xam xíp vào Mường Chiến. Tạo Mường Chiến khiếp sợ xin gả con gái, Lạng Chượng ưng ư nhận đất Mường Chiến là Mường họ ngoại.
Tới Mường Chai, Tạo ở đây sợ phải dâng nhiều trâu.
Binh Chúa vượt rừng rậm, qua cầu mây Vạn Tọ, không thuyền bắc cây qua Nậm Tè (Sông Đà)… đến đây vấp phải sự chống cự của người “Xá Cắm Ca” (Khơ Mú) do Tù trưởng Khun Quàng cầm đầu. Mác Chúa ngắn nên chúa phải chạy, mác Quàng dài nên đuổi Chúa xuống Nậm Tè, bị bắt cạo trọc đầu phơi nắng, binh Chúa chết 800 người gan dạ… Rồi chúa rút binh về Ít Ong (Thủy điện Mường La hôm nay) để tang đồng đội.
Rồi sau một thời gian nghỉ dưỡng rút kinh nghiệm chúa Lạng Chượng thắng Khun Quàng chiếm được  đất Mường La từ Nặm Bú qua Khau Pha, Kéo Tèo, qua Nặm Cá (Chiềng An), Chiềng Căm (Thị xă), Cọ, Kẹ qua núi Khau Hào lên Mường Muổi (Thuận Châu)… gặp quân Xá của Khun AmPoi ở núi Khau Tù, Khau Cả, quân chúa đánh nhiều lần bị thua… rồi chúa lập mưu “Mỵ Châu - Trọng Thủy”xưa, xin làm rể ĂmPoi… chọn ngày lành chúa mở tiệc chuốc rượu say cho Bố vợ, rồi giết chết đoạt đất Mường Muổi.
Quân Chúa tiến lên Mường Quài (Thiên Giáo) chê đất ở đây ẩm ướt tanh hôi, bé nhỏ, qua Mường Húa, Mường Ẳng tới Mường Phăng chế đất bé  trũng như vũng trâu đằm, chim cuốc chạy qua, chim đa đa chạy lại cũng thấy. Quân chúa tiến vào Mường Thanh, đất này thật tốt “nhất Thanh, nh́ Ḷ, tam Than, tứ Tấc” (4 cánh đồng rộng ở Tây Bắc) ở đây Mường rộng lớn, tṛn như cạp nong, cong như sừng trâu, cho quân lính phá rừng khai hoang làm ruộng, chia đất thành hai vùng “Xoong Thanh” cho già Nà Lếch làm mo.
Lạng Chượng làm chúa Mường Thanh lấy vợ bản Pe sinh ra Khum Pe, rồi lấy vợ sinh ra Khun Mứn. Khun Pe mất sớm, ông nội đem cháu về nuôi, sau Khun Mứn sinh Tạo Pàn. Chúa Lạng Chượng già rồi mất… cháu tiếp là Tạo Chiêu lên “ăn” đất Mường Lay, Tạo Cằm về Mường Muổi.
Cứ tiếp là Tạo Chông, Tạo Thâng, Tạo Quá  Lạn, Tạo Chương, Tạo Quạ, Tạo Quạ lấy nàng An Phấư ở Mường Lay làm vợ cả, và Nàng Xơ (người Xá ḍng dơi Khun Quàng, ĂmPoi) làm vợ hai. Nàng Xơ sinh ra chúa Ḷ Lẹt.
Ḷ Lẹt lấy tên hiệu là Ngu Háu (rắn hổ  mang) làm chủ đất Mường Muội nhiều năm vào  đất triều cống Đại Việt từ đấy.
Cứ thế, cứ thế… ghi chép kéo dài cho tới năm Mầng Cậu (Đinh Hợi -Đồng Khánh nhà Nguyễn năm thứ 2) quân Pháp lên đánh chiếm Mường La (Thị xă). Thời đó Tây tiến lên Pa Tần bị Tạo Điêu Văn Tri đánh cho phải lui về - Mường Lay - Mường La, măi sau Quan 6 ở Hà Nội sai Pa Vi lên dụ Tạo Tri hàng phục - Thế là 16 châu Thái bị Tây cai trị từ đấy cho đến 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên…
* Bản Mường Thái dưới thời thực dân Pháp đô hộ (Thành Thái thứ 2: 1890 - 1954):
- Cầm Văn Oai làm chủ Mường Mụa (Mai Sơn)
- Ở Mường La: Tây đóng trụ sở (kiểu tỉnh lỵ ở Tạ Bú gọi là Vạn Bú)
- Cầm Văn Hoan làm Tuần phủ cai quản 9 châu Thái  đen.
Cầm Văn Oai ở Mường Mụa kiêm chức Quản đạo Thái đen.
Điêu Văn Tri quản đạo vùng Thái trắng.
Bạc Cầm Hạc làm tri châu Mường Muổi
Hoàng Văn Cấp làm tri châu Mường Vạt
Xa Văn Cả làm tri châu Mường Xang.
1/2/1917 Chánh xứ Lô Mét mở trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Tây ở Sơn La. Cũng năm đó chủ Mường La là Cầm Văn Quế lên thay cha là Hoan vừa mất, Hoan làm chủ Mường La 33 năm, khi chết, làm ma mổ 32 trâu và trồng 36 cây heo ở mộ.
Năm 1919, Quế làm nhà ngói bắt dân mỗi “xổng”  nộp 100 đồng bạc trắng.
Năm 1922 Tây bắt dân đổi tiền “cống chảy” lấy tiền “hua cỏm” hẹn một năm phải xong, cứ 3 đồng cống chảy được 1 đồng hua cỏm. Dân mường thời đó túng tiền lắm, họ phải bán gạo, trâu với giá rẻ mạt (trâu mộng 12 đồng/1 con và mua hàng với giá cắt cổ như sợi vải, thuốc lào, 1 kg muối giá 5 hào).
Năm 1931 Tây xây nhà tù Sơn La mở đường cái ô tô đi Tạ Khoa (qua đèo Chẹn), năm 1932 Tây lại mở đường đi Thượng Lào qua rẻo Pa Háng, rồi mở tiếp đoạn Mộc Châu về Suối Rút (đường 41) người Thái gọi đó là đường Pha Lỉ, Pha Tổ… dân phải đi phụ đục núi phá đá nhiều người bị chết - con gái phải gả bán sớm (lấy tiền) Bản mường không yên vui.
 
 
 

Bài 35:

LỜI ĂN TIẾNG NÓI

Lời ăn tiếng nói trong giao tiếp hàng ngày bộc lộ nhân cách, lối sống (tính cách) của một dân tộc. Nhiều khi chỉ  một hiện tượng (một hành xử) cũng đă để người ta có cảm t́nh hay khó chịu về dân tộc đó. Ví dụ có người nhận xét:
Tính cách người Hàn Quốc qua hiện tượng lặng lẽ  xếp hàng cả tiếng đồng hồ trước giờ  lên máy bay (c̣n người Nhật th́ qua vụ sóng thần và thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fucưxima hồi  11/3/2011 từ người dân tới ông Thủ tướng đă hành động, ứng xử như thế nào (qua màn h́nh ti vi) đủ cho cả thế giới kính phục người xứ mặt trời mọc.
- Người Tàu (Trung Hoa) có  một nền văn minh rực rỡ cỡ 5000 năm lịch sử, nhưng khi tiếp cận với số đông cụ thể th́ lại thấy như bước vào xă hội thiếu trật tự như “vào đến pḥng đợi ở sân bay, đă thấy rất đông người ngồi la liệt trên ghế hoặc dưới đất, nói chuyện ồn ả hoặc ăn uống nhồm nhoàm. Nét nổi bật của người Trung Quốc là ăn to, nói lớn… khi lên máy bay th́ xô đẩy chen lấn, la hét chửi bới nhau, rồi giành giật chỗ để hành lư. Khi đă vào ghế ngồi yên vị rồi là họ bắt đầu mở miệng để chuyện tṛ, tranh luận to tiếng như một cái chợ”.
Hai tính cách nổi bật là: Chen lấn và sẵn sang xâm phạm vào sự riêng tư của người khác.
Về đi lại h́nh như người ta không bao giờ  chú ư (nhường đường) hoặc có nhường họ  th́ cũng không có lời cảm ơn. Về sinh hoạt th́ hở cái ǵ ra là mất cắp, tính vùng miền cục bộ (như ở ta là dân Nghệ Tĩnh) rất mạnh mẽ.
Việc khạc nhổ th́ người Tàu đứng số  một thế giới đến nỗi khi tổ chức Thế  vận hội Bắc Kinh (2008…), lănh đạo phải có chỉ thị cấm khạc nhổ ngoài đường phố Thủ Đô.
- Người Hà Nội: Xưa nổi tiếng là thanh lịch, hào hoa phong nhă, th́ nay xuống cấp đáng báo động: Ra đường thấy bất cứ cái ǵ lạ (như tai nạn xe máy, căi nhau) là xúm đông xúm đỏ gây tắc nghẽn giao thông. Ăn tục, nói tục th́ chắc Tàu cũng phải chào thua: Xô đẩy chen lấn, nói to, trộm cắp…, đái bậy th́ thôi rồi.
Tính khoe mẽ, trưởng giả, học làm sang (kể cả tham nhũng) đang trỗi dậy, hoành hành đáng sợ, sự coi thường kỷ cương, luật pháp diễn ra khá phức tạp.
C̣n về người Thái, qua nhiều năm “cắm bản”  Nguyễn Khôi tôi thấy có hai điều nổi bật: Chất phác thật thà (không nói dối = ba vẹo), không trộm cắp (kin lắc); nếu ai mắc phải th́ bị cộng đồng dân bản tẩy chay, xua đuổi.
Đặc biệt trong sinh hoạt thường ngày của người Thái là nhẹ nhàng, dịu dàng, rất ít khi to tiếng (vợ chồng ít khi căi nhau), không đánh mắng trẻ con, phụ nữ (phụ nữ được tôn trọng, yêu quư), trong các bữa liên hoan tiệc tùng diễn ra khá lớp lang, trật tự - khi vui là “hát” (khắp) là x̣e (xe) là hút hai sừng trâu rượu cần, là cụng ly vài ba chén rượu cất (lẩu xiêu). Không đồng ư th́ nói “đồng ư thôi” một cách nhẹ nhàng
          Nói năng vào thưa ra gửi (xo phép), gặp nhau có lời chào “khẳn qua, xiểng qua” cho tặng nhau có lời cảm ơn chân thành và c̣n hẹn gặp lại. Dân bản sống với nhau kiểu công xă thị tộc nông thôn “tắt lửa, tối đèn”có nhau, chia ngọt sẻ bùi, t́nh nghĩa thủy chung.
         Lời ăn tiếng nói của người Thái được bộc bạch trong “Quăm son Côn” (ḷi khuyên răn người). Đó là những câu rất đạo lư đời thường nhưng khá minh triết:
- Về mặt “xưng hô” th́: 
   Thẩu hịa me/ Ké hịa lua
  (Già gọi Mẹ/ vừa gọi Thím)
- Ăn xem nồi, ngồi trông hướng, có ư tứ:
         Năng hảu bấng thí
         Ní hảu bấng bón
        (Ngồi phải xem chổ/  đi phải xem nơi)
         Nung sửa bang nha ngoi táng
         Nung xỉn hang nha ngoi tu
       (Mặc áo mỏng (nữ)  đừng đứng trước cửa sổ
       Mặc váy mỏng đừng đứng trước cửa vào ra)
        Au mia bấng me nai
        Sự quai bấng me tổn lang
       (Lấy vợ xem mẹ  vợ/mua trâu xem trâu đầu đàn)
        Thốm nặm sa lai hảu bấng chong
        (nhổ nước miếng phải xem khe dát)
         Khong xáu ca đi ca panh nha chăm xảu
        (thấy người có  của quí giá đừng sán đến gần)
         Cốn tai pợ sốp/cốp tai pợ o
        (người chết v́  cái miệng/ ếch chết do lắm tiếng kêu)
        Phua mia cu mưng nha va
        (t́nh vợ chồng chớ gọi mày tao)
        Quăm đi phăng cảu sok
        Quăm hại hí cảu na
        (chớ lời lành chôn chín tấc 
         Chở lời xấu dài chín xải)
         Xép khẩu é kin nốt háy
  Quây khanh né xỉ nột bản
(Đói bụng tưởng ăn hết cả chơ (xôi)
Buồi cương cứng tưởng địt được (nữ) cả bản.
Nha chằm díp nha khịt ton
(Khi cầm nắm xôi chấm chớ có
Kẹp thêm miếng thức ăn (cá thịt) - tức là đừng ăn tham - xấu.
Nhay pay đón mưa đăm
(Đừng có đi trắng về đen - ăn ở hai ḷng).
Nha du chăm nưa xiêu
(Đừng có xán vào vợ người khác)
Chẩu bái ngắm xiêu ngăm
(Ḿnh không nghĩ ngợi, ư tứ ǵ (vô tư) th́ sẽ có người khác nghĩ (nhớ) đến ḿnh).
Xin trích một số câu đă trích ra tiếng phố thông:
* Người Thái có luật Mường, lệ bản.
Có thấp có cao/ biết cao biết thấp.
* Nhiều người đắp thành bờ.
Một người phá thành thác.
* Không được ba hoa
Không được nói phét
Không được sợ việc
Không được lười biếng
Không được ngủ sớm
Không được dậy trưa…
* Không được nhai chộp choạp
Không được cái không bảo có
Không được kề cà say rượu
Không được đánh vợ
Không được ăn trộm
Không được nói dối
* Ăn cơm trước khi nuốt phải nhai
Giơ dao ba lần mới chém
Nghĩ ba lần mới nói
* Bố mẹ nuôi không bằng thầy dạy
Thầy dậy không bằng tự ḿnh làm nên
* Đông con cháu, thiếu gạo ăn
Sướng con cu, mù con mắt.
Những cái buồn của người Thái:
“Con dại, vợ chết, bố mẹ mất sớm, anh em ở xa”
Vợ chồng xa nhau, bỏ nhau, thiếu cơm, thiếu muối
Đi thuyền không có mái chèo
Lạc rừng trời tối/ cơm không, chẳng có thức  ăn. Đêm nằm không có vợ để ôm. Dằm (gai) chọc móng tay / ve cắn lỗ tai.
Mắt mù, tai điếc
Đào con dúi hang sâu / nói chuyện t́nh với gái nặng tai.
Đắp bờ phải bùn nhăo.
Ăn không có bạn
Ở chẳng có phường
Đau bụng không có thuốc
Đau mắt, đói chữ chẳng có thầy.
Anh em ghét chẳng ai thương.
                 *
            *        *
Lai côn đi/ lai phi pương cáy / lai mạy pên hươn chăn
(Nhiều người th́ tốt / nhiều ma th́ tốn gà - phải cúng / nhiều cây thành nhà đẹp).
Đông luông báư mi mạy
Chí au săng pên pá
(núi rừng to không có cây
Th́ lấy đâu thành rừng)
Lời ăn tiếng nói (tư cách đạo đức Thái) được  đúc kết thành tục ngữ, thành luật Mường lệ bản để giáo dục mọi người sống, lao động trở thành những con người tốt, có kỷ cương, có t́nh nghĩa xây dựng bản mường - đất nước ngày một giàu đẹp.
                                            Góc thành Nam Hà Nội 19/4/2011
NK
 

