|   | 
    
     
    Khái niệm về Bản Sắc Văn Hóa 
    
     Huế đẹp, Huế thơ 
    
    Huế mơ, Huế mộng 
    
    Huế… tộng bộng hai đầu! 
    
    Bên cạnh một sự diễn đạt và mô tả „nghiêm 
    chỉnh“ cái dáng vẻ thơ mộng đáng yêu của Huế, bỗng có một một ư nghĩ mang 
    đầy hài tính „ngẵng“ (nghịch ngợm) hay „ba lơn“ (đùa cợt) rất… 
    kiểu Huế để nhận xét về Huế. 
    
    Thế nhưng đứng về mặt nhân văn thuần 
    túy th́ sự diễn đạt cái đẹp, cái thơ… chưa nói được một cá tính độc đáo nào 
    về Huế cả.  Bởi v́ không riêng Huế mà Hà Nội, Sài G̣n, Nha Trang, Đà Lạt, 
    Cần Thơ và nhiều nơi trên đất nước Việt Nam, hoặc xa hơn, những thành phố 
    khác khắp nơi trên thế giới cũng có thể có những nét chung chung „đẹp và thơ“ 
    như thế chứ chẳng riêng ǵ Huế.  Vậy mà bằng một cách nói b́nh dân rất họat 
    kê, dấy lên từ ư thức hay tiềm thức, cái… „tộng bộng hai đầu“ lại nói lên 
    được một trong những nét độc đáo của bản sắc văn hóa Huế. „Tộng bộng hai đầu“ 
    v́  ( nếp sống chắt chiu nhưng cầu kỳ và trang nhă trong cái nghèo của Huế; 
    (2) hiếu khách và hiếu học: Huế mở rộng tấm ḷng, mở rộng trí óc, mở rộng 
    cửa nhà, phường xóm để đón bạn bè, đón sĩ tử, đón tư tưởng Đông Tây Từ Bắc 
    vào Nam, từ Nam  ra Bắc; (3) Huế rất khép kín trong điệu sống (sợ khen chê, 
    sợ vạch áo cho người xem lưng) nhưng lại rất nhạy cảm và nhạy bén đối diện, 
    chắt lọc mà lại dễ dàng thỏa hiệp với cái mới, cái lạ, cái khác biệt trong 
    đời sống. 
    
    Là một dải đất hẹp như cái ṿng eo nằm 
    giữa hai miền đất nước, nếu Huế không „tộng bộng hai đầu“ để đón nhận và giữ 
    được thế quân b́nh giữa nhiều lực kéo từ khác nhau đến đối kháng, Huế hôm 
    nay có thoát khỏi số phận của Châu Ô, châu Rí (Lư) một thời của Chiêm Quốc 
    hay không?!  
    
    Khi nói về văn hóa, những học giả cổ 
    điển sính chữ thích tầm nguyên hay dành một khái niềm quá bao quát và lớn 
    lao cho h́nh tượng văn hóa như:  Văn hóa Tiền sử, văn hóa Trung cổ, văn hóa 
    Ấn Hà, văn hóa Đông Sơn… Nhưng càng về sau nầy, khi mức độ chuyên môn hóa 
    càng cao th́ khái niệm văn hóa càng được giới hạn trong những phạm vi cụ thể 
    và rơ ràng hơn.  Một lọat các nhà nghiên cứu văn hóa thời danh cuối thế kỷ 
    20 đă xem văn hóa như là „Lối nghĩ, lối sống của một nhóm người trong một 
    khung cảnh xă hội nào đó.“ Phải chăng, sự tinh tế và phong phú của tri 
    thức nhân lọai đă giúp người ta không cảm thấy hụt hẫng khi nói đến những 
    mảng văn hóa độc đáo mà một thế hệ đă quen với „định đề văn hóa“ không thể 
    nào chấp nhận được.  Ví dụ như văn hóa Nghị trường, văn hóa Chính khách, Văn 
    hóa Hippy, văn hoá Jazz, văn hóa Rap, văn hóa Cơm bụi, văn hoá Tây ba-lô“ và 
    vô số khái niệm văn hóa trong nhiều khung cảnh và lĩnh vực chuyên biệt. 
    
    Trong một bối cảnh nhân văn mang tính 
    toàn cầu và quy ước như thế, sự hiện diện của một h́nh thái văn hóa địa 
    phương như văn hóa Huế, văn hóa Sài G̣n, văn hóa Hà Nội trong bối cảnh văn 
    hóa Việt Nam, văn hoá Á Châu… sẽ không c̣n là một vấn đề „khả hữu, có chăng“ 
    nữa mà là một thực tại tất yếu. 
    
    Như thế, vấn đề c̣n lại là xác định, 
    là nhận diện cho được những tính chất riêng biệt và độc đáo của mỗi cụm, mỗi 
    nhóm, mỗi vùng và mỗi miền văn hóa. 
    
      
    
    Đôi nét điển h́nh trong Bản sắc 
    văn hóa Huế. 
    
      
    
    Để xác định đôi nét tiêu về bản sắc 
    (identity ( ) của văn hóa Huế, hay nói một cách nôm na là cái „Chất Huế“, 
    trước hết thử đặt một cái nh́n khái quát về Huế (2) .  Huế là ai, Huế ở đâu, 
    Huế có cái ǵ đáng nói? 
    
