Lê Văn Duyệt (1763-1832) 
							 
							 
							
								
								TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT
								(1764-1832)
								 
								 
								Lê Văn Duyệt, tổ tích 
								nguyên quán ở Bồ Đề, Mộ Đức, Quảng Ngăi. Nội tổ 
								là Ông Lê Văn Hiếu thiên cư và vào miền thôn dă 
								gần Vàm Trà Lọt (sau thuộc làng Hoà Khánh, tỉnh 
								Định Tường). Cha là ông Lê Văn Toại sinh được 4 
								con trai. Lê Văn Duyệt là con trưởng sinh vào 
								năm Giáp Thân (1764) tại Vàm Trà Lọt. Sau khi 
								ông Lê Văn Hiếu qua đời, đại gia đ́nh cư trú tại 
								vùng Rạch Gầm ở bên rạch ông Hổ, nay thuộc làng 
								Long Hưng (Định Tường) 
								 
								Lúc mới sinh, Lê Văn Duyệt 
								bị tật ẩn cung (không có bộ máy sinh dục), thân 
								h́nh ngắn, tính khí thâm trầm, dũng mănh, sức 
								khỏe khác thường. Ông ít bạn bè lại khôngham học 
								văn mà chỉ chuộng vơ. Suốt ngày, ngoài vlệc tập 
								luyện vơ nghệ, chỉ lo làm bẩy, làm giỏ bắt chim, 
								đánh cá; đặc biệt say mê thú nuôi gà ṇi. 
								 
								 
								Khi 14, 15 tuổi thường 
								than rằng: "sinh ở đời ly loạn mà không kéo 
								trống, cầm cờ làm đại tướng để lưu công danh sử 
								sách th́ không phải là trai".  
								 
								Năm 1780, Lê Văn Duyệt 
								được chúa Nguyễn tuyển làm Thái Giám, sau thăng 
								Cai Cơ cai quản hai đội quân thuộc nội thành, có 
								công bảo vệ chúa Nguyễn trên đường phục quốc từ 
								Phú Quốc qua Xiêm La về Sai Côn cho đến ngày đất 
								Đồng Nai thuộc về chúa Nguyễn (1789). 
								 
								 
								Lê Văn Duyệt thường theo 
								dự chiến trận, cùng các tướng bàn luận việc dụng 
								binh, có nhiều ư kiến xác đáng. Ông thường tâu 
								lên Nguyễn Vương: Sơn tặc (quân Tây Sơn) là quân 
								vô đạo không bao lâu cũng tự diệt mà thôi. Nay 
								ta lấy người nhân mà đánh kẻ bạo, thế như chẻ 
								tre tôi thấy không có ǵ làm khó"  
								 
								Nguyễn Vương tỏ ư đẹp ḷng. 
								Lê Văn Duyệt bèn xin chiêu mộ binh sĩ theo về 
								cánh Tả quân, phụng mệnh ra đánh Quy nhơn có 
								công tại mặt trận Úc Sơn được thăng làm Thuộc 
								nội vệ úy, thuộc đội Thần Sách quân.  
								 
								Đầu năm Ất Măo (1795) , 
								đem quân cứu viện Diên Khánh, đưa đại quân qua 
								sông đánh hạ đồn, Lê Văn Duyệt được cải phong Vệ 
								úy Diệu Vơ, lại đổi làm Chánh Thống Tả Đồn của 
								đạo quân Thần Sách trấn thủ Diên Khánh thành.
								 
								 
								Đầu năm Kỷ Mùi 1799, Lê 
								Văn Duyệt đem quân án ngữ B́nh Đê ngăn viện binh 
								Tây Sơn. Quân của Thiếu Phó Trần Quang Diệu và 
								Tư Đồ Vơ Văn Dũng khôngtiếp viện được phải lui 
								về Thanh Hảo, Mộ Đức, v́ thế thành Qui Nhơn bị 
								hạ. Nguyễn Vương cho đổi Quy nhơn thành là B́nh 
								Định thành.  
								 
								Tháng Chạp năm Kỷ Mùi 
								1799, thành B́nh Định bị quân Tây Sơn vây chặt. 
								Mùa Xuân Canh Thân 1800, Nguyễn Vương cùng Lê 
								Văn Duyệt đem binh ra cứu viện Quy Nhơn, dùng 
								hỏa công đánh tan thuỷ quân Tây Sơn tại cừa Thị 
								Nại.  
								 
								Sau chiến thắng Thị Nại, 
								Nguyễn Vương theo lời khuyên của Lê Văn Duyệt y 
								theo kế của Vơ Tánh ra đánh Phú Xuân. Lê Văn 
								Duỵệt và Lê Chất điều khiển thủy quân tiền phong 
								cả thắng, bắt được Pḥ Mă Trị và hơn 500 tù binh 
								và do cửa Thuận An thẳng tiến đến kinh thành Huế. 
								Sáng ngày 3 tháng 5, Tân Dậu 1801, Vua Cảnh 
								Thịnh Nguyễn Quang Toản của Tây Sơn rời Phú Xuân 
								chạy a Bắc Hà . Vào chiều cùng ngày, chúa Nguyễn 
								Phúc Ánh bước lên bờ sông Hương sau 6 năm lưu 
								lạc.  
								 