Bài 36:

TÁY PÚ XẤC

 
Cùng với “quắm tố Mướng” là truyện Táy Pú Xấc “Người Thái đánh giặc”  là một sử thi tầm cỡ về “kể ông cha chinh chiến”…
Táy ở đây dùng đa nghĩa, như “trên  đường đi” gọi là Táy Tang, qua cầu là Táy Khua, đọc chữ là Táy Xư, kể chuyện là Táy Quắm Tố… Táy nghĩa là kể.
Pú là ông nội, người tôn kính  như  “Bác”, Pú ở đây là ông cha, lănh tụ, thủ lĩnh.
Xấc là chiến tranh: Đi trận là Pay xấc, đánh trộm là tặp xấc, dấy binh là diệt xấc, nổi loạn là xấc phản, giặc ngoại xâm là xấc chinh mương, hay xấc cướp mường, hay xấc pua mương. Mặt trận là nả xấc, cuộc chiến là Chộ xấc, đi chiếm đất là xấc to mương - “xấc” đánh nhau cả xâm lược lẫn tự vệ.
Nội dung thư theo lịch sử của Quắm tố  mướng, mở đầu từ Tạo Ḷ tới Cầm Nho (Kăm nho) là 50 đời.
Sử thi viết theo lối hát “khắp” dùng rộng răi trong sinh hoạt văn hóa đời thường và  nghi lễ.
Mở đầu là:
Cạy hin pẻn ke ma bốc
Nộc tót háy tai thẩy
Tai thẩy tai ti non
Tai cuông côn cuông kon mạy xọk
Pú hók lộm khẩu heo Tông Lo
Chang nháư tai thót nguông thót nga pạt
phạk Tao, u, khong…
Ẩy đá dẹp đá tảng lên cạn
Chim gơ kiến chết già
Chết già tại nơi nằm
Chết trong bộng trong cành cây Xọ
Cụ Tổ đổ xuống vào  mộ đồng Ḷ
Voi lớn chết rụng ṿi ngà bên sông Thao,
nậm u, MêKông…
Đoạn tả Ḷ Lạng Chượng đem quân đi đánh chiếm Mường La
Mi khỏi kôn pay cón
Hảư Ải Ón uôn tang
Tốc Xả chi, Xả cha
Tốc Mương Bá, Mương Ai
Tốc Mương Chai, Mương chiến
Tốc Pák chiến ti nặm hăm
Tốc Pák Păm ti nặm hạk
Pọng cánh quen phăn hủa
Phăn hủa hảư kôn xen kôn păn pú bải
 
Có chân sai đi trước
Cho Ải Ón dẫn đường
Đến Xá chi, Xá cha
Đến Mường Bá, Mường Ai
Đến Mường Chai, Mường chiến
Đến ngả suối chiến nơi sóng cuộn
Đến ngả suối Păm nơi nước phèn
Pọng và Quen (quan và dân) đóng thuyền
Đóng thuyền cho quân ức quân ngh́n cụ bơi.

 

Đoạn kết:

 

         Bản Lụa (Thuận Châu) Ho Luông Sinh pay xảng / lau diên ké xia tạu   
Thẩu xia bản xia na
Chắng púk hảư Ho Luông Tiên pay kín
Đin na Lụa na Lài to đaư coi xảng
Hák vá Sen Lộc lau Ké xia tạu
Thẩu xia bản xia na
Chẩu xáư hảư Pọng An dệt Sen
Đin na tạu tin đán
Bản Pán Vạy Mo Yên mưa khẩu 
Bản Té pẩu chiên vạy bấu kha
Kọ pưa pang xên phon chu tang măn hụ
Bản Lăng hảư sự Phúc mưa kin
Đin Na Lăng to đaư coi xảng
Cựt áo quảng hom pay chom tom.
 
Ho Luông sinh vun đắp Bản Lụa
Lại đă già ĺa can
Khuất ĺa bản ĺa ruộng
Mới để Ho luông Tiên mà vào hưởng ăn
Bao đất ruộng Lụa, ruộng Lài hăy quản
Nhưng rồi Sen Lộc đă già ĺa can
Khuất ĺa bản ĺa ruộng
Pọng An được cụ (chúa) cất nhắc làm Sen
Bao đất ruộng bản Ṃn hăy quản
Ruộng trải tận chân lèn
Mo yên vào bản Pán
Bản thủa ông cha truyền lại không buông
Bởi thông thạo mọi đường cúng tế
Bản Lăng dành Sự phúc lên “ăn”
Bao ruộng đất (ở bản) Lăng hăy quản
Lo rộng tính xa dân chúng sum vầy.
(Theo Vương Trung).
 
 
 
 

Bài 37:

THIẾT CHẾ XĂ HỘI THÁI XƯA

* Bản (làng): Là đơn vị hành chính nhỏ nhất, là cơ sở của Mường, là nơi cư trú của các gia đ́nh phụ hệ thuộc nhiều ḍng họ. Bản trung tâm của Mường gọi là Chiềng (phát âm ở Lào là Xiêng, Xiêng như Chiềng Lề (TX Sơn La) Xiềng Khọ, Xiêng Khoảng. Loại Chiềng thứ 2 là có một bản lớn, tồn tại độc lập không trở thành trung tâm kinh tế - xă hội và chính trị của một Mường nào đó (như Chiềng Đông, Chiềng Sàng, Chiềng Khoi ở Yên Châu) có nơi gọi là Viêng (Viêng Chăn - Lào, Viêng Lán ở Yên Châu).

Trong Mường có hai loại Bản:
- Bản của dân tự do (dân páy)
- Bản của dân lệ thuộc (dân Thín).
Đứng đầu Bản là Tạo Bản (Quan bản) thường là người ḍng họ Tạo Mường - (Quư tộc) nắm giữ “Không cha truyền con nối”. Quyền lợi của Tạo bản được cấp 1 số ruộng cấp tùy nơi “khoảng 1000 bó mạ (10.000m2), chức vị thứ 2 là chá bản (chá là nói)” truyền đạt mọi tin tức công việc của bản, ruộng được cấp bằng ½ Tạo Bản, khi thôi chức vụ phải trả lại ruộng.
Họ được dân bản đến giúp công xá, biếu xén thịt và sản vật.
* Xổng (Poọng) gồm 3 - 5 bản (như kiểu Tổng, Xă?), đứng đầu là Tạo Xổng thường là quư tộc, ruộng được cấp 2500 bó mạ (25.000m2), dân Xổng phải làm không công cho Tạo (được ăn cơm), dân cũng phải biếu xén Tạo Xổng.
Giúp việc Tạo Xổng có Quan Xổng, Chá Xổng… mất uy tín hay chết th́ dân bầu lại.
* Mường: Gồm nhiều xổng, bản đứng đầu là Tạo Mường. Chết  dân bản bầu mới. Toàn bộ đất đai trong Mường là do Tạo Mường cai quản, gia đ́nh Tạo chỉ “ăn” một đám ruộng là “lương” cấy 5000 bó mạ (50.000m2), dân phải đến làm không công cho Tạo.
Theo Quắm tố mướng th́ chúa đưa dân đi chiếm đất “có ruộng mới tập trung được dân cư cũng như có nước mới giữ được cá”. Có ruộng đất th́ mới có bản Mường. Từ khi Mường Ḷ (Văn Chấn, Nghĩa Lộ - quê tổ Thái đen Việt Nam) ra đời từ Tạo Ḷ th́ bản Mường cũng dần dần được tổ chức thành hệ thống.
Nhiều bản hợp thành Xổng (Sổng), có nơi gọi là  Ngụ (dưới cấp Lư Trưởng “xă”). Một hay ba Lộng (có nơi gọi là Ken) cộng với 3 - 4 Xổng thành một Mường. Từ 4 - 8 mường trở lên thành một “chu”. Các đơn vị từ Chu (Châu), Mường, Lộng, Bản là đơn vị hành chính mà Chu là đơn vị cao nhất (cỡ cấp huyện) của địa phương. Các đơn vị Xổng, Ngụ là dưới Mường Ph́a (trực thuộc Ph́a).
Mỗi Chu (Châu) khi mới xác lập mang tính chất tự trị, không tập quyền thành một tổ chức thống nhất ở địa phương (phong kiến sơ kỳ, có tính cát cứ sứ quân).
 
BỘ MÁY QUAN CHỨC Ở CÁC CHÂU THÁI SƠN LA - TÂY BẮC
 
Cánh đồng Mường Ḷ (Tông Ḷ) do Tạo Ḷ đứng đầu khai phá dựng bản, lập mường vào thế kỷ 11 (nhà Lư) đă là nhà nước phong kiến tập quyền) nhưng sử sách Thái không thấy ghi (kể cả sử Việt) vê bộ máy cai trị (quan lại) ở các Châu Thái Tây Bắc.
Theo Quắm Tố Mướng th́ khi Mường Ḷ (mường khởi thủy) ra đời th́ có phân chia:
Họ Lướng dệt mo
Họ Ḷ dệt Tạo
Họ Lường (Lương) làm Thầy mo
Họ Ḷ làm Tạo.
Như vậy Tạo Ḷ làm chủ (Chúa) Mường Ḷ.
Luật Mường đă xác định: Tất cả các thứ  (kể cả đất đai) là của Vua, của Tạo - đó là quyền sở hữu Nhà nước.
An Nha (Quan Châu) phân quyền ban cấp tất cả các sản vật thiên nhiên trong rừng, trên đất, dưới nước cho các mường ph́a, Lộng, Tạo, Bản đều thuộc quyền các quan chức ban cấp chiếm giữ.
Ai săn bắn được thú to, cá lớn đều phải trích phần nộp cho An Nha một đùi, cho ph́a một đôi thăn, nếu không coi là phá tục lệ bản mường, tùy tội mà xử phạt. Do đó mỗi người dân phải luôn tự răn ḿnh.
“Phít nọi sia quai
Phít lai bên khỏi
É pảo hữ dók mi
É pi hữ dók tó
É khó hữ dók tạo quan”
“Sai phạm nhỏ mất trâu
Sai phạm lớn thành tôi tớ
Muốn có sẹo th́ đùa với gấu
Muốn béo (sưng mặt), th́ đùa với ong
Muốn nghèo khó th́ đùa với Tạo Quan”
Quy định bổng lộc dành cho các Quan chức ở  các Châu Thái Tây Bắc thời phong kiên - thực dân (trước thời giải phóng 1953) là: “Làm chủ vùng đất cai trị / hưởng nương dành ruộng chia / ruộng cày nương cuốc / cuông nhốc pụa làm tôi tớ. Suối cá/ ong vách đá / mật nhung hổ gấu hươu, nai, voi, tê giác tới rừng tre măng quư - dân ai vi phạm đều bị phạt tiền, dân được tham gia cử Tạo, dựng Quan (lời ca cổ”.
 
