|   | 
		
		
			
				| 
				
				
				ĐỊA DANH DU LỊCH HÀ GIANG - CÁC ĐỊA 
				ĐIỂM DU LỊCH HÀ GIANG | 
			 
			
				
				
					
						
							| 
							
							SÔNG GÂM - HÀ GIANG 
							 | 
						 
						
							
							
								
								 Sông 
								Gâm Hà Giang: Du lịch đi du thuyền, khám phá 
								sông nước độc đáo trên dòng sông Gâm của tỉnh 
								Hà Giang những ngày nghỉ cũng là một lựa 
								chọn khá thú vị. Cảnh đẹp và sự kỳ vĩ 
								của sông Gâm đang dần trở thành một điểm 
								đến đầy thu hút với nhiều khách du lịch 
								gần xa.  
								Từ bến thuyền nơi đầu phố huyện Bắc Mê, thuyền 
								xuôi chừng 3,5 giờ sẽ đến Nhà máy Thuỷ điện 
								Tuyên Quang ở huyện Na Hang. Khi du khách tập 
								trung tại bến đò bên bờ sông Gâm thực hiện tua 
								du lịch khám phá lòng hồ. Một đội thuyền máy đã 
								sẵn sàng chở khách xuôi dòng Gâm. 
								
								Đoàn thuyền thể hiện tính 
								chuyên nghiệp cao về du lịch: Mỗi thuyền máy 
								Cole chở khoảng 40 người, mái thuyền ốp trần gỗ, 
								có điện, sàn thuyền dải chiếu hoặc tấm nhựa cho 
								du khách ngồi hai bên mạn thuyền, ở giữa là một 
								dãy bàn phục vụ khách. Trong thuyền còn được 
								trang bị hệ thống tăng âm, loa đài để khách du 
								lịch giao lưu văn nghệ.  
								
								
								Thuyền dời bến chừng 1km 
								thì dòng nước đục đã biến mất, thay vào là "biển 
								nước" xanh biếc của dòng Gâm. Thỉnh thoảng những 
								chiếc thuyền ngược, thuyền xuôi của người dân xã 
								Thượng Tân, của huyện bạn Na Hang chạy qua lại 
								tạo cảnh tấp nập của một vùng sông nước. Ngồi 
								trên thuyền, ngắm "biển nước" xanh biếc của dòng 
								Gâm mới thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên và lòng 
								quả cảm của con người chinh phục dòng Gâm để 
								phục vụ lợi ích Quốc gia. Đôi bờ sông vẫn còn 
								giữ được những rừng cây hoang sơ, những cây cổ 
								thụ cao hàng chục mét soi bóng xuống dòng sông, 
								thấp thoáng ven bờ là những vạt chuối rừng xanh 
								thẫm. Bất ngờ, hai bên bờ xuất hiện những dãy 
								núi đá cao ngất, vách dựng thẳng đứng trông như 
								cửa ải trấn giữ cho vùng thượng nguồn. Những nhũ 
								đá từ trên vách núi rủ xuống tạo thành những 
								hình thù lạ mắt, trước kia người đi thuyền phải 
								ngước cổ lên nhìn thì nay đã gần ngang mặt nước. 
								Càng xuôi dòng, diện tích mặt nước càng trải 
								rộng mênh mông, ngắm vút tầm mắt của du khách. 
								Bất chợt, xuất hiện những đảo nhỏ nổi lên giữa 
								bao la biển nước, trước kia đó chính là những 
								dải đồi, núi cao nay đã bị dòng nước vùi ngập, 
								chỉ còn những ngọn cao chồi lên khỏi mặt nước. 
								Nếu so sánh với các địa danh khác như hồ Ba Bể (Bắc 
								Kạn), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), hồ Thuỷ điện Hoà 
								Bình (Hoà Bình) thì tua du lịch lòng hồ Thủy 
								điện Tuyên Quang không hề kém hấp dẫn.  
								