								Sau đó. Lê Văn Duyệt được 
								vua đặc biệt ban thưởng một chiếc trống trận và 
								cờ trận để tăng uy điều khiển ba quân cùng Lê 
								Chất, Tống Viết Phước đâ phá quân Tây Sơn, từ 
								cửa biển Mỹ ư tấn công bất thần, đại thắng quân 
								Tây Son tiến và ra B́nh Định khắc phục được 
								thành này năm 1802.  
								 
								Lê Văn Duyệt được phong 
								tước Quận Công tháng 5 năm Nhâm Tuất. Lại được 
								thăng Khâm Sai Chưởng Ta quân dinh B́nh Tây 
								Tướng Quân cùng Lê Chất tiền phong đánh Bắc Hà 
								đến tháng 10 th́ thâu phục được thành và đổi tên 
								là Bắc Thành rồi ban sư.  
								 
								Từ năm 1803 đến 1808, Lê 
								Văn Duyệt 3 lần lănh sứ mạng dẹp giặc Thượng 
								H'Re, có lần đóng quân tại Trà Khúc.  
								 
								Năm Gia Long thứ 11 
								(1812), Lê Văn Duyệt vâng chỉ vào tuần văng 
								Quảng Ngăi, sau đó được vua triệu về lănh chức 
								Tổng Trấn Gia Định giao tùy nghi giải quyết vụ 
								Xiêm La và Chân Lạp.  
								 
								Năm 1813, Lê Văn Duyệt dẫn 
								13.000 quân theo đường biển đưa vua Chân Lạp Nặc 
								Ông về cố đô La Bích, sai quân đắp dùm vua Chân 
								Lạp kinh thành Nam Vang vừng chắc để pḥng thủ. 
								Sau khi an định, Lê Văn Duyệt lưu Nguyễn Văn 
								Thoại thống lĩnh 1.000 quân ở lại giúp vua Chân 
								lạp.  
								 
								Năm 1815, Lê Văn Duyệt 
								phụng chỉ về triều lănh sứ mạng - dẹp giặc 
								Thượng H'Re lần thứ tư. Sau khi b́nh định ông 
								cho đắp trường lũy chạy dài suốt từ huyện Hà 
								Đông (Tam Kỳ) qua Quảng Ngăi đến Bồng Sơn (B́nh 
								Định). Sau đó cùng Lễ Bộ Thượng Thư Phạm Đăng 
								Hưng đồng thọ Cổ Mạng (Di Chiếu của vua) ủy cho 
								ông gồm coi 5 đạo quân cơ thuộc đạo Thần Sách 
								quân.  
								 
								Năm Minh Mạng nguyên niên 
								(1820), Lê Văn Duyệt lại phụng mạng lănh chức 
								Gia Định Tổng Trấn dẹp giặc yên Cao Miên. Lấy cớ 
								bảo hộ Cao Miên và đề pḥng sự xâm lấn của Xiêm 
								La, ông cho sửa đắp con đường từ Sai G̣n lên G̣ 
								Dầu, Tây Ninh cho lục quân dễ dàng di chuyển đến 
								biên giới Xiêm La; đường biển th́ cho đào kinh 
								Vĩnh Tế từ Châu đốc qua Hà Tiên để thùy quân để 
								dàng vận chuyển. Dự định đánh Xiêm la chưa thành 
								th́ ông lâm trọng bệnh phải đem quân trở về Gia 
								Định.  
								 
								Năm 1824 và 1831, ông đă 
								hai lần dâng sớ xin từ chức nhưng vua Minh Mạng 
								không nhận lời. Cho đến đêm 30 tháng 7 Nhâm Th́n 
								(1832) ông từ trần tại Trấn thành hưởng thọ 69 
								tuổi  
								 
								Là một người có đại công 
								với nhà Nguyễn nhưng lúc nào ông cũng một ḷng 
								cương trực liêm chính, trung thành đặt quyền lợi 
								đất nước lên trên tất cả Đă có lần ông xử tử 
								Huỳnh Văn Lư, phó Tổng Trấn thành Gia Định về 
								tội tham tàn, sách nhiễu dân chúng, mặc dầu Lư 
								có con gái là sũng phi của vua Minh Mạng. 
								 
								 
								Ông cũng là một nhà ngoại 
								giao tài ba giúp Cao Miên, Ai Lao không bị quân 
								Xiêm La thôn tính. Ông cũng được sự nễ phục của 
								những người Anh Cát Lợi và Mỹ đầu tiên đặt chân 
								đến Việt Nam.  
								 
								Lăng của ông đặt tại Quận 
								B́nh Thạnh, TP HCM và đó là nơi được nhiều người 
								đến hành lễ hàng năm vào dịp đầu xuân. 
								 
								 
								(Theo Non nước Xứ Quảng) 
							
							
								__________________ 
							 |