    Vào thế kỷ XIII, sông Thạch Hăn (Quảng 
    Trị) từ thượng nguồn đổ ra Cửa Việt là biên giới thiên nhiên  của hai nước 
    Đại Việt và Chiêm Thành. Có nhiều giai đoạn chiến tranh và ḥa b́nh xảy ra 
    giữa hai nước Việt và Chiêm. Lực lượng Chiêm Thành lúc bấy giờ do vua Chiêm 
    là Chế Mân thống lĩnh. Chế Mân tức Thái tử Bổ Đích (Harijit) là con của quốc 
    vương Indravarman.  V́ vua cha đă quá già yếu , Chế Mân lên kế vị. Mối giao 
    hảo giữa hai nước Việt - Chiêm được cải thiện v́ lực lượng quân sự của cả 
    hai nước đă mấy lần phối hợp chống họa xâm lăng từ phía Bắc của quân Nguyên 
    tràn xuống xâm lăng. 
    
                Năm1301, vua Trần Nhân Tôn 
    nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tôn và trong lần viếng thăm Chiêm Thành,  
    thái thượng hoàng Trần Nhân Tôn đă gặp Chế Mân. Vua Trần Nhân Tôn, rất có 
    thể v́ cảm phục sự anh tuấn của chế Mân trong cuộc chiến chống quân Nguyên, 
    đă hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Năm 1306, Chế Mân sai sứ giả 
    mang châu báu, vàng bạc ra kinh đô Đại Việt xin cưới công chúa Huyền Trân 
    nhưng vua Trần Anh Tông cùng triều thần do dự không chịu gả. Sau đó Chế Mân 
    lại xin dâng đất hai châu Ô và châu Rí làm sính lễ nên nhà Trần lúc bấy giờ 
    mới chấp thuận lời cầu hôn.  Mùa Hè năm 1306, vua Anh Tôn tổ chức một phái 
    đoàn đưa tiễn công chúa Huyền Trân về Chiêm Quốc.  Đến cửa biển Ô Long, tức 
    là cửa biển Thuận An bây giờ, vua cho đổi tên là Tư Dung (tức là dung mạo 
    đẹp đẽ, đoan trang của người con gái) . Từ thời điểm này Huế chính thức nhập 
    vào giang sơn Việt Nam. Nhưng cuộc t́nh Việt Chiêm của Chế Mân và Huyền Trân 
    không kéo dài được lâu.  Chỉ một năm sau, 1307,  Chế Mân chết.  Theo nghi 
    thức cổ truyền của Chiêm Thành th́ hoàng hậu cũng phải lên dàn hỏa để thiêu 
    sống theo vua. Vua Trần Anh Tôn đă cho Trần Khắc Chung, tương truyền làø 
    người t́nh cũ của công chúa Huyền Trân , đem vệ binh vào kinh đô Chiêm Thành, 
    dùng  mưu kế cứu được công chúa đưa về Bắc.  Sau đó Huyền Trân đă đi tu giữa 
    tuổi thanh xuân cho hết cả quảng đời c̣n lại 
    
    Năm 1558 giữa lúc cuộc chiến tranh Lê 
    - Mạc xảy ra, triều đ́nh nhà Lê lâm vào cảnh thoái trào: Chúa chiếm quyền 
    vua. Sau khi Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết chết, người em là Nguyễn Hoàng 
    xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa để giữ ḿnh và nuôi chí lớn.  Nguyễn Hoàng mở 
    mang khai khẩn xứ Đàng Trong thành một giang sơn riêng.  Các chúa Nguyễn 
    thay nhau trị v́ xứ Đàng Trong từ đó cho đến khi Nguyễn Ánh thắng cuộc binh 
    đao tranh hùng với Tây Sơn ṛng ră 20 năm và lên làm vua lấy hiệu là Gia 
    Long (1802-1820). 
    
                Hai châu Ô và Lư c̣n được 
    mang tên là Thuận châu và Hóa châu, từ đó có tên là Thuận Hóa về sau cũng 
    vốn là đất đai tranh chấp giữa hai dân tộc Chiêm Việt do những chạm trán và 
    thù hận giữa hai bên.  Nguyễn Hoàng đă biến đất từ phía nam Đèo Ngang trở 
    vào, mà căn cứ địa là Huế, thành một nơi "vạn đại dung thân". Lúc đầu các 
    chúa Nguyễn đóng đô ở Ái Tử (1558- 1570), sau dời sang ở Trà Bát (1570- 
    1600), rồi Dinh Cát (1600- 1687), Phước yên (1626- 1636). Từ năm 1636 đến 
    1687, phủ chúa Nguyễn đặt ở Kim Long rồi sau đó dời về Phú Xuân. Từ năm 
    1653, giáo sĩ  Đắc-Lộ đă dùng từ „Kẻ Huế“ để nói về nơi đặt thủ phủ của các 
    chúa Nguyễn. Tất cả công tŕnh xây dựng Đàng Trong của các chúa Nguyễn khởi 
    đi từ Huế. 
    
    Tiền thân của Huế là Thuận Hóa - Phú 
    Xuân.  „Huế“ là cách đọc trại ra từ chữ „Hóa“. Tuy thành Phú Xuân được xây 
    dựng từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát vừa mới lên nối ngôi năm 1738, nhưng hơn 
    một nửa thế kỷ lọan lạc, thay ngôi đổi chủ liên miên, văn hóa chưa có điều 
    kiện định h́nh. 
    