								
								Thuyền xuôi đến trưa thì 
								cập vào một đảo cũng là lúc chủ thuyền bê lên cá 
								chép nướng, thịt nướng, thịt gà nướng ăn cùng 
								với xôi và những chén rượu làm ấm lòng du khách. 
								Một Bắc Mê mới "trên bến dưới thuyền" đang hiện 
								hữu, sông Gâm hiền hoà ngày nào đang phục vụ 
								công trình lớn cho đất nước, đang trở thành dòng 
								sông kinh tế, đang mời gọi du khách đến khám phá, 
								tham quan 
   
							 | 
						 
					 
					
						
							| 
							
							CẤM SƠN - HÀ GIANG | 
						 
						
							
							
								
								 Cấm 
								Sơn Hà Giang: Không phải thị xã nào cũng được 
								thiên nhiên ban tặng cho một địa thế đẹp như vậy. 
								Thị xã Hà Giang đã được sự ưu ái đến hậu hĩnh, 
								ngay giữa lòng thị xã “Cấm Sơn” nổi lên như một 
								kỳ quan thiên nhiên kỳ vĩ. “Cấm Sơn” thuộc 
								phường Nguyễn Trãi.  
								
								
								Theo kết cấu địa chất núi 
								được chia thành hai vùng riêng biệt. Phía từ 
								đỉnh núi chạy dài theo dốc Mã Tim chủ yếu là núi 
								đá vôi tai mèo với địa hình hiểm trở, hang sâu 
								vách đá dựng đứng, như con Sư Tử với dáng oai vệ. 
								Từ trên đỉnh núi trải dài về phía sông Lô là 
								rừng núi đất, sườn núi vách dốc trải dài suốt từ 
								đường 19/5 đến Quảng trường 26/3. Dưới chân núi 
								“Cấm Sơn” là những phố phường đông đúc dân cư 
								làm ăn sầm uất.  
								
								
								Nhưng chắc rằng người dân 
								Hà Giang ít ai có thể hiểu, thấy hết được những 
								vẻ đẹp tự nhiên, song cũng đầy huyền bí của “Cấm 
								Sơn”, vì là núi đá hiểm trở nên có rất ít đường 
								lên núi, chỉ có một con đường độc đạo duy nhất 
								có thể leo lên đỉnh núi. Trên đỉnh núi, nơi có 
								một hang sâu thẳm, thẳng đứng như một cái “giếng 
								trời”. Chính với địa thế hiểm trở và độc đáo này 
								mà khi thực dân Pháp xâm lược, đã chọn nơi đây 
								là chốt canh giữ chính, để bảo vệ thị xã.  
								
								
								Theo truyền thuyết được 
								lưu truyền trong dân gian, đội quân “cờ đen” của 
								Lưu Vĩnh Phúc, khoảng những năm 1870 - 1875, địa 
								hạt Hà Giang có đội quân “cờ vàng” của Hoàng 
								Sùng Anh kéo đến để cướp bóc, chúng bị đội quân 
								của đồng bào các dân tộc là “Quân cờ trắng” đánh 
								trả quyết liệt, bao vây truy kích, năm 1875, 
								quân “Cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh bị co cụm, đội 
								quân của mình lên núi Cấm để cố thủ, lương thực 
								cạn kiệt dần, xung quanh núi Cấm lại bị bao vây 
								chặt chẽ, biết không thể thoát, cả tướng lẫn 
								quân “Cờ vàng” đã nhảy xuống hang sâu trên núi 
								tự vẫn. Với tấm lòng bao dung và nhân ái nhân 
								dân địa phương đã lập ngôi miếu thờ nhỏ, cầu 
								nguyện cho những linh hồn oan khuất được siêu 
								thoát. Núi đã trở thành nơi linh thiêng ít có 
								người dám lên, núi “Cấm sơn” càng trở nên huyền 
								bí. Trải qua những năm tháng thăng trầm của thời 
								gian miếu thờ cũng không còn nữa dân địa phương 
								đã đưa về thờ tại “Cấm Sơn Linh Từ” dịch là ngôi 
								đền núi Cấm(nay là đền Mẫu). Trên đỉnh núi hiện 
								vẫn còn vết tích của những hang đá sâu, hệ thống 
								hầm hào, lô cốt của Pháp.  
								