* VỀ TÊN GỌI BẢN MƯỜNG
Thường đặt địa danh theo tên sông suối, núi, đất (na, nà) cỏ cây, con ǵ.
Ở Việt Nam có 37 mường Thái chỉ có Mường Ai là có 1 bản.
“Mường” nghĩa hẹp là chỉ 1 đơn vị  hành chính…
“Mường” theo nghĩa rộng là 1 vùng miền, đất nước Quốc gia như Mường Ngô (Trung Quốc, nước Ngô thời Tam Quốc mà Giao Chỉ phụ thuộc), Mường Lá Púa (Mường Việt), Mường trời, Mường Ma, Mường Lùm (lúm) chỉ thiên hạ, cơi đời.
Đă có bản Mường là phải có Tạo (chủ mường):
Khột ma Phái mi mương
Tánh Mường phái mi Tạo
Khai ruộng phải có Mường
Dựng mường phải có Tạo
Chiềng hay Xiềng (Viêng):
Là đơn vị Bản trung tâm của Mường trong (mường cuông). Chữ “chiềng” bao giờ cũng có  một tên riêng khác kèm theo để biến thành danh từ  riêng. Ví dụ: Bản Ban là trung tâm của Châu Mường “Mường Mụa” (Mai Sơn) - lúc này chiềng Dong vừa là tên riêng chỉ bản Ban, vừa là tên gọi Mường trọng (trung tâm của Châu mường), đồng thời là tên của cả châu mường Mường Mụa.
Châu mường Mường Sang (Mộc Châu) là Chiềng Chu; Châu mường Mường Tấc (Phù Yên) là Chiềng Hoa.
Đất Chiềng ở nhiều Châu Mường xưa (Châu Lỵ) thường có hào lũy vây quanh để bảo vệ, hào lũy là (Viềng), từ đó danh từ này nhiều khi trở thành tên của Châu mường - như Viêng Ḷ, Viêng Chăn (Lào).
Châu mường Mường La có Viêng dựng ở bản Giảng (thị xă) nên gọi là Viêng Giảng đồn pḥng thủ gọi là “che”, ở Mường La đặt ở bản Ái nên gọi là che Ái ở cách xa 10km.
Thời VNDCH phần lớn “Chiềng” được áp sang là “xă”.
Bản Mường trung tâm là Mường trong (Mường Cuông), ở ngoài là Mường Ph́a ngoài (Mường Ph́a Nọk) - Bản trung tâm của Mường Ph́a ngoài cũng gọi là Chiêng (Chiềng), ví dụ:
Mường Chanh là mường ngoài của Châu mường Mường Mụa có tên Chiềng Quen, Mường Sại là mường ngoài của Châu mường Mường Muổi (Thuận Châu) có tên là Chiêng Muôn. Sau 1954, ta đổi gán “chiềng” là “xă”.
Bộ máy chính quyền các chức dịch phân chia thành hai đẳng cấp rơ rệt:
1. Ḍng dơi quư tộc Châu mường gồm họ gốc có tên Ḷ Cầm (đó là họ Ḷ to, Ḷ  luông) để phân biệt với Ḷ bé (Ḷ b́nh dân). Họ Ḷ  Cầm phân chia ra các họ: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đeo, Tao), Hoàng.
Ḍng dơi quư  tộc Thái có có họ Vi Khăm, Kha Khăm, (Khăm = Căm = Kim = Cầm) phân thành họ Hà, Xa (Sa).
Người thuộc họ quư tộc được phép tham gia giữ các chức người đứng đầu Bản, Lọng (Quen), các Ph́a và An Nha Châu Mường.
2. Người thuộc ngoài họ quư tộc như Ḷ, Lường, Cà, Ṭng… th́ chỉ được phép giữ chức dịch (cấp thấp) là người đứng đầu bản và các ông Quan hàng “Xổng”.
Đó là luật tục quy định, người nào đó có thế lực muốn phá vỡ quy định này dù là quư tộc hay b́nh dân th́ đều phải đổi họ gọi là “nhập đẳm”(tư đẳm) - ví dụ họ Vi (bé) muốn làm Ph́a, An Nha th́ phải đổi thành họ quư tộc Vi (lớn) phải làm khá phức tạp, tốn kém, ngược lại người họ quư tộc muốn làm chức nhỏ như Pằn (xen), mo mường… th́ cũng phải đổi họ xuống thành họ Lường, Cà…
Mọi chức dịch trong của bộ máy của Mường Ph́a (chế độ Ph́a Tạo) đều do An Nha (Chủ Châu (huyện) và Ph́a Mường tiến cử, bổ nhiệm. Khi bổ  nhiệm xong, họ nghiễm nhiên tổ hợp thành một tổ chức tương đương mang tên “Hội đồng bô lăo toàn mường” (Thẩu ké hang mương) do chức ông Păn (xen) hoặc mo đứng đầu).
Quan hệ giữa cấp châu mường với bốn mường Ph́a ngoài th́ không hẳn, theo thứ cấp trên dưới mà  theo cơ cấu truyền thống ṿng đồng tâm xoay quanh trục. Cơ cấu này quy định: Mường trong với bản trung tâm gọi là Chiềng là Trục, c̣n các Mường ngoài ở ṿng đồng tâm.
Trước thế kỷ 19, các Châu Mường Thái hợp thành khu vực “16 châu Thái” (Xíp hốc Châu Tay) - trong dó có 1 châu mường trung tâm, các châu mường khác tập hợp dưới h́nh thức thuần phục hay qui phục “Mường Luông” (Mường lớn).
Triều  đ́nh Trung Ương từ Lư, Trần, Lê, Nguyễn gọi  đơn vị Mường Luông là “đại tri châu”,  đến năm 1834 vua Minh Mạng đổi (xóa bỏ) chế độ  đại Tri Châu và đặt ra các Châu (huyện vùng dân tộc), đặt các Châu Mường Thái thuộc tỉnh Hương Hóa (trung tâm ở Hương Hóa, bên bờ sông Thao, Phú Thọ hiện nay). Đến năm 1884, đất nước ta mất 6 Châu mường Thái nhập vào bản đồ Trung Quốc theo Hiệp định Thiên Tân kư giữa thực dân Pháp và triều đ́nh Măn Thanh.
Tổ chức xă hội theo các đơn vị Mường xưa là một bước đệm chuyển từ tổ chức thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (xă hội Thái gọi là Đẳm) sang tổ chức Quốc gia dân tộc. Thuộc ngữ “Mường” không c̣n là như một quốc gia dân tộc nữa, người Thái ở Lào, Thái Lan đă mượn danh từ gốc Pali - SanoKis là Pa Thết để chỉ đất nước (Mường Pa thết Lào)
Đấy cũng là lư do, trong dân gian vẫn quen gọi nước Thái Lan là Mường Thay, Lào là Mường Lào. Người Thái ở Việt Nam như chậm hơn mới đi từ Đẳm đến tŕnh đô bản mường (dưới cấp quốc gia) rồi phát triển gia nhập quốc gia dân tộc Việt Nam (Pa thết Việt Nam). (Thái Việt Nam chưa lập “Nhà nước riêng” mới ở dạng tự trị Bản Mường).
QUAN HỆ D̉NG HỌ GIA Đ̀NH VÀ HÔN NHÂN
Người Thái có ba quan hệ về họ hàng:
1. Ải noọng: Gồm anh em, chị em chưa xây dựng gia đ́nh sinh ra từ một (cùng mẹ cùng cha hay khác)-  nội tộc 4 đời.
2. Nhinh Sao: Là họ nhà trai hay thuộc khổi  Ải noong và rể.
3. Lung Ta: Họ nhà gái (bên ngoại).
 
 

Bài 38:

KHU TỰ TRỊ THÁI MÈO

 
Toàn cảnh thị xă Sơn La
 
Ngày 29 - 4 - 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh (VNDCCH) kư sắc lệnh thành lập khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là khu tự trị Tây Bắc).
Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa V phê chuẩn xóa bỏ cấp khu và hợp nhất 1 số tỉnh. Hội  đồng nhân dân khu tự trị Tây Bắc họp ngày 19 - 20/1/1976 tại thị xă Sơn La (thủ phủ  khu tự trị) công bố quyết định của Quốc hội (thời Tổng bí thư Lê Duẩn) kết thúc 20 năm tồn tại của khu tự trị.
Thành tựu: Theo báo cáo 20 năm hoạt động của khu tự trị Tây Bắc, ngày 19-1-1976 của UBHC khu th́:
1, Về chiến đấu đánh bại chiến tranh phá  hoại của đế quốc Mỹ xâm lược. Toàn khu có 82 xă trực tiếp chiến đấu, 16 xă bắn rơi máy bay mỹ và 21 xă bắt sống giặc lái, sản xuất được giữ vững, huy động 562000 lượt người với 95 ngh́n mét khối vật liệu đá đảm bảo giao thông phục vụ chiến đấu.
2, Kinh tế: Từ 1954 thực hiện “cải cách dân chủ” (ở xuôi là cải cách ruộng đất) đă xóa bỏ chế độ bóc lột cuông nhốc (chế độ Ph́a Tạo), xóa bỏ ruộng chức, chia ruộng cho nông dân lao động, đă đưa 79% hộ nông dân vào hợp tác xă nông nghiệp - 50% số HTX lập được kế hoạch sản xuất hàng năm, thực hiện 3 khoán - những HTX tiên tiến như Nậm Mùn, Bản Phủ (Lai Châu), Púng Luông, Cao Đa (Nghĩa Lộ), suối Ĺn, Kim Chung (Sơn La)…
So với năm 1955 th́ sau 20 năm, giá trị sản lượng nông nghiệp tăng 228%, b́nh quân hàng năm tăng 16%, diện tích trồng lúa tăng gấp 7 lần, diện tích hoa màu tăng 2 lần. Đă có 195 HTX đạt trên 5 tấn thóc/1 ha. Đă h́nh thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn như ḅ, chè Mộc Châu, Cam Đường, vùng chè Văn Chấn, vùng lúa lợn Điện Biên, vùng ngô Nà Sản…
Hàng năm khai thác 28000 m3 gỗ, 2,5 triệu cây tre nứa, 7000m3 củi, có 13 lâm trường, 50 HTX nghề rừng.
Cây chè cả khu có 5000ha thu 7000 - 8000 tấn/ năm.
- Về chăn nuôi: Ngay sau ngày giải phóng 1953 - 1954 toàn khu mới có 63.000 con trâu, 28.000 con ḅ, 5000 ngựa, 137.000 lợn, sau 20 năm phát triển có 140.000 trâu, 43.000 ḅ, 52.000 ngựa, 313.000 lợn.
Hằng năm cung cấp cho miền xuôi: 2000 con trâu, ḅ  cày kéo, trên 2000 tấn trâu ḅ thịt.
Về công nghiệp - thủ công nghiệp: Năm 1955 mới xây dựng được xí nghiệp đầu tiên “cơ khí Thuận Châu” với giá trị sản lượng khoảng 7000đ/năm, (giá 1kg gạo là 3 hào). Sản xuất công cụ: Từ 1962 phát triển công nghiệp địa phương (điện, cơ khí, vật liệu xây dựng, may mặc, chế biến nông sản…) sản xuất tới trên 40 loại sản phẩm, trị giá 1974 là 25 triệu đồng.
1955 cả khu mới có 1 nhà máy thủy điện 24 KW, chưa có điểm cơ khí nhỏ nào th́ sau 20 năm đă có hàng ngh́n KW nhiệt điện, 30 trạm thủy điện nhỏ từ 5 50 KW, có 250 điểm cơ khí nhỏ.
Giao thông: Đă mở mấy đường ô tô  liên tỉnh, xuống tới huyện gần 3000km. Sơn La mở  đường lên vùng cao CoMạ, Nghĩa lộ lên Trạm Tấu, Lai Châu lên Mường Tè, xây hàng trăm cầu cống lớn. Đảm bảo cho 1 đầu dân cung cấp hàng năm 6 kg muối; 4 mét vải, 3 kg dầu hỏa.
Giáo dục: Trước 1954: 99% dân mù chữ, chỉ có  25 trường tiểu học với khoảng 750 học sinh. Đến 1974 - 1975 th́ đă có 1974 lớp mẫu giáo với 3720 cháu, 2181 lớp vỡ ḷng với 49.982 học sinh, 449 trường phổ thông cấp 1 (tiểu học) với 24.989 học sinh, 107 trường cấp 2 (Trung học cơ sở) với 14.461 học sinh và 13 trường PT cấp 3 với 2193 học sinh, có trường dân tộc nội trú (riêng cho con em dân tộc Mèo) có 350 - 400 em theo học từ vỡ ḷng đến cấp 2.
Y tế: 90% xă có trạm y tế, có 40 bệnh viện và bệnh xá với 2000 giường .
Văn hóa văn nghệ được phát triển.
Chính trị: Có 17 đại biểu Quốc hội khóa V (trong đó 13 là dân tộc thiểu số), bộ máy UBHC các cấp: Số cán bộ người daan tộc chiếm 76 - 80% (số cán bộ dân tộc 20 năm tăng từ 865 lên 9575 người, số có tŕnh độ trung học, đại học là 934 người trong số 8722 người), số cán bộ lănh đạo các cấp từ 375 người (1955) lên 4324 người (1974).
Trích báo cáo do ông Ḷ Văn Hặc
Chủ tịch UBHC khu tự trọ Tây Bắc tŕnh bày./.
 
 
 

Bài 39:

LUẬT TỤC THÁI

 

(Hồ  Thuận Châu)

