| 
						 
						Áo Dài Việt Nam  
						
						
						Trần Thị Lai 
						Hồng 
						
						  
						
						Ngược ḍng thời gian t́m 
						về nguồn cội, chiếc áo dài Việt Nam đă được tiền nhân 
						ghi khắc trên các cổ vật trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, 
						Ḥa B́nh... Từ trên ba ngàn năm trước với hai tà áo 
						thướt tha bay lượn. 
						
						Áo dài Việt Nam quả đă có 
						một quá tŕnh đi sát với lịch sử dân tộc lắm phen khóc 
						cười theo vận nước nổi trôi. Trải qua cả mười thế kỷ bị 
						Trung Hoa đô hộ, rồi ngót một thế kỷ dưới ách thống trị 
						của Pháp, quốc gia đứng đầu về thời trang quốc tế, tà áo 
						dài Việt Nam vẫn uyển chuyển tung bay, biểu dương tinh 
						thần bất khuất, đặc tính thích nghi với hoàn cảnh, và 
						khiếu thẩm mỹ của người Việt Nam. 
						
						Trong thời kỳ Bắc Thuộc 
						dân ta đă bao phen bị người Tàu ra lệnh đồng hóa phải để 
						răng trắng chớ không được nhuộm, đàn ông phải dóc tóc 
						thắt bím đuôi sam chớ không được búi, đàn bà phải cắt 
						tóc ngắn, phải mặc quần thay v́ váy... Nhưng h́nh ảnh 
						người Việt thời đó vẫn là tóc búi, răng đen, áo dài tứ 
						thân mặc với váy. Chỉ có những nàng Mỵ nương hoặc Tân 
						thời tại Sài G̣n vào năm 1943 trong chuyện dài bằng thơ: 
						“LỜI TÂM SỰ” của Thuần Phong đăng trên tạp chí Cùng Bạn, 
						cũng có một bài thơ diễu nhẹ về các cô tân thời: 
						
						  
						
						Một yêu mặt trắng má 
						tṛn, 
						
						Hai yêu môi mọng thoa 
						son điểm hồng, 
						
						Ba yêu mắt sáng mày 
						cong, 
						
						Bốn yêu mái tóc nực 
						nồng nước hoa, 
						
						Năm yêu mảnh áo ngắn 
						tà, 
						
						Sáu yêu quần trắng là 
						đà gót sen, 
						
						Bảy yêu nóc liễu dịu 
						mềm, 
						
						Tám yêu giọng nói vừa 
						hiền vừa ngoan, 
						
						Chín yêu học thức hơn 
						người, 
						
						Mười yêu, yêu cả đức 
						tài h́nh dung. 
						  
						
						   
						  
						
						Áo dài Lemur áo dài khi 
						ra đời nhưng bốn năm sau, năm 1934, đă được họa sỹ Lê 
						Phổ cải tiến và được hoan nghênh trong hội chợ Nữ Công 
						Đà Nẵng với gian hàng phụ nữ có các bà, các cô đoan 
						trang hiền thục mặc áo dài tân thời dung ḥa giữa Lemur 
						và áo ngũ thân, không nối vai nối tay, cổ kín, cài nút 
						bên phải, thân ôm sát người, Áo may bằng hàng màu, mặc 
						với quần trắng, tóc búi lỏng hay trần hoặc vấn khăn 
						nhung. 
						
						Áo dài tới đây thường 
						được nhân dáng chính xác. Vẫn gói trọn nhân sinh quan 
						nhưng dung ḥa thích nghi với bản chất đơn giản mỹ thuật 
						của người Việt. 
						
						Suốt cả ba thập niên đó, 
						áo dài không có nhiều thay đổi ngoài chiếc cổ, khi cao 
						lúc thấp, khi vuông lúc tṛn, khi kín lúc hở, chiều dài 
						áo cũng lên xuống vô chừng, gấu áo và gấu quần lúc to 
						lúc nhỏ, có khi rộng lúc thắt nhỏ bằng một sợi dây luồn 
						bên trong, ư hẵn muốn nói: 
						
						  
						
						Những người thắt đáy 
						lưng ong, 
						
						Vừa khéo ch́u chồng 
						lại khéo nuôi con. 
						
						  
						
						Chiếc quần cũng thay đổi 
						từ kiểu cẳng què qua đáy giữa, dùng giải rút đổi sang 
						dây thun rồi gài nút và sau cùng là khóa kéo, trong khi 
						ống quần cũng khi rộng lúc túm theo thời. 
						