								
								Trong những năm gần đây, 
								với chủ trương khai thác tiềm năng của núi Cấm 
								phục vụ cho việc phát triển kinh tế, văn hoá- xã 
								hội. Núi cấm đã được đầu tư xây dựng tháp truyền 
								hình lớn của tỉnh, và một số thiết chế văn hóa 
								du lịch. Từ dưới chân núi (cầu Yên Biên II) ta 
								có thể đi lên núi bằng xe máy, ô tô đến lưng 
								chừng núi, tiếp tục đi bộ theo con đường bậc 
								thang đổ bê tông ngoằn nghèo cạnh sườn núi, luồn 
								lách qua những kẽ đá tai mèo dựng đứng, bên là 
								vực sâu thăm thẳm với những dây song mây rậm rạp 
								đưa ta trở về ngược dòng thời gian, tìm thấy 
								những dấu ấn lịch sử của “Cấm sơn”. Từ trên đỉnh 
								núi ta có thể nhìn thấy toàn bộ phong cảnh thị 
								xã Hà Giang thơ mộng. Năm ngả đường đổ về thị xã, 
								hoà quyện cùng với hai dòng hợp lưu của sông Lô 
								và sông Miện trong xanh chảy giữa lòng thị xã, 
								xung quanh thị xã là những dãy núi thế Rồng chầu 
								Hổ phục, bao quanh những công viên cây xanh và 
								những khu đô thị sầm uất, thể hiện sự bền bỉ và 
								trường tồn của một thị xã đầy tiềm năng du lịch.  
								
								
								Hiện nay “Cấm sơn” hàng 
								ngày đón nhiều du khách trong và ngoài tỉnh tới 
								tham quan và chiêm ngưỡng cảnh đẹp của thị xã Hà 
								Giang đầy thơ mộng.  
								
								
								Với nét đẹp kỳ vĩ của núi 
								Cấm và sự đầu tư khai thác phát triển du lịch, 
								hy vọng núi Cấm sẽ là một kỳ quan, điểm du lịch 
								hấp dẫn nhất của thị xã trong tương lai  
							 | 
						 
						
							
							
  | 
						 
						
							| 
							
							ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG | 
						 
						
							
							
								
								 Ðồng 
								Văn (Hà Giang) được biết đến với trập trùng núi 
								đá, khí trời ở độ cao chừng 1.000 m mát mẻ suốt 
								mùa hè (ngày nóng nhất cũng chỉ 240C). Ở đây có 
								"cổng trời" Thẩm Mã, dốc Chín Khoanh, núi non 
								với thung lũng ruộng bậc thang.  
								Với khí hậu gần như ôn đới, Ðồng Văn mùa xuân 
								bạt ngàn hoa đào, hoa mơ, hoa mận. Cuối xuân và 
								suốt mùa hè, mùa thu là mùa của những trái ngon 
								nổi tiếng. Rừng Ðồng Văn khá giàu các loài thực 
								vật, không hiếm cây gỗ quý, lại nổi tiếng về các 
								cây thuốc quí như tam thất, sinh địa, hồi, quế...
								
								
								Núi thì trập trùng vách 
								dựng, vừa hiểm trở vừa kỳ vĩ, với không ít hang 
								động trời sinh. Khi kinh tế du lịch vùng này mở 
								mang, các hành trình du lịch được hoạch định và 
								tu tạo thêm mạng đường sá cho thuận tiện, thì 
								những chuyến "du lịch hoang sơ", "du lịch mạo 
								hiểm" thăm rừng già, thăm hang động nguyên sơ sẽ 
								hấp dẫn vô cùng.  
								
