|
Đờn ca tài tử T́m hiểu Nhạc thính pḥng Việt Nam
Nhạc thính
pḥng là một thể loại nhạc gồm các bài hát hoặc bản đàn được biểu diễn trong
pḥng khách tại tư gia hay trong một pḥng nhỏ. Nhạc thính pḥng Tây phương bắt
đầu xuất hiện vào thế kỷ thứ 16 ở châu Âu, đặc biệt là ở Ư và Anh, do những nhóm
nhỏ các nhạc sĩ, ca sĩ chuyên tŕnh bày các bài hát [1] rồi sau đó được phổ biến
và phát triển tới việc tŕnh tấu các bản đàn. Tại Việt Nam, từ thế kỷ thứ 10,
dưới các triều vua Lê và Đinh đă xuất hiện những buổi ca múa trong cung đ́nh,
đền miếu, hoặc hội họp tại tư thất các quan tướng. Chính h́nh thức ca múa này đă
làm nền tảng cho âm nhạc “thính pḥng” Việt Nam ngày nay [2].
Những ban nhạc
lễ nhỏ gọn như vậy c̣n có tên gọi là
nhóm đờn cây.
Kể từ năm 1885 trở về sau, các nhóm đờn cây này được gọi là
ban đờn ca tài
tử
để phân biệt với các ban nhạc lễ và nhạc hát bội đang thịnh hành song song [6] .
Một điểm khác biệt khác giữa
nhạc tài tử
và
nhạc lễ
là sự có mặt của ca sĩ. Do vậy ngoài việc ḥa đàn với nhau, ban nhạc tài tử c̣n
tham gia việc đệm đàn cho ca hát [7] . Mặt khác, các ban nhạc tài tử dần dần
không đàn cho đám tang nữa, trừ những trường hợp rất đặc biệt. Đối tượng phục vụ
mới là những đám vui như đám ăn tân gia, đám cưới nhà giàu, đám thăng quan tiến
chức, hoặc đám giỗ lớn [8] .
Các nghệ nhân
này là những nhà tiên phong trong những cố gắng biên soạn, sáng tác và giảng dạy
nhạc tài tử theo phong cách riêng của ḿnh. Các ấn bản nhạc tài tử bắt đầu xuất
hiện vào năm 1909. Riêng trong những thập niên 60 và 70, nhạc tài tử được các
hăng đĩa phát hành rộng răi trong và ngoài nước như hăng Béka, Ocora, Pathé,
Việt Hải, Hồng Hoa, Marconi, và Odéon..v.v.. Từ đó nhiều danh ca, danh cầm được
nhiều người biết đến. Tuy nhiên, ít thấy có những trường hợp đưa nhạc tài tử lên
sân khấu tŕnh diễn như thể loại âm nhạc thính pḥng phương Tây[9] .
Khi biểu diễn
nhạc
tài tử,
các nghệ sĩ thường chú trọng đến sự kết hợp của các nhạc cụ có âm sắc khác nhau;
ít thấy có sự kết hợp giữa các nhạc cụ cùng âm sắc. Thường thấy nhất là song tấu
đàn ḱm và đàn tranh - là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng sắt - mà giới chuyên
môn gọi là
sắt cầm hảo
hiệp;
hoặc tam tấu đàn
ḱm-tranh-c̣,
ḱm-tranh-độc huyền, tranh-c̣-độc huyền
với từ chuyên môn là
tam chi liên
hoàn pháp
[11] . Nếu một ban nhạc có 3 nhạc công và 1 ca sĩ th́ được gọi là ban
tứ tuyệt,
nếu có 4 nhạc công và 1 ca sĩ th́ gọi là ban
ngũ tuyệt.
Các bài bản
phổ biến nhất trong nhạc tài tử là 20 bài bản tổ (c̣n gọi là
nhị thập huyền
tổ bản)
thuộc hai điệu Bắc và điệu Nam [14] . 20 bài bản tổ gồm có 7 bản lễ, 6 bản Bắc,
3 bản Nam và 4 bản Oán. Tương truyền rằng các bài bản này do ông Ba Đợi đúc kết
và được xem như là những bài căn bản cho những người bắt đầu bước vào lĩnh vực
nhạc tài tử. Một trong những bài bản nổi tiếng trong đờn ca tài tử là bản Dạ Cổ
Hoài Lang - nghĩa là đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng - do nhạc sĩ Cao Văn
Lầu tức Sáu Lầu ở Bạc Liêu sáng tác vào năm 1917 [15] . Dạ Cổ Hoài Lang là bài
hát được phát triển dựa trên bài Hành Vân của ca Huế. Lời ca của bài hát này
được sửa nhiều lần bởi các nghệ sĩ như cô Ba Vàm Lẻo, ông Nguyễn Tử Quang, ông
Trịnh Thiên Tư[16] và được nhiều người yêu thích. Về sau, Dạ Cổ Hoài Lang được
đổi tên là Vọng Cổ Hoài Lang, rồi được đơn giản hóa thành Vọng Cổ [17] . Từ năm
1945, ông Giáo Thinh tức Nguyễn Văn Thinh, một nhạc sư có uy tín tại Sài G̣n, đă
đúc kết và phổ biến một hệ thống mới gọi là 72 bài bản cổ nhạc miền Nam (c̣n gọi
là
thất thập nhị huyền công).
Theo đó, một nghệ nhân được công nhận là bậc thầy nếu biết hết 20 bài bản tổ; và
để đạt mức cao siêu hơn, nghệ nhân đó cần biết hết 72 bài bản này[18] .