    Năm 1802 Nguyễn Ánh chiến thắng Tây 
    Sơn lên làm vua lấy hiệu là Gia Long, chọn Huế làm kinh đô.  Giai đọan nầy 
    chính là thời kỳ Huế được xây dựng thành một kinh đô bề thế với nhiều công 
    tŕnh kiến trúc tráng lệ, mang tính dân tộc và nghệ thuật cao.  Gần 150 năm 
    trị v́ với 13 đời vua của triều Nguyễn, Huế trở thành đất „thần kinh văn vật“ 
    trong khung cảnh thiên nhiên sông núi hữu t́nh. 
    
                Từ phía Tây bán cầu, sau 
    một ngày của múi giờ sáng tối, nh́n về Việt Nam, ngó về Huế có thấy Huế rơ 
    hơn khi c̣n ở trong Huế hay không? 
    
                Về mặt di dân và ngụ cư, 
    Huế cũng có nét hao hao giống Mỹ.  Người Huế và người Mỹ đều không phải là 
    người bản địa mà là dân di cư và nhập cư.  Người Huế từ Đàng Ngoài theo chân 
    chúa Nguyễn vào Nam, đẩy người Chiêm Thành ra khỏi đất gốc của họ. Cũng vậy, 
    người da trắng từ châu Âu vượt đại dương vào châu Mỹ, đẩy người da đỏ vào 
    rừng sâu.  Quá tŕnh khai phá đất mới cũng đồng thời với quá tŕnh xây dựng 
    một bản sắc văn hóa mới.  Cái khác giữa hai bối cảnh của Ta và Người là đất 
    cũ Chiêm Thành là dăi đất hẹp, núi ăn ra tận biển trong cảnh thiên nhiên non 
    xanh nước biếc; trong khi châu Mỹ là vùng đất vạm vỡ bạt ngàn. Người Chàm 
    thiên về ca múa với những điệu Hời buồn năo nuột, lặng lẽ rút lui dần trước 
    sự xâm lấn của lớp người mới đến; trong lúc người Da Đỏ thiên về chiến đấu 
    với tiếng tù và xung trận của tù trưởng, chỉ rút lui khi thua trận trên 
    chiến trường đă ngập tràn máu lệ.  Chính bối cảnh lịch sử và xă hội thời „dựng 
    nước“ đóng vai tṛ quyết định cho bản sắc văn hóa về sau nầy.  
    
                Khác với bản năng xông xáo 
    với tinh thần quyết đấu của người Mỹ ứng phó quyết liệt với người da đỏ tại 
    châu Mỹ, lớp người Huế tiền phong đối diện với một thế giới Chiêm Thành 
    huyền bí.  Cái thua và cái thắng; cái được và cái mất không tính theo những 
    giá trị rạch ṛi quy ước đầy lư tính.  Do đó, từ bản chất, văn hoá Huế tiềm 
    tàng giá trị phi vật thể.  Người Huế mang nét trầm lặng, u buồn và hoài cổ.  
    Nét buồn của Huế dịu và trầm như thoáng hương xưa khơi lên từ ḷng đất chôn 
    dấu những ḥai niệm và toát ra từ thiên nhiên kỳ tú trong sương khói.  Cái 
    buồn trong cung cách sống cũng như trong cảm nhận nghệ thuật của Huế „buồn“ 
    nhưng không „trệ“, nghĩa là nét phù trầm của tâm hồn không đồng nghĩa với sự 
    đau thương và tuyệt vọng của người theo cỗ xe tang như một số tác giả đă 
    nh́n Huế. 
    
    Trong nghệ thuật và cảm quan th́ Huế 
    vương mang nét lắng đọng và u trầm như vậy, nhưng trong đời thường th́ người 
    Huế lại rất xông xáo và thực tế.  Nh́n vào bức tranh hiện thực của những 
    người Huế đang ở quê nhà hay lập nghiệp xa quê, nhất là người Huế di tản ra 
    nước ngoài sau năm 1975, th́ sẽ thấy rơ ràng tinh thần vừa lạc quan, mơ mộng, 
    hài hước (theo cái ngẵng và cái ba lơn truyền đời của Huế) hoà quyện với 
    tinh thần thực dụng phương Tây trước hiện thực của đời sống.  Người Huế vừa 
    chịu thương chịu khó „ham việc tiếc công“ của con nhà nghèo trong hiện tại, 
    vừa cố vươn lên cho một mơ ước „áo gấm về làng“ hơn là h́nh ảnh: „Người 
    Huế buồn trong lúc thế gian vui…“  quá ảm đạm như tác giả Lê Văn Lân, 
    một nhà văn rất yêu Huế, từng lên tiếng quan ngại về một trạng thái „Tâm Lư 
    Huế“ đau thương vô hạn kỳ v́ phải gánh chịu tai trời ách nước triền  miên 
    của con người xứ Huế! 
    