Luật tục Thái là một luật lệ bản Mường thời phong kiến sơ kỳ với uy quyền rất lớn của chúa đất mà cao nhất là An Nha (1 châu)
Luật tục Thái phân biệt rạch ṛi với 47 loại người và 17 loại tội phạm trong xă hội.
Luật tục quan tâm cả các đấng thần linh, môi trường thiên nhiên, nó có ảnh hưởng rất lớn  đến thái độ của con người đối với thiên nhiên, trời đất, núi sông, rừng rú.
Đây là cơ sở để thi hành công lư, ngăn ngừa tội ác, là đạo lư làm người. Mỗi Mường (Châu) có luật tục riêng.
- Phần đạo làm người: là những quy ước ứng xử cá nhân
- Phần tục lệ cưới xin
- Tang ma………….ví dụ
LUẬT LỆ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở THUẬN CHÂU
Mở đầu: nói chút về lịch sử người Thái theo Quắm Tố Mướng.
1. Ranh giới đất Mường Muổi:
Tục ngữ có câu “Mườnng Muổi rộng phía sông Mă, Mường La rộng phía Sông Đà”. Mường chia ra các Xổng (ngũ), lộng, quen. Châu Mường Muổi có 5 mường Ph́a:
- Mường Muổi (Chiềng Pha) là mường trong mường, vua kinh gọi là Xuân Mai. Các mường ph́a phía ngoài có:
* Mường Lầm phía sông Mă, vua kinh gọi là Nam Trịnh
* Mường Sại phía Sông Đà, vua kinh gọi là xă  Khinh Khoái.
* Mường Piêng (xă Thanh B́nh)
* Chiềng Pấc (Trịnh Bắc)
Mỗi một Mường Ph́a chia nhiều bản, nhiều Giáp. Giáp nào ở xa Mường th́ gọi là “lộng”, lộng bé th́ gọi là Quen. Mỗi một Mường Ph́a chia thành nhiều xổng (vua kinh gọi là Ngũ) người Thái quen gọi là Xổng Ngụ. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng ngụ, ngơ Mường phía ngoài có 3 xổng ngụ.
2, Phong cấp bậc hàng châu được xếp đặt theo lệ như sau:
- An Nha là gốc của Bản Mường (Tri Châu) giúp việc có Ph́a Thổ (thư lại) ph́a thông (thông lại). Mường ph́a có Ph́a Lư (vua kinh gọi là Lư trưởng); ph́a phó (phó lư) 2 ph́a này coi trông bản Mường ḿnh. Có 8 chức ông ở Xổng (vua kinh gọi là kỳ mục) từ ông xen (pằn) đến tận ông chá hườn.
Có ông mo, ông nghè, ông chang, giúp quản lư  luật lệ, cúng tế.
3, Quyề n lợi bổng lộc các quan chức.
An Nha ăn 10 mẫu ruộng trong phạm vi bản chiềng đi (chiềng ly), thu “thóc lười” (tô thuế) của dân hàng Châu: mỗi mẫu phải nộp một tạ thóc.
Án Nha có 9 bản nhốc (làm dịch vụ)
Thư lại ăn 6 mẫu ruộng Chiềng Đi hưởng 3 bản nhốc.
Thông lại ăn 5 mẫu ruộng Chiềng Đi, 3 bản nhốc.
Ph́a lư (lư trưởng) ăn 5 mẫu ruộng, phó lư ăn 3 mẫu ruộng.
Ông xen đứng đầu Xổng Pằn ăn 8 mẫu
Ông Pọng đứng đầu Xổng Pọng ăn 6 mẫu
Ông Ho Luông đứng đầu Xổng Ho Luông ăn 4 mẫu ruộng
Ông Pọng Cang đứng đầu Xổng Phọng Cang ăn 3 mẫu ruộng
Ông quan xư (ho cang) ăn 2 mẫu (giúp việc ông Xổng Phọng Caug)
Ông Ho Hé ở bản Lăng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pằn.
Ông Pụa ở bản Púng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Pọng.
Ông Chá hươn ở bản Lẹng ăn 2 mẫu giúp việc ông Xổng Ho Luông.
Khi Ph́a xức nộp thuế th́ ông Xổng phải xức đến quan bản, quan bản bổ xuống đầu dân Mường phải nộp đầy đủ.
Khi Ph́a xức phu phen xuống đến xổng nào, th́ ông Xổng xức Quan bản cắt phiên đi phu từng nhà…ông Xổng dẫn phu nộp cho Ph́a
Lúc nào An Nha, ph́a cần ǵ th́ gọi ông Xổng tới hầu
Mỗi xổng có:
Quan pách: về tư pháp (ăn 1,5 mẫu) các pách xông chia làm quan các bản
Dưới quan pách mỗi xổng có 2 giúp việc là Quan Pḥng
Dưới quan pḥng mỗi xổng c̣n có 2 Quan chiềng quản lư việc xây dựng nhà cửa, đốc thuế, mường phai, cúng mường, Quan chiêng ở xổng nào th́ do người ở đó làm …vv…
Mỗi bản có quan bản (tạo bản) giúp việc có chá bản, 1 bản có 7-8 mẫu th́ quan bản được 3,5-4 sào.
Ở Mường Muối ngoài 4 xổng ở trong Mường c̣n có 5 lộng (Mướng É, Mường Bán, bản Pịn, Muội Nọi, Chiềng Đa) mỗi Lộng có 1 Tạo Lộng.
Mỗi Lộng có bản Quen (Ken), do 1 Tạo Quan đứng đầu
4, Lệ xin làm chức dịch:
Ai có tên Quảng, tên xự (được Bản mường) đặt cho th́ mới được phép xin làm Quan bản, đi từ thấp lên cao, có “tiền xin chức”  nộp cho An Nha (tri châu).
5, Về kiện cáo, phạt vạ:
Án Nha có quyền phạt vạ thu từ 1,2 nến đến 12 nén bạc
Thư lại được phạt vạ từ 1,2 - 6 nén bạc
Quan chiềng, quan chá, quan bản được phép An nha (phạt vạ thu 5 đồng cân đến 4,4 lạng bạc).
6, Quy định về  phu phen tay dịch
7, Về bắn súng nhầm, làm cháy nhà, do đi săn bắn nhầm chết người, phải góp tang ma:
- Dựng 1 cây “heo” có 20 vải cờ
- Mổ 1 con trâu tang lễ
- Tiền xuống nước, xuống lửa 3 lạng bạc
- Tiền đắp cản nước mắt 1,3 nén bạc
Làm cháy nhà ḿnh để lây sang nhà khác bị phạt: 3 lạng, 2 trâu
8, Săn được thú  to phải biếu xén:
- Đùi to sau biếu An Nha, các ph́a
- Thịt thăn to biếu ông Xen
- Đường thịt thăn trong biếu ông Pọng
- Thăn treo biếu ông Ho Luông ..vv…
9, v.v làm cuông nhốc: quy định như sau:
Những bản phải làm cuông nhốc trong mường làm theo Luật  định, bản ở xa ở xổng nào th́ làm cho xổng đó.
Các chức dịch phải dẫn dân cuông nhốc bản mỉnh được đi vỡ hoang, làm thủy lợi, lập bản.
Người Xá Khao (Kháng) ở bản nào đều phải là cuông nhốc ở đó. Người Mèo không phải làm cuông nhốc nhưng phải nộp thuế, nộp lợn gà cúng tế ở mường.
10, V.v làm cho người (nữ) bị chửa hoang và chửa trước khi thành vợ:
- Án Nha, thư lại thông lại bị tội này cũng bị phạt 12 nén bạc, làm trước (ăn cơm trước kẻng) bị phạt 6 nén.
- Con chức dịch (Tạo và nàng) đi chơi bị làm chửa, phạt 6 nén bạc
Đàn bà góa nhà Án Nha ph́a tạo tội chửa hoang phạt 12 nén bạc.
- Ai đó ngoại t́nh: phạt 12 nén bạc 
- Làm chửa không chịu lấy (kể cả gái) bị  phạt cho cả 2 phía.
- Quan chức bị phạt được An Nha giảm ½  số bạc.
11. Xử phạt trộm cắp:
- Ăn cắp hoa màu phạt 1,2 nén bạc, nếu là con nhà  chức dịch th́ bị tăng gấp 2
- Ăn cắp thóc lúa: đền gấp 2, phạt 1,2 nén bạc.
- Ăn cắp trâu bắt làm tôi đ̣i (nô lệ) cho Ph́a Tạo, nếu không phải phạt gấp 3 lần (3 trâu)
12. Ngoại t́nh:
- Vợ ngoại t́nh: nếu chồng bắt được có  quyền giết chết, đánh đập kể cả t́nh nhân, không coi bị án mạng, kiện th́ được 12 nén bạc
- Đàn ông ngoại t́nh: bị chồng người ta đánh giết cũng không bị tội, kiện bị phạt 12 nén bạc.
13. Bổng lộc cho các quan trong pḥng cúng lễ:
- Ông Mo ở bản Pán hưởng 3 mẫu ruộng, lấy người 2 bản làm nhốc
- Ông Nghè ở bản Pán hưởng 1 mẫu ruộng và 1 bản làm nhốc…
14. Đất nước, rừng và cúng lễ:
Mường bản chỗ nào mà chẳng có ma (phi) phù hộ: cấm không được vi phạm những nơi sông, núi, ao thiêng…
15. Cúng Mường: tục lệ quy định là:
1/- Xên cha (lễ cúng Mường) là lớn nhất thuộc lệ hàng Châu Mường, tổ chức vào ngày “cúng nhà” cho An Nha…
2/ Xên Mường: lễ có 1 trâu, 1 ḅ, 5 lợn, 1 chó, 1 vịt, 32 gà + rau quả…lễ ở gian “tạy”  của nhà An Nha.
3/, Xên kẻ khó Mường (cúng giải hạn cho Mường): 1 trâu, 3 lợn, 10 gà, 1 chó cúng ở nơi “cửa hồn chiềng” phía “cửa xen” phía trên Mường mé cuối ḍng suối.
4/, Cúng hồn chiềng: Cỡ như trên làm ở  “cửa hồn chiềng” phía “cửa pọng”.
5/, Cúng tiễn tối tớ ma nhà:…. Dựng lều ở sân nhà An Nha.
6/, Lễ cúng điều lành.
7/, Tế đen trắng: 2 trâu 1đen/1 trắng cúng hồn Mường và họ ngoại Tạo ĂmPoi.
8/, Tế ở cửa suối Muội: Cửa sông Nặm Muội là nơi có khu rừng già nguyên sinh ở Mường Sại. Đó là nơi cụ chủ “Ngu Háu Cầm Ḷ Lẹt” đă dựng nhà cúng tế tổ họ Tạo - tổ tông người Thái đen: 1 trâu đen.
16. Lễ cúng cho mỗi người, mỗi nhà.
 

Bài 40:

QUAN CHỨC VÀ TRÍ THỨC

Người Thái ở Sơn La, trước 1962 (tái lập tỉnh) coi như chiếm số đông nhất. Thời phong kiến tầng lớp quư tộc, thầy mo đều được học hành, có  chữ nghĩa…nên Ph́a Tạo và con em họ thường vừa là chức sắc (hay sẽ làm chức sắc) vừa là trí thức ở địa phương.
Thời Lê Trịnh, triều đ́nh đặt chức “phụ  đạo” để cái quản các Châu Mường.
- Châu Phù Hoa (Phù Yên): Phụ đạo là Cầm Nhân Đôi, sau con là Cầm Nhân Cai kế tập.
- Châu Mộc; phụ đạo là Xa Văn Phấn (tổ  tiên là Xa Khả Tham, làm quan Đại tư mă hồi đầu nhà Lê).
- Châu Mai: Phụ đạo là Hà Công Ứng, sau con là Hà Công B́nh kế tập.
- Châu Mai Sơn: Phụ đạo Cầm Nhâm Tuần
- Châu Sơn La: Phụ đạo Cầm Nhân Mang.
- Châu Thuân: Phụ đạo là Bạc Cầm Chính.
- Châu Quỳnh Mai: Phụ đạo là Điêu Chính Thiêm.
- Thời xă hội chủ nghĩa (sau 1955…) về  tri thức ở Sơn La nổi bật có 
1/ - Gia đ́nh nhà thơ Cầm Biêu vốn là thầy giáo, sau làm trưởng ty văn hóa, em trai là Phó giáo sư - Tiến sỹ Cầm Cường, giảng viên Đại học tổng hợp Hà Nội, ông có nhiều công tŕnh giá trị về Dân tộc học. Em trai là: Đạo diễn nổi tiếng Cầm Kỷ với các film “Chom và Sa”, “Trở về Xam Sao”.
Con trai là Tiến sĩ ngành ngân hàng Cầm Kiên, phó giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
2/ - Nhà dân tộc học Cầm Trọng: với tác phẩm nổi tiếng “Người Thái ở Tây bắc Việt Nam” và nhiều tác phẩm khác.
3/ - Hoàng Nó (Cầm Văn Lượng) - nhà giáo nhà thơ - làm tới chức Bí thư tỉnh ủy Sơn La, ủy viên trung ương Đảng CSVN.
4/ -  Cầm Ngoan: Phó chủ tịch khu, chủ tịch UBHC Nghĩa Lộ, Sơn La, phó chủ tịch Quốc Hội.
5/ - Cầm Liên (Cầm Văn Yêu) - Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La
6/ - Nhà văn Sa Phong Ba (Sa Viết Sọi) sinh 1948, Thái  ở Cao Đa (Bắc Yên) Hội Viên Hội nhà văn Việt Nam, có nhiều truyện ngắn đặc sắc.
7/ - Điêu Chính Ngâu, Thái trắng Quỳnh Nhai, dịch đầu tiên ra tiếng phổ thông “Sống chụ son sao” (Tiễn dặn người yêu).
8/ - Nhà thơ Cầm Hùng (1945) quê Chiềng Xôm (Thị xă Sơn La) thượng tá, chủ tịch Hội văn học nghệ thuật tỉnh Sơn La.
9/ - Nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Hoàng Trần Nghịch (1934) quê Sông Mă, đại học, có nhiều tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu dịch thuật.
10/ - Nhà thơ Ḷ Vũ Vân (1943) Thái, Noong Đa (Bắc Yên).
11/ - Họa sĩ Ḷ An Quang (Bản Cọ, TX)
12/ - Nhạc sĩ Cầm Bích
13/ - Nhạc sĩ Cầm Minh Thuận (1944) Phù Yên, có “giao hưởng bài ca Tây Bắc” “Liên khúc tiễn dặn người yêu”.
14/ - Nhà thơ Vương Trung (Lường Vương Trung) Mường É, Thuận Châu - 1938 - Hội viên hội nhà văn VN.
Tác phẩm: Ing Éng (thơ), Mối t́nh Mường Sinh (tiểu thuyết), dịch Táy Pú Xấc, Chương Han.
15/ - Nhà thơ Ḷ Văn Cậy (1928-1994) quê  Sốp Cộp (Sông Mă) Hội viên hội nhà văn Việt Nam. Có tuyển tập thơ Ḷ Văn Cậy.
16/ - Nhà thơ Ḷ Văn E (1933-1995) quê Sốp Cộp.
17/ - Phó giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Lương (1944) Thái Phù Yên, chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, khoa sử Đại học Quốc gia có nhiều công tŕnh về dân tộc học.
18/ - Nghệ sĩ ưu tú Vi Hoa (nữ, hát)
19/ - Phát thanh viên VTV1 Cà Kỳ Vọng (Người bản Phiêng Ngùa).
Đặc điểm: Các quan chức ở Sơn La xưa và nay đứng đầu bản Mường, xă, huyện, tỉnh thường là trí thức người bản địa (Thái, Mèo), có uy tín với nhân dân, có năng lực quản lư (cai trị) có tín nhiệm với trung ương.
Từ sau khi tái lập tỉnh các vị như Hoàng Nó (Bí thư tỉnh ủy), Cầm Liên (chủ tịch UBND tỉnh), Cầm Ngoan (Chủ tịch UBND tỉnh Kiêm phó chủ tịch Quốc hội), Thào Xuân Sùng (HMông, Bí thư tỉnh ủy), Ṭng Thị Phóng (Bí thư tỉnh ủy rồi là ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Quốc hội), Lù Văn Que (phó chủ tịch UBND tỉnh, thứ trưởng UB dân tộc của chính phủ); các tướng như Ḷ Văn Nhài, Cầm Xuân Ế…, các anh hùng liệt sỹ như Ḷ Văn Giá, Chu Văn Thịnh là những tấm gương tiêu biểu, niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Sơn La qua 2 cuộc kháng chiến và xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp.
 