						Cho đến thập niên 50 áo 
						dài Việt Nam theo ḍng lịch sử thay đổi từ chế độ quân 
						chủ sang chế độ cộng ḥa với một nhân vật là nữ: Bà Ngô 
						Đ́nh Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân phu nhân bào đệ cố tổng 
						thồng Ngô Đ́nh Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958 trong dịp 
						khai mạc triển lăm nữ công tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Ḥa 
						B́nh ở Sài G̣n, bà Nhu xuất hiện với kiểu áo cổ truyền 
						tay ngắn, mang bao tay trắng, tóc bới cao. Một số các bà 
						trong hội Phụ Nữ Liên Đới vội vàng a dua theo mốt cổ hở, 
						cổ vuông, cổ tṛn, cổ trái tim... 
						
						Áo dài cổ cao ba ngấn, và 
						sau đó áo dài bà Nhu cũng theo bà Nhu qua Tây và theo 
						thời gian mai một. 
						
						Đầu thập niên 60, nhà may 
						Dung Đakao ở Saigon tung ra một kiểu áo mới: áo dài tay 
						raglan mặc với quần xéo. Kiểu áo cập nhật này giúp xóa 
						bớt những đường nhăn hai bên nách và vai v́ được giáp 
						tay kiểu xéo vai, nên thân h́nh người nữ trông gọn ghẽ 
						một cách đầy thẩm mỹ. Thủa đó, giới nữ sinh thích mặc 
						ngắn ngang đầu gối, trong khi các bà thích mặc 
						maxi-raglan nhu ḿ hơn. Chiếc quần xéo may bằng hàng mềm 
						xấp xéo góc khi cắt hông ôm sát người nhưng hai ống ḷa 
						x̣a mà mỗi bước đi thấp thoáng thấy mũi giày ẩn hiện 
						dưới sóng lụa. Nhiều bà c̣n cầu kỳ hơn, may quần xéo 
						bằng hai lớp hàng mỏng trông thật yểu điệu. Sau đó, 
						nhiều nhà may tung kiểu áo dài ba tà gồm thân sau nguyên 
						một vạt, nhưng thân trước xẻ làm hai, cổ cao, gài nút từ 
						cổ xuống eo rồi buông thả, mặc với quần tây kiểu chân 
						voi. Kiểu ba tà chân voi cũng bị đào thải v́ không thích 
						hợp với bản chất ôn nhu của người Việt Nam. 
						
						Cuối thập niên 60, nhiều 
						bà cũng đưa một “Mốt” hay là mặc nguyên một bộ áo dài 
						màu phấn tiên may bằng hàng tơ nội hóa trông rất khả ái. 
						Về sau này có một số ca sĩ lên sân khấu mặc nguyên bộ áo 
						dài như thế nhưng may bằng mầu sẫm sặc sỡ lại viền thêm 
						kim tuyến, không mấy được hưởng ứng ca ngợi. 
						
						Về hàng hóa và màu sắc, 
						người nữ yêu chuộng hàng tơ nội hóa, gấm và lụa Hong 
						Kong, hàng Jersey, hàng tơ Ấn Độ, hoặc Thái Lan, và hàng 
						Mouseline. Một số c̣n chuộng loại hàng ren may nguyên 
						hoặc biến chế dùng may hai tay rắp vào cho thêm mát mẽ. 
						
						Đa số học sinh thường chỉ 
						“áo trắng học tṛ” hoặc đồng phục: Nữ sinh áo tím Hà Nội, 
						áo trắng Đồng Khánh Huế, áo xanh da trời Trưng Vương, áo 
						hồng Gia Long... Những mầu áo thơ mộng một thời lên 
						hương qua thơ nhạc: 
						
						Nắng Sài G̣n anh đi mà 
						chợt mát, 
						
						Bởi v́ em mặc áo lụa 
						Hà Đông 
						
						Anh vẫn yêu màu áo ấy 
						vô cùng, 
						
						Thơ của anh vẫn c̣n 
						nguyên màu lụa trắng. 
						
						  
						
						(Nguyên Sa, Ngô Thụy Miên. 
						Áo Lụa Hà Đông) hoặc: 
						
						  
						
						Áo nàng vàng em về yêu 
						hoa cúc, 
						
						Áo nàng xanh anh mến 
						lá sân trường, 
						
						Sợ thư t́nh không đủ 
						nghĩa yêu thương, 
						
						Anh thay mực cho vừa 
						màu áo tím. 
						