                Lịch sử h́nh thành văn hóa 
    Huế đi song song với lịch sử „Chín chúa mười ba vua“ kéo dài từ 1558 đến 
    1945 của Nguyễn Triều.  Suốt 387 năm để h́nh thành một nền văn hóa cung đ́nh 
    Triều Nguyễn, kết hợp với văn hóa dân gian mà tạo thành văn hóa Huế.  Bản 
    sắc của nền văn hóa Huế mang đậm nét văn hóa cung đ́nh và văn hóa đại chúng 
    b́nh dân Việt Nam. Bởi thế, trong cái xuề x̣a „tộng bộng hai đầu“ của Huế 
    lại ẩn chứa vẻ kín đáo thâm cung và nét trang đài và quư phái của cung đ́nh.  
    Bản chất cung đ́nh và lề thói b́nh dân không bao giờ hoà hợp và trộn lẫn 
    nhau nên Huế thiếu một sự „trung b́nh cộng“ như trắng trộn đỏ thành mầu hồng. 
    Chính đây là nguồn gốc sâu xa của một trạng thái tâm lư mâu thuẫn đi t́m cái 
    „góc khuất bên kia“  không bao giờ có của Huế. Tâm lư Huế là nghèo mà 
    sang, vui mà vẫn man mác buồn, sống hiện tại mà vẫn thiết tha về quá khứ nên 
    hiện tượng „Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên“ rất phổ biến trong tâm t́nh người 
    Huế. 
    
                 
    
    Hăy gói một Thừa Thiên vào trong 
    Huế 
    
      
    
    Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và xă hội 
    của Thừa Thiên-Huế rất khác với Quảng Nam-Đà Nẵng và Sài 
    G̣n-Gia Định. Trong quá tŕnh lịch sử kể từ thời khởi thủy của Huế 
    th́ Huế đồng nghĩa với Thuận Hóa nên trong Huế đă có Thừa Thiên. 
    Ngược lại, trong Đà Nẵng không có Quảng Nam và trong Gia Định không có 
    Sài G̣n.  Do đó, việc xóa bỏ sự phân định và phân biệt danh xưng „Thừa 
    Thiên-Huế“ như là hai địa bàn riêng biệt để chỉ c̣n lại một danh xưng thống 
    nhất: „Huế“ cho dăi đất từ đèo Hải Vân ra đến sông Mỹ Chánh là một việc làm 
    vừa hợp lư về mặt lịch sử và văn hóa; vừa hợp t́nh về mặt tâm lư và t́nh cảm. 
    
    Về phương diện địa dư và hành chánh, 
    Huế là thị xă của tỉnh Thừa Thiên.  Thừa Thiên có 8 quận (hay huyện): Phong 
    Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới, Nam Đông.  
    Có Thể chia Thừa Thiên ra làm 3 vùng văn hóa chính: Văn hóa nông nghiệp, văn 
    hóa ngư nghiệp và văn hóa nương rẫy. Từ cách sống, cách ăn, cách mặc, cách 
    nói, cách vui chơi hội hè đ́nh đám th́ cả ba vùng văn hóa Thừa Thiên có rất 
    nhiều điểm chung, điển h́nh cho tính đại chúng của nền văn hoá làng xă Việt 
    Nam. 
    
    Nếu chỉ đứng về mặt địa lư và cấu trúc 
    thuần túy th́ sự xác định biên giới của Huế phải đi từ nhỏ đến lớn: Đại Nội 
    là giang sơn riêng của vua và triều đ́nh gồm Hoàng thành và Tử cấm thành.  
    Thành Nội là phần đất nằm trong phạm vi Kinh thành  Huế bốn mặt thành giới 
    hạn bởi cửa Đông Ba,  cửa Chánh Tây, cửa Thượng Tứ, cửa Ngăn, cửa Hữu, cửa 
    An Hoà… và cộng thêm dăi đất hẹp bao quanh Thành Nội mỗi bề từ 4 đến 7 cây 
    số thường được xem là Thành Phố Huế.  Từ cửa Ngọ Môn được coi như là trung 
    tâm thành phố Huế, chỉ cần đi bộ khoảng một giờ đồng hồ tối đa là có thể đến 
    một trong các „cột mốc“ cuối cùng của Thành Phố Huế như: An Hoà, Bao Vinh, 
    Băi Dâu, Đập Đá, An Cựu, An Lăng, Long Thọ, Văn Thánh.  Qua khỏi lằn ranh 
    nầy là địa bàn thuộc về làng xă, quận huyện Thừa Thiên. 
    
    Người ở trong nội vi của thành Phố Huế 
    thường tự coi ḿnh là người Huế, c̣n người ở các vùng ngoài Huế là dân ruộng, 
    dân biển, dân phường. Hay thậm chí là „dân nhà quê“!  Ngược lại th́ người 
    làng quanh Huế cũng tự coi ḿnh là „dân Quê“ để phân biệt với người ở Huế là 
    „dân Phố“, dân Dinh…!   
    