 
 
 

Bài 41

TANG LỄ THÁI

 
Nghi thức chung: nhà nào có người mất, báo Trưởng tộc đến chủ tŕ, chọn 1 nhóm dâu rể đến túc trực - rồi phát tang.
Chết, rất kiêng kỹ ngày “măo” đó là  ngày con Ong, ngày vất vả - nếu chết vào ngày này là phải đắp chiếu coi như c̣n sống (Kiểu ở xuôi để cưới chạy tang) chờ hôm sau mới coi là “chết”. Ngoài ra c̣n kỵ ngày Hợi, phải đợi giờ Dần làm giờ chết để trị các loại ma (phí).
Sau khi tắt thở: con cháu vuốt mắt, tắm nước lá thơm, thay quần áo mới nhất rồi khâu vài đồng bạc trắng vào cổ áo (khót ngân khót có sửa) và vào 2 mông quần, khâu phía đầu mảnh vải căng trên cây nêu (co cao) ngoài mộ.
Cây nêu làm bằng cây tre cao 5-7 mét dựng hướng về Nậm toóc tát (thác đầu nguồn) có cành ngang để treo áo người quá cố (đàn ông áo đỏ, đàn bà áo dài) trên dọc cây nêu có dải vải màu trắng và đen ở giữa có mảng thổ cẩm, đối với người già, dải vải dài 7 xải, tuổi trung niên 3 sải rộng 1 gang tay, đó là cờ ma (mạng lỉu heo). Trên cây cao buộc con ngựa gỗ “ngày về trời theo cánh ngựa bay”, hướng về đầu thác nước để hồn có ngựa cưỡi bay về trời. Bên cạnh cây nêu buộc 1 máng nứa có thóc có cỏ cho ngựa (gỗ) ăn. Riêng hồn người th́ không phải đem theo thức ăn v́ đă có ông thầy Mo cúng bái “làm tang” (dẫn nhập hồn vào Mường ma) “Pết cáy  Xam háp bung, Xam háp khẩu  nặm pay toi” (gà vịt 3 gánh, cơm nước 3 gánh đem theo nồi).
Cây nêu bên mộ sau 1 tháng tự đổ là điềm tốt nghĩa là hồn đă về trời (người kinh là sau 49 ngày cúng cơm) chưa đổ là gở với gia chủ, nên do đó khi chon cây nêu phải chọn người biết làm, gần gũi với tang chủ.
Khi khâm niệm (cộn pang) phải có 2 mảnh thổ  cẩm lót dọc 2 sườn xác - quần áo buộc dọc xác và có dây buộc hộ tro hỏa táng (sai chaư). Mỗi con đẻ có 1 bộ quần áo để vào cái “sa” đặt bên quan tài, con dâu th́ mỗi người 1 dải vải trắng vắt buông phía trên quan tài, con trai được đứng trước ngực người quá cố, con gái ngồi ngang thân quan tài, con dâu đội khăn chóp trắng, áo đen dài, khẩu vải thổ cẩm đỏ vào tà áo ngồi phục bên cửa vào của nhà sàn.
Không được đến gần nơi quan thi hài. Khách viếng, con dâu ngồi phục cảm ơn tiễn khách, cơm trưa và  chiều cúng thủ lợn, 4 chân, tim gan, rể phải đưa cỗ vào cúng bố mẹ vợ, không có th́ cháu rể thay, cỗ có 3 mâm, mâm gạo và hoa quả, mâm vịt luộc, mâm lợn luộc: mỗi mâm có 4 chén nước, 6 chén rượu và 50 xải vải trắng gấp gọn đặt trên 1 thang tre, con rể cả khấn “ông, bà đi, chúng tôi con cháu đă lo được mâm cỗ, xin nhà ngoại nhận cho”.
Sau đó trải tấm vải trắng lên quan tài, trên đó có những miếng vải nhỏ như đuôi cá viết chữ Thái kể công đức người quá cố, cầu mong ông (bà) phù hộ. Xong xuôi bên rể nâng vải lên đầu làm cẩu cho hồn đi qua tới khi ông mo đọc hết bài cúng.
Sau khi viếng, cúng…đem thi hài đi hỏa tang. Xác  được bó vải đặt trên 1 cái kiệu tre khiêng ra g̣ đất cao cạnh Paheo (nghĩa địa - rừng ma) chất củi xung quanh đổ thêm dầu hỏa rồi châm lửa đốt, tro xương cho vào 1 chum nhỏ đem chon vào huyệt mộ…
Tục ngữ có câu “cốc cồ lộn báư bên/ vên tai báư hụ” (không tự nh́n thấy gáy ḿnh/ ngày chết không ai biết trước), sinh có hẹn, tử  bất kỳ là vậy!
 
 
 
 

Bài 42

CỔ TÍCH

 
1, Tháp Mường Và: ở Sốp Cộp (huyện mới tách từ huyện Sông Mă, là Tháp của dân tộc Lào).
2, Đền thờ vua Lê Thái Tông (1423-1442) và văn bia Quế lâm ngự chế.
Là vua trẻ anh minh, vua đă 2 lần thân chinh lên Sơn La dẹp loạn phản nghịch. Vào tháng 3 năm canh thân 1440 và 1441 trên vách đá (núi) nh́n xuống cánh đồng Chiềng An có khắc 1 bài thơ chữ Hán “Quế Lâm Ngự Chế” nhằm khẳng định sự toàn vẹn lănh thổ và mong thiên hạ thái b́nh. Trải qua 500 năm chữ khắc vào đá c̣n rơ nét ở cửa Động La.
Đền thơ vua Lê Thái Tông mang dáng dấp đền cổ Việt Nam (khởi công 9/2001, khánh thành 22/1/2003) để ghi công đức vua và là nguyện vọng chính đáng của nhân dân Thành phố Sơn La hôm nay ở tổ 2, phường Chiềng Lề.
Theo Đại Việt sử kư toàn thư th́ 2 năm 1440 và 1441 vua Lê Thái Tông đi đánh tên phản nghịch Nghiễm ở Châu Thuận Ma, đem quân theo người Ai Lao (Lào) làm phản.
Vua thân chinh điều khiển 6 quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ ḅ không mang vũ khí, không nỡ chém, bàn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về, để lại bài thơ khắc trên vách hang Thẳm báo kế:
Nghĩ đến người xa đêm khổ tâm,
Thổ tù sao lại dám quên thân
Thế gian đă có anh hùng chúa,
Thiên hạ ai tha kẻ nghịch thần…
Đường xá khó khăn đừng cậy hiểm,
Hang cùng đá ấm áp hơi xuân
Yên được dân lành nhơ nhớp hết,
Dân xa được hưởng tấm ḷng nhân.
(Năm đầu niên hiệu Đại Bảo)
Canh thân 1440.
Nguyên văn chữ Hán là:
Bộ chẩm lưu tâm niệm viễn chân,
Man tù hà sự tốc vong thân.
Thế gian nhược hữu anh hùng chủ,
Thiên hạ thùy dung phản nghịch thần.
Ồ đạo duyên vân không thị hiềm,
Âm nhai rương noăn kỷ diên xuân.
Cách trừ ô nhiễm an dân thiện
Nhẫn sử hà mạnh ngoại chí nhân.
3, Di tích nhà tù Sơn La trên đồi Khau Cả (Thành phố Sơn La): Pháp xây dựng năm 1908, giai đoạn 1930 - 1945 chúng giam cầm đày ải 1007 lượt chiến sĩ cách mạng Việt Nam với các tên tuổi lớn như các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Song Hào, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Tùng, Tô Hiệu.
4, Nghĩa trang liệt sỹ Tô Hiệu và các liệt sỹ hi sinh ở nhà tù Sơn La, ở thân  đèo Khau Cả phía quốc lộ 6 lên Thuận Châu (Xem thơ “Qua thăm gốc ổi” của Trần Huy Liêu).
5, Sân bay Nà Sản: Tháng 10/1952 quân đội ta bao vây tấn công đợt 3 vào Nà sản…đă làm quân Pháp mở ra bài học để Đại tướng Henrie Navare hi vọng sử dụng căn cứ mạnh, có yểm hộ của máy bay và lấy mẫu từ 1 căn cứ ở Miến Điện của quân Anh để xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ “dụ” tướng Giáp lên quyết chiến…(căn cứ Nà Sản là để ngăn quân ta tiến công quân Pháp ở Lào). Ngày 9 - 8 - 1953 quân Pháp rút khỏi Nà sản bằng không vận sau 1 thời gian cầm cự.
6, Ngă ba C̣ Ṇi: nơi đây được  Tây gọi là “ngă ba tử địa” chỉ trọng năm ngày từ mùng 1 đến 5/4/1954, máy bay quân Pháp đă dội xuống đây 36 tấn bom để ḥng ngăn chặn quân ta… Địa danh Ngă Ba Có Ṇi đă đi vào trang sử vàng chói lọi của TNXPVN, nơi có đài tưởng niệm 100 chiến sĩ TNXP hi sinh, tại đây để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
7, Di tích cách mạng Lào ở bản Lao Khô, Xă  Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.
8, Di tích lịch sử Kỳ Đài Thuận Châu:  ở cách trung tâm huyện lỵ Thuận Châu (Chiềng Ly) 1 km về phía tây. Ngày 7-5-1959 kỷ niệm 5 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ và 4 năm ngày thành lập khu tự trị Thái Mèo, Bác Hồ cùng đoàn Đại biểu chính phủ (Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, nhà thơ Tố Hữu, Bộ trưởng y tế Phạm Ngọc Thạch) lên thăm đồng bào và chiến sỹ Tây Bắc… đă được tổ chức một cuộc mét ting lớn ở đây (thủ phủ Khu tự trị lúc bấy giờ)
 
 
 
 

Bài 43.

ĐÈO PHA ĐIN

 
Nơi trời ghé xuống hôn mặt đất
Núi vồng lên ôm ấp mây trời
Cứ như thể ta bay vào bát ngát
Giữa đất trời hạnh phúc sóng đôi
(NK)-
  Tên đèo Phạ là trời, Địa là đất(c̣n gọi là Vách trời), hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa đất và trời trên QL 6 từ Thuận Châu Sơn La đi Tuần Giáo (Lai Châu) ở cây số 360 - 392, đèo dài 32 km, điểm cao nhất 1648 mét, nơi có cột truyền h́nh nặng 70 tấn, chịu sức gió 200km/h; dốc đèo 10% - 19%.
Ở chiến dịch Điện Biên Phủ đoạn đường trên đèo Pha Đin phía ta có 8000 thanh niên xung phong “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, suốt 48 ngày đêm máy bay Pháp dội bom chặn đường lên của quân ta.
Từ năm 2006 - 2009 sửa Quốc lộ 6, đèo cũ được bỏ (tránh), làm đường mới ở độ cao thấp hơn phía trái Quốc lộ 6 cũ, cao khoảng 1000m (thấp hơn cũ 200 - 400m) xe cộ đi lại dẽ dàng.
Đèo Pha Đin có thể coi là thắng cảnh “đệ nhất hùng quan” của Sơn La - Tây Bắc nắng gió, sương mù, mây ngợp luôn, mát lạnh, thanh sạch như 1 cơi thần tiên khi ta lên tới đỉch.
 
 
 
 

Bài 44:

SUỐI, MÓ NƯỚC NÓNG

 
1, Suối nước nóng Bản Ṃng (Thành phố Sơn La) cách trung tâm thành phố 6 km về phía Tây Nam có suối nước nóng bản Ṃng, nhiệt độ là 38oc nhiều chất khoáng tốt cho điều trị khớp, thần kinh…
2, Suối nước nóng Ngọc Chiến ở độ cao 1800m/s mặt biển, nơi cư trú 3 dân tộc: Thái trắng, Hmông, LaHa nơi nhiều Táo mèo (Sơn tra). Có mỏ nước nóng chảy qua bản Lướt, tắm gội đẹp da.
3, Mỏ nước thần ở bản Miềng, xă  Mường Lèo, rất ấm từ núi chảy ra, tắm chữa bệnh.
4, Chỗ bản Ít tong (huyện lỵ Mường La) cũng có 1 khúc suối nước nóng, mùa đông bốc hơi nghi ngút, nóng gần 50ođượm mùi khoáng: tắm, uống đều thấy khỏe hẳn ra.
 
 
 

Bài 45

LỄ HỘI LUNG TA

 
Người Thái trắng (Quỳnh Nhài và các noi) thường th́ vào chiều 30 tết âm lịch…coi như thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới. Mọi nhà chuẩn bị tết, c̣n cá nhân th́ tắm gội mặc quần áo mới, tiếng chiêng trống vang lên đón tết…mọi người trong bản ra suối, sông thăm gia “lễ gội đầu”, coi đây là lễ hội mở đầu cho 1 năm mới, đó là để rửa trôi đi những cái vất vả, bệnh tật, những điều không may mắn của năm cũ, tống tiễn tai ương theo ḍng nước đi măi không lặp lại…đồng thời cho con người sức khỏe, năm mới tốt lành, gặp điều hay, làm ăn phát đạt. Để chuẩn bị cho lễ hội gội đầu trước đó cả tuần chị em đă vo gạo nếp lấy nước, đổ vào cái nồi cất giữ để cho càng lên mùi chua càng tốt. Đó là nước gội cho phụ nữ. Nồi nước tắm là nồi nước thơm của cây mùi già. C̣n cánh đàn ông gội nước bồ kết nướng ai nấy áo cóm, váy đẹp cùng chiêng trống kéo ra bờ suối, bờ sông.
Chị em cởi trần, kéo cạp váy lên phía trên ngực che vú, cúi đầu buông tóc tiến hành gội từ nước gạo nếp chua, nước lá thơm, nồi xơa theo ḍng nước…
Đàn ông th́ quần cộc, cởi trần gội,…Ngoài ra cánh đàn ông c̣n mang súng kíp ra bờ sông bắn nổ to vài phát tiễn năm cũ đón năm mới ḥa trong tiếng chiêng trống ấm vui của cả bản.
Gốc gác sự tích của “lễ hội Lung ta”  (lễ hội gội đầu) là trong buổi lễ:  Ông Mo c̣n hát kể về công lao của nữ tướng Nàng Han xưa (con gái 1 Tạo Mường) cầm quân đánh tan giặc ngoại xâm, đuổi chúng tới tận cơi Mường Xo (Phong Thổ - Lai Châu)…Dẹp xong giặc; cho quân sỹ nghỉ ngơi, tắm gội trên ḍng Nậm Te (Sông Đà) để ăn mừng chiến thắng…v́ thế người Thái Trắng vùng Sông Đà đến nay vẫn c̣n lưu lại phong tục này - đó là lễ hội lung ta (xuống bến nước làm lễ gội đầu) vừa là tẩy trần sạch sẽ vừa là để tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc…
 
 