Trong những
năm gần đây, chính quyền địa phương các tỉnh và huyện ở miền Nam đă cố gắng khôi
phục lại các lớp dạy đờn ca tài tử cũng như tổ chức các liên hoan đờn ca tài tử
cấp tỉnh hoặc liên tỉnh. Ở hải ngoại cũng đă và đang có nhiều cố gắng khôi phục
lại thể loại nhạc thính pḥng này của Việt Nam; nhưng hầu hết vẫn c̣n rời rạc và
thiếu sự bảo trợ về mặt tổ chức cũng như tài chánh v.v..
Mặc dù về mặt
thang âm điệu thức giữa âm nhạc cải lương [20] và âm nhạc của đờn ca tài tử
không có ranh giới rơ rệt [21] , nhưng với cùng một làn điệu, cùng một bản đàn,
lối ca và ḥa tấu nhạc tài tử có một số khác biệt với lối ca và ḥa tấu nhạc
trên sân khấu cải lương. Do không bị hạn chế vào việc diễn xuất và kịch bản sân
khấu, người nghệ sĩ của nhạc tài tử có nhiều thuận lợi hơn trong việc ứng tác và
chơi ngẫu hứng.
[1]Lloyd, Norman. 1968. The Golden Encyclopedia of Music. New York: Golden Press. [2]Nguyễn Thuyết Phong. 1998, Vietnam. Garland Encyclopedia, Volume 4. [3]Ibid. [4]Ibid. [5]Kiều Tấn. 2002. "Hệ thống bài bản nhạc tài tử Nam bộ". "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh" - Nhà xuất bản Trẻ. [6]Ibid [7]Thế Bảo. 2002. "Ḷng bản - Yếu tố mô h́nh trong âm nhạc truyền thống Việt Nam". Thông báo khoa học số 6. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Âm nhạc. [8]Lê Thị Dung. 2002. "Vài nét về nghệ thuật đờn ca tài tử ở thành phố Hồ Chí Minh". "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh"- Nhà xuất bản Trẻ. [9]Nguyễn Thị Mỹ Liêm. 2001. "Đôi điều suy nghĩ về cuộc liên hoan đờn ca tài tử Nam bộ năm 2001". Thông báo khoa học số 5. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Âm nhạc. [10]Nguyễn Thuyết Phong. 1998. Vietnam. Garland Encyclopedia, Volume 4. [11]Ibid. [12]Nguyễn Thị Mỹ Liêm. 2001."Đôi điều suy nghĩ về cuộc liên hoan đờn ca tài tử Nam bộ năm 2001". Thông báo khoa học số 5. Hà Nội: Viện Nghiên cứu Âm nhạc . [13]Đắc Nhẫn. 1987. "T́m hiểu âm nhạc cải lương" - Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh. [14]Kiều Tấn cho rằng hệ thống bài bản nhạc tài tử có thể chia thành hai hệ thống Bắc và Nam. Hệ thống bản Bắc gồm các điệu thức Bắc và Xuân; hệ thống bản Nam gồm các điệu thức Ai và Oán (Kiều Tấn: xem chú thích 5). [15]Trần Văn Khê và Nguyễn Thuyết Phong. 2001. "Việt Nam". The New Grove Dictionary of Music and Musicians, ed. S. Sadie and J. Tyrrell. London: Macmillan. Theo tài liệu "T́m hiểu nghệ thuật cầm ca Việt Nam" (Nhà xuất bản Đồng Tháp - 1996) tác giả Toan Ánh có trích dẫn bài viết của ông Nguyễn Tử Quang ("Thử t́m xuất xứ bài Vọng cổ") đăng trong Bách Khoa số 63 xuất bản ngày 15-8-1959 th́ bài Dạ Cổ Hoài Lang được viết vào năm 1920 và tác giả là nhà sư Nguyệt Chiếu ở Bạc Liêu. Theo tài liệu "Bản gốc Dạ Cổ Hoài Lang và các dị bản" in trong sách "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh" - Nhà xuất bản Trẻ - tác giả Trần Phước Thuận có ghi rơ rằng bài Dạ Cổ Hoài Lang được công bố vào đêm rằm tháng Tám âm lịch năm Mậu Ngọ (1918) tại Bạc Liêu. [16]Trần Phước Thuận. 2002. "Bản gốc Dạ Cổ Hoài Lang và các dị bản"."Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh" - Nhà xuất bản Trẻ. [17]Toan Ánh. 1996. "T́m hiểu nghệ thuật cầm ca Việt Nam" (Nhà xuất bản Đồng Tháp - 1996). [18]Kiều Tấn. 2002. "Hệ thống bài bản nhạc tài tử Nam bộ". "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh" - Nhà xuất bản Trẻ. [19]Lê Thị Dung. 2002. "Vài nét về nghệ thuật đờn ca tài tử ở thành phố Hồ Chí Minh". "Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh"- Nhà xuất bản Trẻ [20]Cải lương là một thể loại sân khấu truyền thống Việt Nam được phát triển từ sân khấu hát bội và nhạc tài tử. [21]Kiều Tấn. 1993. "T́m hiểu điệu thức trong âm nhạc tài tử Nam bộ". "Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam". Viện Văn Hóa Nghệ Thuật tại Tp. Hồ Chí Minh. Hoàng Việt Khanh |
Xin vui ḷng liên lạc với
haphuonghoai@gmail.com về tất cả
những ǵ liên quan đến trang web nầy
|