						  
						
						(Nguyên Sa, Ngô Thụy Miên. 
						Tuổi Mười Ba) hay: 
						
						  
						
						Anh nằm gối cỏ chờ hoa 
						
						Áo em bạc hạc hồ thái 
						hư, 
						
						  
						
						(Phạm thiên thư. Động 
						hoa vàng) và: 
						
						  
						
						Áo bay mở khép niềm 
						tâm sự, 
						
						họ hẹn lâu rồ, em nói 
						đi, 
						
						  
						
						(Đinh Hùng, Phạm Đ́nh 
						Chương, Mộng Dưới Hoa) 
						
						  
						
						Cũng nên nhắc thêm là, 
						cuối thập niên 60 sang đầu thập niên 70, và mấy năm sau 
						của thập niên 80 sau di tản người nữ c̣n thích một loạt 
						hàng mới là hàng thêu và vẽ tay do một số họa sĩ cộng 
						tác cùng nhà may Thanh Khánh ở Đakao, nay mở tại Paris, 
						Pháp tiệm Saigon Souvenirs khu thương xá Tax, nhà may 
						Dung Dakao và nhà may Thiết Lập Pasteur nay mở tại đường 
						Brookhurst, Garden Grove, Cali. 
						
						Trong số những nhà sáng 
						chế kiểu áo, phải kể đến Thành Lễ Hoàng Đ́nh Tuyên ở 
						Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo bạo: áo dài 
						hở cổ, không có tay hoặc chỉ có... một tay, áo dài dài 5 
						lớp hàng mouseline, áo dài kiểu lính thú. Đặc biệt là 
						các kiểu áo mới này đều mặc với quần... mầu đồng hoặc 
						ngược màu. Rất may là đa số các kiểu mới và bạo này đều 
						c̣n giữ nguyên hai tà áo thướt tha bay lượn, nét đặc 
						biệt của áo dài Việt Nam. 
						
						Hiện nay phong trào áo vẽ 
						các thiếu nữ con quan mới ăn mặc theo kiểu tầu, c̣n dân 
						chúng vẫn giữ bộ áo tứ thân được gọi là áo giao lănh v́ 
						vạt trước hai thân may rời khi mặc để giao vào nhau phủ 
						trên yếm và váy c̣n gọi là mấn hay xuống tới thắt lưng 
						mầu phất phới theo bước chân. 
						
						Vẻ yêu kiều, nét duyên 
						dáng, nết đoan trang của người nữ thời đoan trang của 
						người nữ thời áo tứ thân c̣n rơ rệt hơn qua bài ca dao: 
						
						  
						
						Mười thương, 
						
						Một thương tóc bỏ đuôi 
						gà, 
						
						Hai thương ăn nói mặn 
						mà có duyên, 
						
						Ba thương má lúm đồng 
						tiền, 
						
						Bốn thương răng nhánh 
						hạt huyền kém thua, 
						
						Năm thương cổ yếm đeo 
						bùa, 
						
						Sáu thương nón thượng 
						quai tua dịu dàng, 
						
						Bảy thương nết ở khôn 
						ngoan, 
						
						Tám thương ăn nói lại 
						càng thêm xinh, 
						
						Chín thương cô ở một 
						ḿnh, 
						
						Mười thương con mắt 
						hữu t́nh với ai. 
						
						  
						
						Tới đây tưởng cũng nên mở 
						một dấu ngoặc lớn nói riêng về chiếc quần và cuộc cách 
						mạng thời trang từ váy sang quần. 
						
						Theo Pierre Huard và 
						Maurice Durand trong tập Connaissane du Việt Nam viết 
						bằng tiếng Pháp xuất bản tại Hà Nội 1954, quần xuất hiện 
						bên trời âu thời Gaulois và cổ Ba Tư, du nhập sang Ngoại 
						Mông và qua Trung Hoa từ thế kỷ thứ ba, nhưng không thể 
						hạ nổi bộ xiêm y truyền thống. 
						
						Tại Việt Nam, theo sách 
						Lê Triều chiếu lệnh Thiên Chính, trang 307 có chép là 
						năm Ất Tỵ thứ ba niên hiệu Cảnh Trị, vua Lê Huyền Tông 
						mùa xuân tháng ba năm 1665 có lệnh cấm đàn bà không được 
						mặt áo thắt lưng và quần có ống chân mà phải mặc váy. 
						