Bài 46

DU LỊCH MỘC CHÂU

 
Cao nguyên Mộc Châu ở độ cao 1050m so với mặt biển, cách Hà Nội gần 194 km (quốc lộ 6), rộng khoảng 25 km, dài 80 km với 16000 ha đồng cỏ, mùa hè mát mẻ (20oc) mùa đông rét đậm, khô ráo, mù sương…
Đây là vùng lư tưởng để nuôi ḅ sữa (toàn vùng đă nuôi 7200 con, công ty ḥ sữa Mộc Châu có 3500 con, đạt sản lượng 7000 tấn sữa tươi/năm, toàn vùng trên 7000 con đạt trên 28.000 tấn/năm, năng suất 20,5kg/con/ngày).
Đây là những đồi chè nối tiếp nhau bát ngát, ta cứ ngỡ tới vùng chè Cameron Highland ở Malaysia? Từ thị trấn nông trường, tới Tân Lập, Cờ đỏ đi vào Ngũ động bản Ôn là những sóng đồi chè xanh tươi…toàn vùng có tới 3200 ha chè (toàn Sơn La khoảng trên 4000ha) đó là chè Phiêng Khoài (Yên Châu), chè Nà Sản, Phiêng Cầm (Mai Sơn), chè Pḥng Lái, chiềng pha (Thuận Châu), chè Tà Xùa (Bắc Yên); ở Mộc Châu có 6 công ty - nhà máy chè…trồng và chế biến các loại chè San Tuyết, trà Ô Long, trà Kim Tuyên…tổng số trên 3000 ha các loại, trong đó hơn 2700 ha đạt năng suất cao 74,1 tạ/ha.
Mộc Châu đang là nơi du lịch lư tưởng của người Hà Nội đến với vùng khí hậu ôn đới gần nhất: 194 km, đi ô tô mất 3 giờ đồng hồ. Đó là các điểm:
- Đông Sơn Mộc Hương, nằm ngay trung tâm thị trấn nông trường với diện tích 6915 mét vuông, từ quốc lộ 6 đi vào có 150 mét, qua 240 bậc tới cửa hang, di tích người xưa 3000 - 3500 năm.
- Thác Dải Yếm (thác Nàng) thuộc bản Vắt, khởi nguồn từ 2 khe nước Bó co lắm và Bó tá cháu chảy ra thành suối Vắt, qua 5 km ḥa vào suối Bó Sập giáp biên giới Việt Lào chảy về phía Yên Châu tạo ra thác dải yếm mùa mưa, thác rộng 70m.
- Rừng thác sải yếm đi ngược quốc lộ 43, khoảng 600 m rẽ sang 1 hẻm đi 300m là vào bản Vặt (Thái) khá phát triển nghề dệt Thổ Cẩm - ở đây có lễ hội xe chá, ẩm thực trên hồ Noong Buông.
- Thắng cảnh đỉnh núi Phiêng Luông cao 1500m (ngang Tam Đảo) trên đỉnh là 1 băi bằng sông cỡ 10 ha tha hồ hóng gió trông mây vùng biên giới Việt Lào.
- Ngoài ra c̣n tham quan rừng thông Mộc Châu, thác Thái Hưng, chùa Chiền Viên.
Mùa xuân đẹp nào hơn vườn đào Lơng luông, hoa mơ hoa mận ở vùng Mèo Vân Hồ?
- Ẩm thực: Các cửa hàng ở thị trấn có  các món “lợn cắp nách” “đặc sản gà dai” lẩu dê nấu ngải cứu - các món nướng Thái, Lẩu xá, cơm lam, xôi thơm….
Có thể nói Mộc Châu - miền xanh thẳm cao vời vợi lưng trời, 1 viên ngọc bích ở địa đầu miền Tây Bắc của Tổ Quốc đó là vùng nông thôn miền núi ngàn đời hoang sơ dân dă đang công nghiệp hiện đại hóa ở 1 tŕnh độ cao…đến đây để ta vừa hoài niệm bâng khuâng, vừa hứng khởi trông về tương lai tươi sáng và tràn trề hi vọng….

 

 
 

Bài 47

NGƯỜI BẮN HỔ

 
Tháng 6/1963, vào huyện Sông Mă (vùng biên giới Việt Lào) và tôi được các anh ở đây kể câu chuyện “anh Sáng bắn Hổ”.
Số là hồi 1952 - 1953, vùng này là hậu địch, Việt Minh ta mới xây dựng được khu căn cứ nhỏ với 1 đội du kích tuyên truyền vũ trang…anh em phải ở lán trong rừng, luôn di chuyển để tránh địch, ăn th́ nhờ lấy trộm gạo ở mả mấy người mới chết ngoài Paheo (rừng ma), đào củ mài, hái rau rừng đợ bữa qua ngày. Trong đội có anh Ḷ Văn Sáng vác súng kíp vào rừng t́m con don, con dím, con lợn rừng…Thế là vào 1 đêm anh đến phục sau gốc cây bên bờ hồ, chờ lũ lợn về uống nước, khoảng 10 - 11 giờ khuya, đám lợn vài con ủn ỉn đổ về ao (hồ), 1 ông ba mươi (hổ) to đùng, cỡ con ḅ tháu cũng khẽ khàng bước ra “ŕnh” vồ chú lợn choai (chắc mẩn, 1 bữa ngon), gốc cây anh Sáng nằm phục cách hổ độ 7 mét… Đúng lúc Hổ vồ lợn th́ anh Sáng cũng bất thần nổ súng…một phát xuyên táo chết tươi 2 chú Hổ và lợn. Thật là hi hữu “trời cho” may và tài, b́nh tĩnh chớp thời cơ…
Thế là 1 tiếng “hú” đồng đội anh chay ra: người vác lợn, người khiêng hổ về căn cứ  được 1 phen liên hoan xả láng…
Tiếng lành đồn xa “anh Ḷ Văn Sáng người bắn hổ” làm vang danh tiếng tăm đội du kích, làm bọn Pháp và tay sai hết hồn mỗi khi quân ta tập kích đánh giặc trừ gian…cho đến ngày giải phóng.
Sau này, anh Sáng tham gia công tác thoát ly, hồi 1962 - 1963…anh Sáng đă trở thành Bác Ḷ Văn Sáng, chủ tịch ủy ban hành chính huyện Sông Mă: 1 vị chủ tịch râu tóc bạc phơ, cao ráo, cường tráng (đẹp lăo) thông minh tháo vát, ung dung thư thái dẫn dắt (lănh đạo) nông dân huyện sông Mă cùng cả nước tiến lên xă hội chủ nghĩa.
 
 
 
 
 

Bài 48

CÂU CHUYỆN SĂN VOI

Tháng 8/1983, sau khi đi họp Quốc hội kỳ giữa năm (tháng 6, về…bác Cầm Ngoan, chủ tịch UBND tỉnh Sơn La, phó chủ tịch Quốc hội) goi tôi (NK) ra th́ thầm: anh sang bảo anh Thường (trưởng ty lâm nghiệp) 2 anh em vào sông Mă chỉ huy trạm kiểm lâm cùng đồn biên pḥng đi săn lấy 1 con voi rừng để đón chủ tịch Trường Chinh sắp tới (vào dịp 2/9 lên thăm tỉnh). (1)
Thế là NK tôi cùng anh Nguyễn Xuân Thường (khoảng 52 tuổi hơn NK 7 tuổi, người Mường ở Yên Lập - Phú Thọ sang công tác hậu địch xa nhà từ hồi 1950, hồi 1963 làm bí thư kiêm phó chủ tịch huyện Sông Mă, Bác Ḷ Văn Sáng làm chủ tịch) lên 1 xe u oát, cùng khoảng 5 kg Keo Mậu dịch quốc doanh đem theo để làm quà cho bọn trẻ các nhà thân quen (chẳng biết có đứa nào là “con gửi” của bí thư huyện ủy cũ hay không, có trời mới biết?).
Đường dài 120km, qua 7 khúc suối (1 xe đi trên ḷng suối), mất trên 10 tiếng đồng hồ th́ tới Bản Địa bên này bờ sông Mă, vào ở nhà chủ tịch xă Nà Nghịu, cũng là trung tâm thị trấn huyện Ly. Điện thoại réo Hạt trưởng kiểm lâm (quân của trưởng ty lâm nghiệp) và thượng úy đồn trưởng biên pḥng về nhận lệnh…
Xong, cả tối 2 anh em cùng chủ tịch xă, mới thêm cả phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp: 4 anh em, 2 con vịt, ít cá sông, 1 hũ rượu cần, 1 chai lẩu xiêu “hảo hán nớ” - au hảnh nớ…cạn chén bơ bao ngày xa cách (hồi tháng 6/1963, NK Tôi cách đấy 20 năm, hồi mới ra trường, xung phong vào Sông Mă làm quân anh Thường xuống chỉ đạo sản xuất ở xă Nà Nghịu…nên cả 2 anh em đều là người cũ, bạn cũ xa lâu mới về… cuộc Kin lẩu (cuộc rượu) tới khoảng 11giờ đêm th́ có tiếng vó ngựa lộc cộc của hạt trưởng kiểm lâm chạy về: Báo cáo 2 anh đă trông thấy voi.
- Ừ thế th́ tốt, ngồi xuống, ta au hảnh (cạn chén) vài choác để lấy khí thế
Chiều tối hôm sau, mấy anh em đang ngồi hàn huyên trao đổi xây dựng vùng cánh kiến Sông Mă, xử lư vấn đề sấy Long Nhăn của bà con khai hoang Hưng Yên nên như thế nào?... th́ có tiếng xe đạp (hồi này chưa có xe máy) của thượng úy trưởng đồn biên pḥng chạy về báo cáo:
- Thưa 2 anh, bọn chúng em phối hợp với kiểm lâm  đă tiếp cận voi, con này voi đực, ngà c̣n nhỏ, cỡ  7 - 8 tạ…
- Được, cứ thế mà triển khai…
Sáng hôm sau: Hạt trưởng kiểm lâm cùng phó chủ  tịch huyện đến:
- Báo cáo 2 anh em, nếu bắn được voi bọn em dự  kiến ăn chia như sau:
2 đùi sau, lá gan, ṿi và ngà xin gửi 2 anh về biếu tỉnh - c̣n lại: một ít huyện ủy, 1 ít ủy ban, c̣n lại chia đều đầu người ở hạt kiểm lâm và đồn biên pḥng.
- Thế cũng được; các cậu xuống tận nơi xem anh em chúng nó “săn” thế nào, phải chắc ăn đấy…
Chờ 2 ngày, bặt tin
Đến ngày chờ thứ 3 th́ cả 2 hạt trưởng và trưởng đồn hớt hải chạy về:
- Báo cáo 2 anh, voi nó đánh hơi thấy không lành, nó sợ, chạy về Lào (bên kia biên giới) mất rồi…
Ôi, thế là cụt ṿi, thế là hết chiều ni voi đi măi…
Thật là vô vọng - 2 anh em (NK tôi và anh Nguyễn Xuân Thường) không ai nói với ai câu ǵ, chia tay huyện c̣n dặn với 2 chú em:
- Các cậu cứ tiếp tục theo dơi bám sát trận  địa, phát hiện thấy voi th́ “điện” ngay ra tỉnh…
Bữa tiệc chiêu đăi chủ tịch Trường chinh lên thăm cán bộ, nhân dân tỉnh Sơn La năm ấy diễn ra b́nh thường, Chủ tịch tuổi đă cao, ăn kiêng, không uống rượu, tính cụ vốn là tiết kiệm (ăn uống đơn giản như Bác Hồ) nên các vị quan chức đầu tỉnh bữa ấy cũng không dám “hảo hán nớ” - “au hảnh nớ”…
Và chú voi (săn hụt) chắc là đang quay ṿi vung vít như nhắn sang bên kia biên giới:
- Vua chúa bây giờ có ư thức bảo vê  động vật hiếm quư, không ai được ăn thịt voi đâu nhé.
Chuyện thật như đùa vậy!
Hà Nội, 11 - 3 - 2012

 NK

(1)Lúc này NK đang làm
Thư kư Đ/c chủ tịch tỉnh
 
 
 
 

Bài 49

X̉E THÁI

 
Múa x̣e, c̣n có tên “x̣e khăm khen” (múa cầm tay), có từ xưa có 32 điệu, nổi tiếng nhất là x̣e phong Thổ, x̣e Mường Ḷ.
Phổ cập là điệu “khắm khen” mọi người nắm tay nhau quay ṿng tṛn, biểu hiện cho t́nh đoàn kết; điệu “khắm khăm mới lẩu” tức là nâng khăm mời rượu tỏ ḷng yêu quư và mến khách; điệu “đổn hôn” tức tiến, lùi nhào về phía trước ư nói trời đất dù có băo giông, sống gió nhưng t́nh cảm con người với nhau th́ luôn gắn chặt; Điệu “phá xí” tức bỏ bốn, tượng trưng cho 4 phương trời đoàn kết giao lưu; điệu “nhôm khăn” tức tung khăn thể hiện niềm vui mừng mùa màng thắng lợi, xây nhà mới, sinh thêm con cháu, cưới xin…
Ở vùng Mộc Châu - Mai Châu (Tày Đeng) có các điệu x̣e chá, x̣e ồng bổng, x̣e kiếm, x̣e đánh máng…
X̣e ồng bổng là 1 điệu múa xưa, động tác đơn giản, mọi người cầm tay nhau nhảy nhót xung quanh đống lửa theo nhịp “ḥ huậy, ḥ huây” mừng thắng lợi gịn giă sau cuộc đi săn về hoặc xung quanh ṿ rượu cần mừng nhà mới.
Đặc điểm x̣e này: trang phục b́nh thường chỉ có  đàn ông x̣e, “nhạc” miệng là tự hô, cổ vũ người xem, vui nhộn phóng khoáng. Điệu x̣e “đánh máng” dành cho nữ giới, cứ 3 cặp mỗi cặp dùng 2 chày gỗ gơ vào máng dùng để giă gạo, tạo ra tiếng chày gịn chắc, nhịp điệu mỗi lúc 1 mạnh…cùng trống chiêng rộn ră.
Các điệu x̣e (xe) được các nghệ nhân dân gian xây dựng (32 điệu) luôn mang bóng dáng gần gũi với dân bản như “xe cúp” (múa nón), xe tẳng chai (múa chai), xe kếp phắc (hái rau), xe cáp (múa sạp)…
Các điệu x̣e ṿng sôi nổi bao nhiêu th́ các  điệu x̣e đơn, x̣e tốp lại tinh tế duyên dáng bấy nhiêu - với triết lư âm dương: trời đất, nước - lửa và ư nghĩa nhân sinh cao cả ẩn chứa kỳ ảo trong các điệu x̣e Thái từ xưa tới nay trong các cuộc vui liên hoan, lễ hội.
 