    Với người ngoài Huế th́ Thừa Thiên hay 
    Huế đều là Huế.  Trong lĩnh vực địa lư và chính trị nội bộ địa phương th́ có 
    Thừa Thiên và Huế nhưng trong lĩnh vực nhân văn và nhân chủng th́ không có 
    sự phân biệt gữa Thừa Thiên và Huế.  Trên bản đồ chỉ thấy Hà Nội, Huế, Sài 
    G̣n.  Biên giới nhân văn của Huế được xác định rằng: Đông giáp Biển Đông, 
    Tây giáp Trường Sơn, Bắc giáp sông Mỹ Chánh, Nam giáp đèo Hải Vân.  Không có 
    người nào là người Thừa Thiên và cũng không có văn hóa nào là văn hóa Thừa 
    Thiên mà chỉ có NGƯỜI HUẾ và VĂN HOÁ HUẾ.  Người Huế ở thành phố hay ở các 
    quận huyện đều tự nhận diện ḿnh là NGƯỜI HUẾ - Có thể thêm chi tiết phụ là  
    người Huế ở vùng nào - chứ không một người Huế nào nói với một người xứ khác 
    rằng: „Tôi là người Thừa Thiên“.  Cũng thế, khi ra nước ngoài, người Việt tự 
    nhận diện ḿnh là „người Việt Nam“ chứ không ai đi nói với một người Mỹ, 
    người Nga rằng: „Tôi là người làng Hương Cần“; hay „Tôi là người Huế“ cả! 
    
    Trong quá khứ đă thành nếp cũ, về mặt 
    tâm lư, sự phân biệt Thừa Thiên và Huế,  vô h́nh chung đồng nghĩa với sự 
    phân biệt „Nhà Quê“ và Thành Phố.  Sự phân biệt nầy là một cách nói khác của 
    khái niệm „quê mùa lạc hậu“ đối với „phố phường văn minh“!   
    
    Do hoàn cảnh lịch sử có sự xung đột 
    gay gắt cộng với nhu cầu chiến thuật và chiến lược, sự phân ranh Thừa Thiên 
    và Huế được thiết lập v́ lư do hành chánh, quân sự nội tại của nó.  Cũng như 
    v́ đời sống kinh tế khó khăn, mạng lưới giáo dục hạn chế, môi trường truyền 
    thông lạc hậu và ngăn cách nên sự phân biệt QUÊ và TỈNH đă tồn tại trong 
    suốt một chiều dài -  khá dài - của lịch sử. 
    
    Tuy nhiên, trên thực tế th́ xương sống 
    và linh hồn của „văn minh“ và văn hóa Huế lại nằm ở địa bàn Thừa Thiên.
     
    
    Thử nh́n vào thực tế: 
    
    Sông Hương, con sông như mái tóc mây 
    của Huế, từ nguồn đến biển quấn quít với Thừa Thiên, chỉ có một đọan rất 
    ngắn chảy qua ḷng thành phố Huế. Sông Bồ, sông Truồi, núi Kim Phụng, núi 
    Thiên Thai, núi Truồi, đèo Hải Vân, biển Cảnh Dương, cửa Tư Dung, phá Tam 
    Giang, đồi Thiên An, đồi Vọng Cảnh… là cảnh quang thiên nhiên làm nên xứ Huế 
    cũng đều ở địa bàn Thừa Thiên.  Cho đến lăng tẩm, đền đài, chùa chiền làm 
    nền móng nhân văn và làm phong phú cho vẻ đẹp của Huế cũng thuộc về Thừa 
    Thiên. Những món ăn tạo nên phong vị độc đáo nhất của Huế, những nghề nghiệp 
    tạo nên phong thái kinh tế riêng bịêt của Huế cũng ở các làng quanh Huế.  Và 
    cốt lơi là con người xứ Huế, ngoại trừ ḍng dơi vua chúa nhà Nguyễn tự nhận 
    chánh quán của ḿnh là „Gia Miêu, Ngoại Trang, Thanh Hoá“ c̣n hầu như tất cả 
    dân cư trong thành phố Huế đều có chánh quán của ḿnh là các làng xă Thừa 
    Thiên. 
    
    Sao lại không nh́n Huế như một cành 
    cây cổ thụ mà Thừa Thiên là nhánh cây và thành phố Huế đóa hoa đẹp nhất.  
    Nhánh và hoa chưa đủ thành cây.  Cho nên, cái danh xưng „kép“ THỪA THIÊN HUẾ 
    chẳng những không nói lên được một h́nh ảnh của toàn cảnh xứ Huế đúng nghĩa, 
    mà c̣n biểu tỏ một khuynh hướng gọi tên có tính cách giới hạn địa phương, 
    tiện dụng hành chính mà không quan tâm đến giá trị lịch sử và tâm lư „chắt 
    chiu tự hào“ của người dân Huế. 
    
    Với đà tiến hóa chung về mọi măt của 
    đời sống ngày nay, người Huế nói chung khi đến định cư tại các nước Phương 
    Tây hay ngay tại những địa phương bên ngoài Thừa Thiên Huế th́ cái biên giới 
    „nhà quê“ và „thành phố“ hoàn toàn không có lư do tồn tại.  Ba tiêu chuẩn 
    chính thường được dùng để phân biệt giữa „quê“ và „tỉnh“ là: Kinh tế, học 
    vấn và lối sống.  Các tiêu chí phân định đó đă bị thực tế vô hiệu hóa v́ ra 
    khỏi Huế, đặc biệt là ở Mỹ, những người Huế xuất thân từ các vùng địa lư 
    Thừa Thiên không c̣n ở thế yếu kém về kinh tế, thế thấp hơn về học vấn và 
    thế lam lũ hơn về lối sống so với người Huế xuất thân từ thành phố Huế như 
    thời kỳ xưa cũ trên quê hương. 
    