						Trong khi đó bên Trung 
						Hoa, Măn Châu tiến chiếm nước tàu lập nên nhà Măn Thanh, 
						và năm 1774 vua Vơ Vương đưa kiểu áo dài xườn xám dài 
						không có quần, thân bó chẽn, tay ngắn tận nách, vạt áo 
						tuy dài nhưng cất thật hẹp và hai bên đùi xẽ tuốt tận 
						mông, nếu bước đi hơi dài là hầu hết những đường cong 
						nét lượn đều phô bày lộ liễu trắng trợn, rơ ràng là đă 
						hạ phẩm giá họ, biến họ thành một món dùng măn nhăn 
						thiên hạ. 
						
						Thời trang Việt Nam cũng 
						thay đổi, nhưng người Việt đă chơi trội lần nữa, không 
						những tôn vinh giá trị cao quư của người nữ khi đưa ra 
						bộ áo dài ngũ thân kín đáo, mà từng phần cấu tạo chiếc 
						áo đă gói ghém ư nghĩa nhân sinh quan của dân tộc Việt. 
						
						Chiếc áo dài ngũ thân che 
						kín thân ḿnh không để hở áo lót ḿnh, gồm có hai vạt cả 
						trước lẫn sau, mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng 
						cho tứ thân phụ mẫu, và một thân thứ năm là vạt con 
						tượng trưng cho người mặc áo, nằm dưới hai chân trước. 
						Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bấu đệm bên dưới, 
						và năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người: Nhân, 
						Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. 
						
						Áo dài ngũ thân không nói 
						lên dân tộc tính Việt Nam bất khuất mà c̣n tỏ rơ nhân 
						sinh quan Việt Nam, con người nhờ cha mẹ sinh mẹ dưỡng, 
						khi thành thân có cha mẹ người phối ngẫu che chở bảo bọc, 
						luôn luôn tôn trọng đạo làm người là giữ ḷng nhân ái, 
						biết nhân nghĩa kẻ trên người dưới, nơi trọng chỗ khinh, 
						biết suy luận tính toán và biết giữ ḷng tin nơi người. 
						
						Một kiểu thời trang mới 
						đưa ra bao giờ cũng chỉ được dân thành thị theo trước và 
						phải mất cả chục năm sau nếu không bị đào thải mới phổ 
						biến sâu rộng về thôn quê. Do đó, có thể nói rằng bộ áo 
						dài ngũ thân biến thể từ bộ tứ thân xuất hiện vào đời 
						vua Gia Long (1802-1819) nhà Nguyễn Phúc, thủ đô đóng ở 
						Huế thuộc miền Trung. Sỡ dĩ có sự ước đoán này v́ hễ mặc 
						áo dài th́ phải mặc quần chớ không mặc váy, trong khi 
						dân quê đă quen mặc váy với áo tứ thân nên không thích 
						áo dài. 
						
						163 năm sau khi vua Lê 
						Huyền Tông bắt đàn bà phải mặc váy th́ thời trang lại 
						thay đổi vào năm Minh Mạng thứ 9 tức là năm 1828. Vua 
						Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy mà phải mặc 
						quần. Hồi ấy dân gian đă có câu than văn: 
						
						  
						
						Chiếu vua mồng sáu 
						tháng ba, 
						
						Cấm quần không đáy 
						người ta hăi hùng, 
						
						Không đi th́ chợ không 
						đông, 
						
						Đi th́ phải mượn quần 
						chồng không đang, 
						
						Có quần, đứng nép đầu 
						làng trông quan! 
						
						  
						
						Trước sự than văn và 
						chống đối của giới nữ, phe đàn ông con trai đă an ủi: 
						
						  
						
						Trúc xinh trúc mọc ngoài 
						sân, 
						
						Em xinh th́ váy hay quần 
						cũng xinh! 
						
						  
						
						Tuy nhiên, quá tŕnh 
						chiếc áo dài chưa chịu ngưng ở kiểu bộ áo dài ngũ thân. 
						“Nhật tân, hựu nhật tân”. Nhất là trang phục. 
						