 
 
 

Bài 50

NHẠC KHÍ THÁI

 
Từ xưa người Thái đă làm “Pí” (sáo) để thổi chơi, gửi gắm nỗi niềm qua nốt nhạc tiếng sáo giữa núi rừng mênh mông đèo heo hút, là công cụ  để “pay ỉn sao” nói tiếng ḷng vào con tim người mà ḿnh theo đuổi…
1, Pí tam lay (pí nốc ống) cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 là ống phát âm nối với ống 2 làn phần khuếch thanh, ống 2 đôi khi được lắp thêm 1 gáo tre (to) để tăng độ vang của âm thanh.
2, Pí lào nọi (sáo lào nhỏ): y hệt phần 1 của pí tam lay, bằng cây nứa tép, tuy khác là 1 hàng âm 6 lỗ.
Xuất xứ: từ “pí” (sáo) có lẽ từ “pép” hoặc pép phan (pép hoẵng) do tục đi săn hoẵng (từ pép đẻ ra pí cùng đồng âm). Trong đêm khuya ở rừng vẳng lên tiếng Hoẵng kêu (Hoẵng giác) đó là lúc con đực đi t́m con cái để bắt chước tiếng Hoẵng gọi bạn t́nh phải chăng vậy “pí” chỉ là 1 ống nứa tép mà véo von mà “bếp nhà sàn, tiếng pí thổi say mê” là thế?
Ngoài sáo c̣n có KHÈN…
 
 
 
 

Bài 51

THƠ CA THÁI

 
Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư).
Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử “Quắm tố mướng” hoặc sử thi  “Tày pú xấc” cho đến các truyện thơ t́nh như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để “khắp” (hát)….
Bước đầu đă có làn điệu “ḷng bản” và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo h́nh thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đ́nh Minh Sơn th́:
- Hệ tín ngưỡng “hát thơ mo” do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
- Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ t́nh, hát ví, hát ḥ trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv….
Ở người Thái 2 chữ “thơ ca” quả là đầy đủ và ư nghĩa “Thơ để giải bầy nỗi ḷng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cơi ḷng ai đó”.
Thơ Thái là 1 thứ “kinh thi” bản địa, hồn quê ḥa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đă nói ở trên đă trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.
Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xă hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc ḿnh, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lănh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:
 
HÀO QUANG KHẨU CẢ
(tác giả tự dịch)
Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)
Là nói lên:
- Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.
Nhưng:
Khâu Cả là ḷ luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng ḿnh, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.
Sơn La, 9/7/1998
Hoàng Nó
(Cầm Văn Lường - 1925 đă mất)- quê  Chiềng Ban, Mai Sơn.
 
(1) đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xă Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề.
Sau là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
 
 
 
 
 
ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ

 

Mặt trời đi qua sàn nhà người thương
Hạt nắng c̣n vương bên thềm cửa sổ
Hoàng hôn đi mặt trời không rủ
Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn.
Anh mượn gió gửi lời câu thương nhớ
Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ
Mười sẽ quên và chín sẽ quên
“Sông Mă cạn bằng đĩa mới quên”
Chín lần quên để ngàn lần thương nhớ!
Anh là con thuyền trôi trong ḍng sông đôi mắt
Để đôi bờ bên nhớ bên thương
6/1997
Hà Trường Giang (1950)
Quê huyện sông Mă - Sơn La
 
VÀNG VÀ THƠ

 

Một câu thơ, một hàng vàng
Cân coi thử, ai nặng hơn ai?
Nem công, chả quế ăn vội
Không hóc cũng cay!
Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa ngọt
Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt
Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim
Cái ǵ giữ măi hương thơm
Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt
Thơ bằng tim, đậm măi trong tim
Cầm Biêu (1920-1997)
Quê Mường Chanh - Mai Sơn
 
 
LỜI MẸ

 

Yêu nhau bằng lời nói
Mẹ bảo chưa đủ
Bằng mân khiêng cỗ nặng
Mẹ bảo cũng chưa no
Vội đón sau đón trước
Cành vướng sợi tơ ḷng
Mẹ bảo!
Hăy lấy ngày làm gang để đếm
Lấy tháng làm sải để đo tấc ḷng
Mưa to có cùng nhau hứng?
Mặt trời làm tấm gương soi
Soi vào khuôn mặt
Soi vào ḷng dạ tim gan
Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần
Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp ngón tay
Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt…
Đầu lưỡi nếm cho rành
Tự đáy ḷng ḿnh “cân đong”
Xử sự công bằng
1983
Ḷ Văn Cậy (1928 - 1994)
Quê Sốp Cộp - Sông Mă
 
 
 
 
 
 
 
 
HOA RỪNG

 

Thấy em lượm bông vạt nương chân núi
Như đứng giữa dải ngân hà
Anh vứt bó cây, chạy ngay tới
Chẳng đợi em ưng ư
Anh cứ mà lượm theo.
Mới đầu anh lượm cây này, em lượm cây kia
Rồi lượm chung cây
Lượm chung cành
Lượm cả tay nhau.
Mặt trời bảo về, ta chưa muốn
Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên nương
Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát
Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng xanh
Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay động
Hàng cúc bạc long lanh
Ngực em mười đôi cúc bướm
Có mười đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng
Ngực rực hồng tia nắng
Ngực ngấn đầy hương hoa.
Vương Trung (1938)
 
ÁNH CHỚP TRỜI XA

 

Mưa rơi trên núi Giảng?
Chớp lóe sáng chân mây!
Ai phơi ǵ sàn ngoài quên dọn. Mau dọn!
Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than:
- Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn
Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông (1)
“Rồng chọi rồng” ngày đêm không ngớt.
Cất tiếng cười hai cháu cầm tay
- Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi!
 
(1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn
Tháng 6: trời kiêng mưa
Sơn La 19 - 5 - 1979
Ḷ Văn E (1933 - 1995)
Quê Sốp Cộp - Sông Mă
NHỚ CON

 

Có điều ǵ sánh được
Mẹ nhớ con
Thương từ những lỗi lầm
Mưa lâm thâm mà ḷng mẹ thành băo
Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây
T́nh yêu của mẹ là trái chín trên cây
Để cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say
11 - 1992
Cầm Thị Phụi
(Phó chủ tịch HĐND tỉnh)
 
ĐÊM HỘI MÚA X̉E

 

Tiếng trống, tiếng cồng vang giục giă
Như chắp cánh niềm vui bay cao
Cả “Khuống” mường bỗng dưng nghiêng ngả
Với ṿng x̣e nhún nhẩy say sưa
Đôi chân thon thon quen theo lối nương.
Đôi chân bè đạp ṃn lối ruộng
Quyện bên nhau rập ŕnh
“Khắm xéo” quàng trên áo cóm
Tất cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo
Cái dùi gỗ băm trên mặt trống
Rền như giông, như sấm
“Họa…họa…Huệ…Huệ…”
Cả ṿng x̣e cuồng lên
Theo nhịp trống, nhịp tim
Tung chân nhảy hết ḿnh, hết sức
“Đàn bướm” cúc muốn bay khỏi ngực
Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo
Ṿng x̣e quay, quay măi không ngừng
Lương Văn Tộ  (1946)
Quê Sông Mă - Sơn La
CÂY BAN TRÊN RỪNG
 
(Tác giả tự dịch)
Ào ào băi xoáy
Đá lăn, cây đổ
Thân sâng, gốc sở ngổn ngang
Một cây Ban đứng điềm nhiên
Cạnh lối lên nương làm cỏ
Hỏi giông, hỏi gió
Sao Ban kia vẫn b́nh yên phận thường?
Cây ban rằng: “ḥa t́nh yêu”
Trắng trong tuổi trẻ
Chung thủy tận già
Lửa mường đất gốc, chưa thành than
(th́ không thể chết
Gió dập thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh)
Một cây Ban
Đứng trên nương
Ḷ Xuân Thương (1936)
Quê Púng Tra - Thuận Châu
 
 
 
CHIỀU BẾN VẠN                  (1)

 

Bến cũ đâu hỡi sông?
Bến ở trong ḷng nước
Miệt mài ngày đêm chảy
Về Ḥa B́nh khơi xa.
Bản t́nh ca bất tận
Gập ghềnh đá nơi đâu?
Ở trong ḷng nước ấy
Với biển hồ phẳng lặng
Xóa những ḍng vách ngăn.
Và mai lên
Ngược xuôi
Thuyền đánh cá
Và chiều buông
Sương giăng tṛn
Trăng xóa
C̣i tàu vang xa, vang xa
Bến Vạn Yên 1995
Hoàng Bạch Long 1949
Quê Huy Thượng - Phù  Yên
(1) Bến Vạn Yên: Phố nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xă Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông.
 
KHOẢNG XANH

 

Gió Lào mang hơi lửa
Hun sém cả trưa hè
Cháy khét tiếng ve
Rừng tre trơ trụi lá
Con chim vội vă sà xuống khe trốn
Sợi nắng muốn chăng đan mặt cỏ
Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả
Trái đất đă quen mùi khắc nghiệt!
Đến con kiến cũng c̣n phải ung dung thư thái
Miệt mài tha mồi về tổ
Ai như quả bứa chín vàng mơ
Trong trẻo giữa trưa hè
Thời gian nḥa vào im lắng
Một khoảng không trống vắng
Vỗ ào vào cánh xanh
Ḷ Vũ Vân 1943
Quê Bắc Yên - Sơn La
 
XUÂN BẢN THÀN

 

Tết
Ở bản Thàn
Cái vui
Sôi lên từ hũ rượu cần
Bụng trống
Vú chiêng
Rung lên
Cả mái sàn chao đảo
Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu
Măng vầu
Măng sặt
Dỏng tai đón mưa rơi
Xuân 1996
Ḷ Vũ Vân
 
 
 
 
 
BIỂN Ở THẢO NGUYÊN

 

Ở độ cao một ngh́n năm mươi mét
Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển
Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao xao
Ước có biển nên gom mây về làm biển
Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh mông
Đảo là những ngọn thông, chóp núi
Cho thuyền chim đi về neo đậu
Thảo nguyên xanh đắm ḿnh trong màn huyền ảo
Đưa ta về thời xưa cổ tích
Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung?
Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa khoảnh khắc
Bỗng chốc tan - biển biến về đâu?
Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá
Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên.
Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997
Ḷ Vũ Vân
 
NHỚ VỀ PHỐ VẠN

 

Chúng tôi dân tứ xứ
Gặp nhau ở nơi đây
Dựng nên một Phố nhỏ
Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1)
Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)
Tôi Mường Bi, Mường Động (3)
C̣n chị hay mơ mộng
Theo chồng lên nơi đây
Là dân Nam Định đó (4)
Một dăy phố nhỏ thôi
Bao ḍng đời đă chảy
Tụ về Phố nhỏ này
Nhớ bến Vạn thuở ấy
Thuyền đuôi én ngược xuôi
Ai đi xuống chợ Bờ
Ai ngược ḍng Đà Giang
Lên Mường Chiên, Mường Ét
Ḍng sông vẫn êm trôi
Nối phố nhỏ của tôi
Với bao bờ thương nh
Ơi bến Vạn, phố Vạn
Phố của chúng tôi đó
Mùa đông heo hút gió
Tết về câu đối đỏ
Tiếng pháo lại rộ vang
Tiếng chuông điểm đ́nh Ang (7)
Tiếng trống vang đ́nh Hán
Hồn thiên cổ bay về
Bản làng trong khói hương
Mùa hè nóng rát bỏng
Những cây phượng trước ngơ
Lại cháy đỏ màu hoa…
Nay phố đă đi xa
Ch́m đáy nước sông Đà
Ôi phố núi nho nhỏ
Phố của chúng tôi đó
Vẫn cháy màu phượng đỏ
Trong ḷng mỗi chúng tôi
Rồi một ngày không xa
Hoa phượng lại rực đỏ
Trên phố mới nguy nga
Tôi lại viết bài ca
Về bến Vạn, phố Vạn
Phố của hoa phượng đỏ
Thắm măi bên sông Đà
6/1996
(1) Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên)
(2) 2 tỉnh của quê gốc người Hoa
(3) Thuộc Ḥa B́nh quê người Mường
(4) Chợ Bờ (Ḥa B́nh), nay ch́m dưới hồ
(5) Thuộc Quỳnh Nhai
(6) Đ́nh Ang, Đ́nh Hán là 2 ngôi đ́nh thuộc xă Tâm Phong
Nhà thơ Đinh Tân (1942)
Dân tộc Mường
Quê Tân Phong, Phù  Yên, Sơn La
 

CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA

 
Điều tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người). Có 12 dân tộc anh em.
Thái
482.985
Người chiếm 54,7 %
Kinh
153.646
Người chiếm 17,42%
Hmông
114.578
Người chiếm 13,00%
Mường
71.906
Người chiếm 8,15%
Các dân tộc khác
 
Người chiếm 6,73%
Tŕnh độ dân trí tính đến 2002:
Tỉ lệ biết chữ 70,8%
Học sinh phổ thông 220.430 em
Giáo viên 10.209 người
Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện
 
 
 
 
Bài 52:

CHUYỆN T̀NH Ở  CHIỀNG LY 

 
“Ngắm họt Mường Muỗi
Nhớ về Châu Thuận”.
 
Với ngh́n năm lịch sử, bản Mường Chiềng Ly là  trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của 18 Châu Mường Tây Bắc….đă để lại nhiều giai thoại về các mối t́nh khá cảm động.

 

1) Mối t́nh thứ nhất: Khun Lú - Nàng Ủa.