    Do đó, trong lĩnh vực văn hóa, nghệ 
    thuật, tâm lư, giáo dục và sinh hoạt hội hè, hội đoàn và thân hữu, danh xưng 
    nối kết „Thừa Thiên Huế“ có thể tạo ra  một tác dụng ngược lại, hàm 
    chứa mặc cảm chia rẽ về cả thể và cả tính.  Nhận xét của ông Tôn Thất Đường 
    trong Báo Nhớ Huế, hội Huế Orleans, Xuân Giáp Thân 2004 là một nhận định rất 
    thẵng thắn, trong năm qua đă được nhiều hội Huế cũng như đồng hương Huế và 
    thân hữu ở các nước ngoài đồng t́nh ủng hộ: „ Trong sinh hoạt cộng đồng 
    thiên về t́nh cảm  tương thân tương ái của Đồng hương Huế và Thân hữu, duy 
    tŕ cụm từ „THỪA THIÊN HUẾ“ là duy tŕ một năo trạng tiêu cực, một lề 
    thói đối xử phân biệt đă lỗi thời và lạc hậu.  Nó gây ra tâm lư kỳ thị, chia 
    rẽ và mặc cảm hơn kém giữa nhà quê và thành phố hoàn toàn không đúng đắn.  
    Ngoài ra nó c̣n bất chấp một hiện trạng đă bị thực tế bác bỏ và vượt qua từ 
    lâu.  Đó là sự thành công và chất lượng cuộc sống của người Huế hiện nay tùy 
    thuộc vào tài năng, sức phấn đấu và bản chất của mỗi  con người chứ không 
    phụ thuộc vào gốc gác là Thừa Thiên hay Huế…“ (Sđd. Tr. 72) 
    
    Đấy cũng là nhận định của một người 
    Huế tha hương, nhưng vẫn nặng ḷng với Huế đáng làm cho chúng ta suy nghĩ. 
    
      
    
    Hội Huế  
    
      
    
    Sau gần 30 năm người Việt thật sự ra 
    khỏi cái „rốn“ của ḿnh để đến định cư tại một nước khác, tiếp cận với nhiều 
    giống dân khác trên thế giới, người ta mới có dịp nhận ra ḿnh rơ hơn là khi 
    c̣n ở quê nhà… nhất mẹ nh́ con!  Với một nền văn hóa truyền thống nông 
    nghiệp và làng xă quây quần sau lũy tre xanh và trong phạm vi ruộng đồng, 
    kinh rạch quê ḿnh, ngay người Việt sinh sống truyền đời trên vùng đất nầy 
    cũng rất ít có cơ hội tiếp xúc với vùng kia. Rất nhiều người Việt trên ba 
    vùng Bắc, Trung, Nam chờ  măi đến khi định cư tại một địa phương nào đó ở 
    nước ngoài mới có cơ hội lần đầu tiên gặp người khác miền, khác xứ. 
    
    Nhận ra ḿnh, nhận ra người, t́m đến 
    nhau như một chỗ dựa tinh thần là động lực đầu tiên của quá tŕnh lập hội.  
    Hội đoàn là một chỗ dựa t́nh cảm  của những người cùng hoàn cảnh xuất thân, 
    cùng chia sẻ một môi trường tương tự về văn hóa và ngôn ngữ.  Cho nên suốt 
    30 năm qua, trong khung cảnh tự do lập hội ở các nước ngoài, các đoàn thể 
    người Việt đă trải qua một mùa „bội thu“ về số lượng các hội đoàn đă xuất 
    hiện.  Và cũng v́ „bội thu“ nên cũng rất dễ dàng „lạm phát“.  Bên cạnh những 
    hội đoàn có đầy đủ tư cách pháp lư và nhân sự th́ cũng đă có nhiều đoàn thể 
    „tưng bừng khai trương và âm thầm đóng cửa“ . 
    
    Các hội đoàn liên quan đến Huế cũng 
    không tránh ra khỏi trào lưu chung vào thời kỳ đầu mới định cư tại nước 
    ngoài. Tuy nhiên, với thời gian đi qua, sự gạn lọc tự nhiên đă đă giữ lại 
    những hội nhóm có thực chất, có thực lực và xóa tên dần những hội đoàn có 
    danh mà không có thực.   
    
    Theo Bùi Đ́nh Thiện trong Ban Liên Lạc 
    Đồng Hương Huế tại Hải Ngoại th́  hiện nay những Hội Đoàn liên quan đến Huế 
    ở nước ngoài có lịch sử hoạt động từ 10 đến 20 năm theo con số ước định là: 
    Mỹ (27), Canada (8), Úc Châu (1, Âu Châu (10), răi rác các nơi khác (9).  
    Mặc dầu Con số tự nó chỉ là sự biểu hiện mang một ư nghĩa tương đối. Tuy vậy, 
    nó cũng nói lên được rằng, trong suốt 30 năm lịch sử xa quê, người Huế khắp 
    nơi vẫn không quên cội nguồn và vẫn tha thiết hướng về quê mẹ. 
    