						Sau đông phương áo dài 
						Việt Nam một lần nữa chịu ảnh hưởng Tây Phương, bởi v́ 
						thời trang cũng đi liền với lịch sử. Việt Nam thoát ách 
						đô hộ của người Tàu th́ không bao lâu lại bị người Pháp 
						thuộc. Khi văn hóa Langsa tràn vào nước ta th́ chữ quốc 
						ngữ đă thay cho chữ Nôm và chữ Hán, cách ăn lối ở của 
						chúng ta cũng lần lần thay đổi và cố nhiên áo quần cũng 
						từ từ đổi mới. 
						
						Một nhân vật có tên là 
						Cát Tường không rơ xuất thân từ đâu (có người nói đó là 
						họa sĩ) đă tung ra mốt áo Le Mur (Lemur viết trại theo 
						danh từ tiếng Pháp Lemur có nghĩa là cái tường viết trại 
						tên Cát Tường). Áo Lemur ra đời từ năm 1930 được nhóm tự 
						lực văn đoàn cổ động tại các đô thị, nhất là tại Hà Nội 
						nơi được mệnh danh là đất ngàn năm văn vật. Bởi áo dài 
						Lemur may cắt hoàn toàn theo kiểu Tây Phương nối vai ráp 
						tay phồng, cổ bồng, cổ lá sen cài nút trên vai, tóc rẽ 
						lệch, vấn trần. Hồi đó ngay tại thủ đô Huế nơi có triều 
						đ́nh An Nam và ṭa khâm sứ Pháp, một số các cô tân thời 
						a dua mốt đầm Lemur. Và dân Huế đă có hai vè chế diễu 
						như sau: 
						
						  
						
						Ve vẻ vè ve, 
						
						Nghe vè mốt mới, 
						
						Bận áo Lemur 
						
						Đi giầy cao gót, 
						
						Sách bóp tầm phơi, 
						
						Đi chơi cu ngáo, 
						
						Ăn cháo không tiền, 
						
						Cởi liền áo ra, 
						
						  
						
						Trong khi đó, ở Hà Nội. 
						Tú Mỡ, một cây bút châm biếm tḥi đại đă có bài hát: 
						
						  
						
						Mười thương, 
						
						Một thương tóc lệch 
						đường ngôi, 
						
						Hai thương quần trắng, 
						áo mùi, khăn san 
						
						Ba thương hôm sớm điểm 
						trang, 
						
						Bốn thương răng mọc 
						hai hàng trắng phau, 
						
						Năm thương lược Huế 
						cài đầu, 
						
						Sáu thương ô lụa ngă 
						màu thanh niên, 
						
						Bảy thương lắm bạc 
						nhiều tiền, 
						
						Tám thương động tư “nữ 
						quyền” rở ra. 
						
						Chín thương cô vẫn ở 
						nhà, 
						
						Mười thương thôi để 
						ḿnh ta thương ḿnh. 
						
						  
						
						Và nhuộm hai mầu đang 
						được thịnh hành đồng thời với sự tái xuất giang hồ của 
						áo Lemur tay phồng nối vai. Nhiều họa sĩ nổi danh tung 
						ra nhiều mẫu vẽ trên áo: Thành Lễ Hoàng đ́nh Tuyên, 
						Thanh Khánh, Thúy Uyển ở Paris, Tiểu Linh ở Cali, Kim 
						Liễu ở New York... với hoa lá cành, tre, trúc, chim 
						nuông, bản đồ Việt Nam, trăng sao, đường nét tân kỳ, có 
						khi op-art, lập thể, hoặc táo bạo. 
						
						Nhưng đều có màu sắc đậm 
						chói hay dịu mát, ngay bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm 
						lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo nhỏ 
						hẹp hay rộng rải, cổ áo có cao kín hay để hở, bộ áo dài 
						Việt Nam vẫn là sự kết hợp của chân thiện mỹ, không 
						những nói lên nhân sinh quan Việt Nam, mà c̣n gói kín 
						tinh thần Việt Nam: dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ 
						tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bă, tô bồi thêm nét 
						đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lập. 
						
						Áo dài Việt Nam là niềm 
						kiêu hănh của người Việt Nam. Chính v́ vậy mà người Việt 
						vẫn yêu quư tà áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong 
						trong sứ mạng ǵn vàng giữ ngọc. 
						
						Ngày áo dài hồi hương hẳn 
						không xa. 
						
						  
						
						*Trần Thị Lai Hồng 
   
						Nguồn: saigontimesusa  |