 

Thuở đó, Then (chúa tể của Mường Trời) sinh hạ được một nàng công chúa đặt tên là  Cong Péng. Lớn lên Nàng xinh đẹp và thông minh hơn người. Trên Mường Trời chẳng có ai xứng làm chồng Nàng. Duy nhất chỉ có Then (cha) là xứng đáng. Nhưng luật đời không thể loạn luân. V́ vậy Then gọi nàng đến cho xuống trần gian làm người, hẹn 23 năm sau sẽ trở về trời.
Dưới trần gian khi đó có Ph́a Chiềng Ly, quyền uy lừng lẫy, sinh được 2 quư nữ đào tơ.
“Cắm xôm, chị khiến trăng mờ
Nàng em Ngân Liếng, cá ngơ ngẩn nh́n”
Một hôm, khi “hè đă sang Ban tàn rừng biếc/ muôn loài ve tha thiết kêu ran/ mưa rào tràn ruộng bậc thang/ nắng oi đă gọi 2 nàng ra sông/ tuột váy áo vẫy vùng sông nước/ Phô tấm thân ngà ngọc dưới trời/ Từ trời, trời ngắm trời coi: eo như tiên cá, 2 chồi như hoa/ Trời thầm tính: ta đà có cách/ gửi con ta vào quách 2 nàng…” Thế là công chúa Cong Péng được biến thành một quả sung chín mọng và thơm phức trôi đến 2 nàng đang tắm; 2 chị em bắt lấy và chia nhau ăn
Nàng Ngân Liếng ăn liền mát dạ
Nằng Cắm Xôm nuốt cả ngọt thơm
Thấy người khoan khoái râm ran
Chừng như phép lạ mê man động t́nh.
Từ đó 2 chị em đều có thai mặc dù  chưa hề chung sống với ai cả. Hai cô nàng đều rất đau buồn và hổ thẹn! Thế rồi cha (Ph́a Chiềng Ly) nhờ uy thế nên vẫn t́m được chồng cho 2 nàng.
Chồng Cắm Xôm là Khum Pâng
Chồng Ngân Liếng là Khun Bái.
9 tháng 10 ngày: Cô chị sinh được chàng Khun Lú, cô em sinh ra Nàng Ủa, cùng sinh ra lớn lên ở trong dinh thự ông bà ngoại ở Chiềng Ly. Trước đó 2 chị em (2 mẹ ) đă từng thề bồi:
Ta cùng chịu phép trời biến hóa
Sinh gái trai sẽ gả cho nhau
Cho chung một Mệnh khổ đau
Cùng là gái: gả trước sau một chồng.
Hết thời hạn ở rể, ông Ph́a Chiềng Ly cho Khun Bái đem vợ và con (Nàng Ủa) về quê sinh sống.
Hai trẻ sinh ra lớn lên ở bên nhau, vốn có  duyên trời nên yêu nhau tha thiết, 2 mẹ cùng vun vén hùn vào…Nay xa cách rất chi là thương nhớ; Rồi nhiều lần t́m cách thăm nhau, mối t́nh ngày một bền chặt. Nhưng rồi “thấm thoát” qua nhiều năm nhiều tết…ông tạo Bái dứt khoát theo “Luật Mường” đă gả Nàng Ửa cho Khun Trai….và gia đ́nh chàng Lú cũng ép chàng phải lấy Nàng Mành (Méng)... Kết cục là Nàng Ủa và Khun Lú quyên sinh chết v́ người t́nh như đă ước hẹn. Hồn 2 người biến thành 2 ngôi sao Khun Lú - Nàng Ủa (Sao Hôm, Sao Mai) bị trời chắn 1 bức phên ngăn cách chỉ được nh́n thấy nhau chứ không được gặp nhau; và đúng như trời định: 23 năm sau, hồn Ủa về gặp Then, Then liền lấy làm vợ (con gái ḿnh đă đầu thai sang kiếp khác để khỏi vi phạm Luật trời - Trời cũng khéo biến hóa là vậy). Chàng Lú và Nàng Ủa chỉ c̣n là:
Đứng xa cách đôi bên cùng liếc
Lệ đưa t́nh thảm thiết đắng cay
Đất không thương, trời lại đầy
T́nh chung cũng chỉ khóc hoài mà  thôi
Chàng lẩn khuất mây trời vạn kiếp
Nỗi nhớ thương biền biệt không gian.
 
2. Mối t́nh thứ 2: T́nh chàng thi sĩ.

 

Thầy giáo trẻ Trần Lê Văn (sinh 1920, quê  Vị Xuyên - Nam Định) năm 1943 được Nhà nước Bảo hộ (Thực dân Pháp) cử lên dạy Tiểu học  ở Chiềng Ly, được bố trí ở 1 gia đ́nh người Thái họ Bạc (Bạc Cầm, Cầm Văn… thuộc tầng lớp quư tộc Thái - sau này 1946 - 1953 tỉnh trưởng Sơn La thuộc Pháp là Bạc Cầm Qúy).
Thời trước năm 1945 ở xứ Thái (Sơn La) này quan đầu tỉnh là công sứ người Pháp (tên Tây lai Cousseau - rất gian ác: vợ hắn người Việt, con nhà giàu, do Bố mẹ giúp hắn “chạy” được cái hàm “Hồng lô tự thiếu khanh” (trật Chánh Ngũ phẩm) của Triều đ́nh Huế - đó là 1 con cáo già trong giới quan cai trị của thực dân Pháp ở Sơn La thời đó).
Con gái rượu của chủ nhà là cô Bạc Thị Nâu, cũng là học sinh của Thầy Văn. Chàng trai Thành Nam 23 tuổi, có tâm hồn thi sĩ ở cận kề cô Nàng tuổi cập kê “trai chằm nhinh báu đi” (trai gần gái không tốt)- thế là 1 mối t́nh trai gái thầm lặng bốc lửa. Khi mẹ Nàng phát hiện ra con gái ḿnh “đầu mày cuối mắt” với thầy giáo Văn th́ bà tuyên bố như dao chém đá “cho dù chúng nó “yêu” to bằng trái núi cũng không gả”- mối t́nh Thái Kinh/ ngược xuôi quả là trắc trở… Nhưng may thay: Vừa lúc ấy, Việt Minh nổi lên, bọn thống trị thực dân Pháp và bè lũ tay sai chạy bán xới lên Lai Châu rồi sang Vân Nam (Trung Quốc - đang là thời chính quyền của Quốc dân Đảng - Tưởng Giới Thạch), anh giáo trẻ Trần Lê Văn trở thành cán bộ giáo dục của chính quyền cách mạng tỉnh Sơn La, mối t́nh Trần Lê Văn - Bạc Thị Nâu xem ra thuận buồm xuôi gió th́ t́nh thế lại xảy ra vào lúc ngặt nghèo: một cánh quân Pháp tràn từ Vân Nam xuống nhằm chiếm lại 18 châu Mường Xứ Thái. Thế là một đám cưới gấp (đám cưới t́nh thế): chỉ có nhà gái với chú rể (cùng đại diện đoàn thể Việt Minh) thật đúng như nhà thơ đă ghi lại:
Tháng hai sườn núi trăng ngơ ngác
Đám cưới hiu buồn một giác mơ.
Lư do làm chàng buồn v́
Cả họ nhà trai có  chú rể
Anh lính tiền tuyến làm ông tơ.
Thế rồi “Nàng theo chàng về Dinh”, rồi  đi qua 2 cuộc kháng chiến…cô gái Thái ở  Bản Chiềng Ly (Thuận Châu) luôn là người vợ  hiền thục của nhà thơ Trần Lê Văn (thường trú ở Thủ Đô cho tới ngày đầu bạc, răng long).
 
3. Mối t́nh thứ 3: T́nh chàng họa sĩ.

 

Họa sĩ Kiều Minh (sinh 1938 - quê Hà Nội). Năm 1962, sau khi tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội lên công tác ở Sở văn hóa khu tự trị Thái Mèo, đóng ở bản Chiềng Ly (thủ phủ)…cô Bạc Thị Nguyệt (cháu gái bà Bạc Thị Nâu) lúc này là “cô Văn Công” - đoàn văn công khu Tây Bắc: xinh đẹp, hát hay, múa dẻo đă lọt vào tầm mắt của chàng trai Họa sĩ Hà thành. Thời điểm này: cách mạng đến, xóa bỏ chế độ Ph́a Tạo…làm thay đổi mọi cách sống và nếp nghĩ, sự ḥa hợp đoàn kết dân tộc có nhiều sự tiến bộ, đă có nhiều cuộc hôn nhân Kinh - Thái, nên việc nên vợ nên chồng của đôi bạn Minh - Nguyệt không có ǵ trở ngại. Năm 1975, sau khi giải thể khu tự trị Tây Bắc: họa sĩ Kiều Minh được chuyển về Bộ văn hóa, 1984 NK tôi cũng được chuyển về Hà Nội, đến thăm 2 bạn, xúc động hạ bút viết bài thơ.
 
          BẢN CHIỀNG LY
 
Bản Chiềng Ly chưa đi đă nhớ,
Phố chênh vênh bên núi bên hồ;
Gái bản từ lâu quen chợ búa
Trai Thuận Châu bao bạn nằm mơ.
 
Người Chiềng Ly hay đi đây đó,
Mùa hoa Ban về dự hội Làng;
Quả c̣n lửa bay ngang trời phố  nhỏ,
Trái tim hồng thiếu nữ đón xuân sang.
 
Tôi say đắm yêu cô Nàng như  thế.
Cha mẹ thương cho về ở  Kinh Kỳ;
Không ở rể mà vẫn là  rể quư
Để mỗi năm lại lên tết Chiềng Ly.
                                                                          NK
Bài thơ NK viết lúc đến thăm 2 bạn Minh - Nguyệt  ở Hà Nội, được viết lại hoàn chỉnh ở  Chiềng Ly (Thuận Châu) hồi 1993 - bài thơ “Bản Chiềng Ly” được nxb giáo dục in vào Tuyển tập Văn học Dân tộc miền núi - 1999.
Nhà văn Hoàng Quảng Uyên tăm đắc với 2 chữ  “chênh vênh” của phố Thuận Châu nên con người Chiềng Ly cũng chênh vênh cùng đất, phải đi đây đi đó nhưng sự ra đi ấy không phải là  “ly” (biệt) mà bởi v́ mảnh đất có nhiều níu kéo…Thơ NK có một chút ǵ bảng lảng của khói lam chiều trên nhà sàn Tây Bắc, của nắng nhạt trải thảm cao nguyên mang dấu ấn hào hoa Kinh Bắc.
Với NK th́ sợi chỉ đỏ (thông điệp) của bài thơ nằm ở 2 câu:
…. Cha mẹ thương cho về ở Kinh Kỳ;
      Không ở rể mà vẫn là rể quư
Là nói lên cái thành quả của cuộc cách mạng dân tộc gắn với chủ nghĩa xă hội: đă xóa  đi được cái thành kiến phân biệt xuôi/ ngược (Kinh, Thái…) Không phải ở rể như thời chế  độ Phía Tạo, mọi dân tộc anh em đều có thể  trở thành dâu rể trong gia đ́nh Đại Việt: “Để mỗi năm lại lên tết Chiềng Ly” thăm lại Bản cũ Mường xưa.
 
LỜI CUỐI SÁCH
“Sơn La kư sự” gồm 52 bài tùy bút, hồi ức, thơ, sưu tầm, ghi chép về xứ Thái một thời NK đă sống, nhằm để con cháu, bạn bè, ai đó đọc xong “ờ Sơn La, người Thái nó là như thế…” để thêm yêu cái xứ sở “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù” rồi “nước Sơn La, ma Ḥa B́nh” ngày xưa nó bí ẩn, lạ lẫm, đáng sợ làm sao?
Năm 1962 (vừa tái lập tỉnh) Sơn La mới có 18 vạn dân, chủ yếu là người Thái, sau 1975, nhất là sau 1986 người xuôi (Thái B́nh, Hưng Yên…) lên ồ ạt, đến nay 2009 dân số toàn tỉnh 10.080.641 trong đó dân tộc Thái trên 48 vạn người.
Mọi phong tục tập quán kể cả tiếng nói chữ  viết Thái đang bị “ḥa nhập” ḥa tan, bị  lai ghép đă dần mai một. SOS là thế…
Để kết cuốn sách này, có lẽ hay hơn là nhờ Chế Lan Viên nói hộ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua ḷng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi  đất ở
Khi ta đi, đất đă hóa tâm hồn!”
Góc thành nam Hà Nội 26.5.2012
NGUYỄN KHÔI
 
TIỂU SỬ NHÀ VĂN NGUYỄN KHÔI
 
 
Nguyễn Khôi (tên khai sinh : Nguyễn Kim Khôi)
sinh 1938, quê phố Đ́nh, phường Đ́nh Bảng, thị xă Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh..
NR; 259/39 phố Vọng – Hà Nội.
- Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội
- UV BCH Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội
- UV BCH Hội VHNT các Dân tộc Thiểu số VN (Khóa 2)
Chuyên viên Cao cấp, nguyên Phó Vụ trưởng Văn pḥng Quốc hội Việt Nam
Các tác phẩm đă xuất bản:
- Trai Đ́nh Bảng (thơ) nxb Văn Học 1995,vhtt 2000
- Gửi Mường bản xa xăm (thơ) nxb vhdt 1998 – Giải thưởng Hội VHTH các DTTS VN 1998.
- Trưa rừng ấy (thơ tứ tuyệt 100 bài) NXB VHDT-2005
- Chiều phố Vọng – Thơ, NXB NXB Hội Nhà Văn -2011
- Bắc Ninh thi thoại (biên khảo) đă tái bản lần thứ 3.
- Các dân tộc ở Việt Nam-cách dùng họ và  đặt tên (biên khảo NXB VHDT 2006.
- Cổ Pháp cố sự- 4 tập, 920 trang NXB VHDT, viết về cội nguồn nhà Lư.
- Có thơ in ở: tuyển tập thơ Việt Nam 1945-2000 (NXB lao động); tuyển tập thơ
Việt Nam 1975-2000, NXB Hội Nhà Văn; tuyển tập Văn học Miền Núi-NXB giáo dục1998; tuyển tập thơ Việt Nam thế kỷ 20 (NXB giáo dục-2005) , tuyển tập thơ Việt Nam 10 năm đầu thế kỷ 21(NXB Hội Nhà Văn 2010)vv…
Dịch thuật:
- Sống Chu Son Sao (Tiễn Dặn Người Yêu) – truyện thơ dân tộc Thái
- Tiếng hát làm Dâu (dân ca H’mông) vv…
Giải thưởng :
- Giải thưởng viết về 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, bài thơ ” Về Hà Nội”.
- Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2008 cho Bộ sử Làng Cổ Pháp cố sự.

 

Nguồn: Nguyễn Khôi

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18