                Nói đến tinh thần nầy, một 
    tác giả  Khuyết Danh đă viết trong báo Tuổi Trẻ rằng:  
    
    „Người Huế thường phản ứng chậm. Vẻ 
    bề ngoài và hành động không hô ứng tiếp liền nhau. Hay nói cách khác, giác 
    quan tiếp nhận cảm giác và nội tâm cứ hành hai nhịp khác nhau và giữa hai 
    nhịp đó là một khoảng dành cho nụ cười, tiếng dạ thưa, sự e dè, cân nhắc. Đó 
    là một loại "phản ứng hẹn giờ", nhưng một khi phản ứng phát ra, nó có tính 
    cách dứt khoát, không văn hồi. Đó là nét tinh Huế mà người ta gọi là "thâm 
    trầm", "thâm thúy". 
    
    Người dân Ô Lư chất chứa trong tâm 
    khảm ḿnh một món nợ tinh thần đời đời với công chúa Huyền Trân ngày xưa đă 
    vùi quên tuổi thanh xuân của ḿnh mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Đó là 
    một sự lưu đày biệt xứ nhưng tự nguyện và vị tha. 
    
    Người ta bảo đất Thừa Thiên này vừa 
    là vườn ươm vừa là bệ phóng nhân tài, cũng có nghĩa nơi đây vừa là địa điểm 
    đào tạo, rèn luyện con người vừa là môi trường thiên nhiên hun đúc bồi dưỡng 
    tư chất cho tuổi thanh niên, lập nghiệp để rồi sau đó đàn chim rời tổ bay xa.
     
    
    Người con của Huế cảm thấy khó ḷng 
    rời xa bàn thờ tổ tiên hoặc cơi nhà vườn của ḿnh. Tuy nhiên vẫn có cảm nghĩ 
    chưa bỏ nhà ra đi vẫn chưa viên thành vận số của ḿnh. Và một khi xa xứ, 
    bắt đầu nảy nở trong tâm thức kẻ ly hương một loại t́nh cảm mới: t́nh cảm 
    hoài hương. Loại t́nh cảm này có tính cách siêu h́nh, thâm sâu như t́nh 
    con với mẹ, nó âm ỉ như mạch ngầm, như than hồng vùi dưới tàn tro. Xin đừng 
    xem đó là một thứ t́nh cảm nhi nữ thường t́nh, ủy mị. Nó vừa giúp con người 
    không quên nguyên quán của ḿnh, vừa thôi thúc con người sống chẳng phải cho 
    bản thân, mà cho một vận hội chung, có tính vị tha, hướng thượng. Trong 
    nhận thức ấy, con người lưu vong gầy dựng hội đoàn, tập thể ái hữu hướng 
    vọng về quê hương, xem đó như những ốc đảo t́nh cảm giữa đời sống mênh mông“ 
    
                Các hội đoàn người Huế tại 
    Hải Ngoại có khuynh hướng kết hợp hai mặt văn hóa và tương trợ song song 
    mạnh hơn là chỉ có tinh thần thân hữu thuần túy. 
    
                Về mặt văn hóa, những hội 
    Huế châu Âu có ưu thế về mặt nghệ thuật và âm nhạc Huế.  Trong nhiều năm 
    qua. Những làn điệu dân ca và âm nhạc Huế, cung đ́nh cũng như dân dă,  đă 
    được tŕnh tấu nhiều nơi trên thế giới.  Điển h́nh của âm nhạc Huế được mang 
    ra giới thiệu ở nước ngoài là các thể loại sau đây: 
    
    Ḥ Mái Nh́, Ḥ Mái Đẩy, Ḥ Bài Thai, 
    Ḥ Giă Gạo...  Ca Huế với những giai điệu: Lưu Thủy, Hồ Quảng, Xuân Phong, 
    Điểu Ngữ, Nam Xuân, Tư Mă Tương Như, Tiên Nữ Tống Lưu Nguyễn, Tự Trào, Tự 
    Thán, Trường Thán… Một số bài cổ như Lưu Thủy, Hành Vân và một số các điệu 
    khác như Nam Ai, Nam B́nh, Cổ Bản, Tứ Đại Cảnh v.v... 
    
                Riêng người Huế tại Mỹ th́ 
    lại tỏ ra rất năng nỗ về mặt sách báo „Nhớ Huế“.  Ngoài những đặc san Mùa 
    Xuân hay Mùa Hè mà bất cứ Hội Huế nào cũng có hàng năm th́ mấy chục năm qua, 
    những tờ báo thường kỳ chuyên đề về Huế cứ đều đặn xuất bản với những đề tài 
    nghiên cứu, khảo luận, hồi kư, sáng tác về Huế tưởng như không bao giờ đứt 
    đọan như Tuyển Tập Nhớ Huế của Vơ Văn Tùng (Cali), Tiếng Sông Hương (ở 
    Washington DC của Lê Chí Thảo, ở Dallas Texas của Nguyễn Cúc), Tuyển Tập 
    Phượng Vỹ (ở Houston của Tôn Nữ Quế Hương, ở Toronto Canada của Y La L.K. 
    Ngọc Quỳnh) v.v... 
    
                Về phương diện tiếng nói 
    điạ phương và trong lĩnh vực ngữ học, hầu như chưa có một địa phương nào 
    trên đất nước Việt Nam và một vùng đất nhỏ nào trên thế giới lại có một cách 
    nói riêng vừa thanh nhă mà cũng lại vừa có nhiều tiếng đệm „luyến láy“ hơi 
    thô do ảnh hưởng tiếng Chiêm Thành - Mường -  (Mô, tê, tề, răng, rứa, ri, 
    ni, ń, nớ, nợ, hè… ) cùng sự biến thể phụ âm đầu (nh = d; d = đ; v = b; gi 
    = tr…) nguyên âm giữa (anh = eng; uông = on; ong = on… ) và phụï âm cuối ( t 
    = c; ng = n…) như Huế.  Và theo bước đầu sưu khảo đang c̣n hạn chế của người 
    viết bài nầy th́ cũng chưa có một vùng đất có địa bàn địa lư nào nhỏ bé 
    ngang tầm xứ Huế trên thế giới nầy lại có một „kho liễm“ từ ngữ và khái niệm 
    đứng riêng trong toàn bộ ngôn ngữ của một nước đạt mức độ phong phú có thể 
    lập thành một cuốn từ điển riêng như tiếng Huế.  Tác phẩm Từ Điển Tiếng Huế 
    của Bác sĩ Bùi Minh Đức xuất bản lần đầu năm 2001 dày gần 600 trang và xuất 
    bản lần thứ hai năm 2004 dày 1.100 trang là một sự đóng góp quan trọng vào 
    kho tàng văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa Huế nói riêng. 
    
                Tháng chạp năm 1993, Quần 
    Thể Di Tích Huế đă được tổ chức Liên Hiệp Quốc UNESCO công nhận là Di Sản 
    Văn Hoá Thế Giới.  Và cuối năm 2004, khi UNESCO công bố 28 danh mục của 28 
    di sản „Phi Vật Thể“ của các quốc gia và liên quốc gia trên ṭan thế giới, 
    Nhă Nhạc Cung Đ́nh Huế được công nhận là „Di Sản Phi Vật Thể“ của nhân loại. 
    
                Như thế, văn hóa Huế mang 
    một dáng vẻ riêng trong ḷng văn hóa dân tộc bằng cả hai giá trị vật thể và 
    phi vật thể.  Bởi vậy, một hội đoàn liên quan đến Huế trước hết phải là một 
    hội đoàn mang đậm tính văn hóa bên cạnh các nhu cầu chung chung khác mà bất 
    cứ tổ chức sinh họat hội đoàn nào cũng có như thân hữu, tương tế, sinh hoạt, 
    tiêu khiển… 
    
    Nói đến văn hóa là nói đến một thực 
    thể bao gồm ba mặt: Truyền thống, con người và lối sống. Chính cái mới, cái 
    lạ, cái khác, cái độc đáo trội bật trong ba mặt nầy là chất liệu điển h́nh 
    xây dựng bản sắc của văn hóa. Martin Almond trong loạt bài nhan đề The 
    Vanishing Arctic (Bắc Cực Mù Khơi), nói về bản sắc văn hóa độc đáo của giống 
    người Eskimo xứ tuyết vùng Bắc cực, nhận xét rằng: „ Một nền văn hóa 
    thiếu bản sắc cũng giống như một đồng tuyết vùng bắc cực vắng bóng những ṿm 
    trốn tuyết kỳ lạ của người Eskimo.  Những biển tuyết một màu trắng mênh mông 
    nối nhau kéo dài đến vô tận, biết đâu và t́m đâu ra dấu vết của truyền 
    thống, con người và lối sống“ Văn hóa cần phải có những cột mốc của tư 
    tưởng, những nét độc đáo riêng biệt của đời sống.  Nếu không đồ sộ như Kim 
    Tự Tháp của Ai Cập th́ ít nhất cũng mang những mày vẻ riêng, tuy  nhỏ nhoi 
    và khiêm tốn nhưng xác định được những nét kiến trúc điển h́nh ưu việt giống 
    như những nóc nhà ṿm của người Eskimo trên biển tuyết…“ 
    
    Đất nước Việt Nam có ba miền Bắc Trung 
    Nam.  Mỗi miền và mỗi điạ phương đều có một bản sắc văn hóa riêng.  Văn hóa 
    là câu chuyện truyền đời tính bằng thế kỷ.  Từng thời đại, từng khuynh hướng 
    và từng công tŕnh nghiên cứu có một cách nh́n riêng về bản sắc văn hóa, hay 
    nói một cách khác là về cái chất đậm đà của mỗi Hà Nội, Huế, Sài G̣n… trong 
    cái chung của truyền thống văn hóa dân tộc, vẫn có từng nét riêng.   
     
    
    Khi nói đến Huế, người ta thường tự 
    hỏi, cái ǵ là „Chất Huế“?  Chất liệu tinh thần và vật thể nào đă làm cho 
    một dải đất hẹp nhất trong ba miền đất nước như Huế trở thành một sự níu kéo 
    dằng dặc và thiết tha đối với người ra đi, một ḍng sống êm đềm với người ở 
    lại và một cảm hứng đầy ư vị với người mới đến.  Chất Huế trở thành „ngải 
    Huế“ v́ nó mê hoặc ḷng người. Chất Huế trong veo như giọt nước mắt của cô 
    học tṛ áo trắng hay như giọt nước sông Hương vỡ trên mái chèo Thừa Phủ. 
    Chất Huế không bao giờ phôi pha v́ nó không phải là một đáp số mà măi măi 
    vẫn là một ẩn số cao vời. 
    
      
    
    
                                                               Trần Kiêm Đoàn 
      
  |