								
								Nếu thăm Ðồng Văn vào dịp 
								chợ phiên, nhất là vào cữ xuân sang, bạn sẽ được 
								thấy hết sức sống của thiên nhiên, của con người, 
								của sắc mầu văn hóa độc đáo của đồng bào Mông, 
								Dao, Pu Péo, Hà Nhì... từ lâu đời sinh sống, gìn 
								giữ đất này. Chợ phiên mở ở trung tâm huyện lỵ 
								Ðồng Văn, nay phố sá đã đông vui, không hiếm 
								hàng quán và nhà nghỉ cho khách đường xa. Chợ 
								phiên là cả một cuộc triển lãm sản vật của đất, 
								của rừng qua bàn tay lam lũ của con người. Phong 
								phú nhất là hoa trái và dược liệu, cùng ngô, đậu, 
								rau củ... Tất cả toát lên sức sống xiết bao bền 
								bỉ của con người sống trên núi đá  
								
								
								Đồng bào Mông đi chợ như 
								là đi hội, trước hết để hưởng thú vui cả nhà 
								quây quần bên chảo "thắng cố" (thịt bò hầm) sôi 
								sùng sục tỏa mùi thơm ngậy, thưởng thức món ăn 
								truyền thống này cùng với "mèn mén" (bánh bột 
								ngô) mang theo. Chợ phiên cũng là nơi tỏ bày, 
								giao cảm cái vui cộng đồng, hào hứng những đám 
								hát múa tình tứ và dặt dìu tiếng khèn bè, khiến 
								du khách có thể cảm nhận chiều sâu tâm khảm văn 
								hóa của một vùng cao.  
								
								
								Ðồng Văn hiện có thêm điểm 
								nhấn hấp dẫn, đó là di tích văn hóa - nghệ thuật 
								Nhà Vương trong thung lũng Sà Phìn vừa được Nhà 
								nước trùng tu nguyên dạng. Dinh thự này bề thế, 
								uy nghi, kiến trúc hình chữ "vương" (vua), tọa 
								lạc trên quả đồi hình mai rùa, được xây dựng 
								bằng tài năng điêu luyện của thợ đá đến từ Vân 
								Nam (Trung Quốc) và thợ giỏi nhất của người Mông, 
								kén toàn đá xanh, gỗ pơ-mu, ngói đất nung già, 
								chạm trổ tỉ mỉ, công phu, đẹp mắt những hình chủ 
								đạo là rồng, phượng, dơi... tượng trưng quyền 
								quí và hưng thịnh. Dinh thự bị đổ nát nay trùng 
								tu xong, có tường thành bao bọc, gồm tiền dinh 
								có sân tiền, sân hậu; cùng hai dãy nhà ngang để 
								tiếp khách và sinh hoạt gia đình; ngoài ra vẫn 
								có bể nước và chuồng ngựa, gia súc như xưa. Nội 
								thất cũng được làm mới theo mẫu cũ như khung 
								cửi, giường, tủ... Từ trên đường lưng núi nhìn 
								xuống thung lũng, vẫn thấy nổi bật lên những nếp 
								mái dinh thự tạo hình chữ "vương" với mầu sắc 
								xen kẽ trắng đục, hồng nhạt và đỏ tươi. Khách 
								muốn biết nhiều hơn về lai lịch ngôi nhà, còn có 
								thể hỏi chuyện con cháu họ Vương hiện sống gần 
								di tích, trong những ngôi nhà chính quyền địa 
								phương xây tặng. Rồi đây, dinh thự độc đáo hiếm 
								thấy ở miền núi này sẽ trở thành một bảo tàng 
								văn hóa các dân tộc trong vùng, khi các hiện vật 
								chọn lọc được sưu tầm và trưng bày hệ thống...  
							 | 
						 
						
							
							
  | 
						 
						
							| 
							
							LŨNG CÚ - HÀ GIANG | 
						 
						
							
							
								
								 Lũng 
								Cú - Đồng Văn - Hà Giang: Nếu bạn là người thích 
								du lịch, ưa khám phá hãy làm một cuộc hành trình 
								về cao nguyên đá Lũng Cú - Đồng Văn, đắm mình 
								trong chốn thiên nhiên hùng vĩ, giữa những vách 
								đá cao sừng sững được tô điểm bởi những nếp nhà 
								sàn xinh xắn, những ô ruộng bậc thang đan xen 
								chênh vênh sườn núi, thấp thoáng bóng các cô gái 
								dân tộc Mông trong những bộ váy áo rực rỡ đang 
								cần mẫn làm nương...  
								
								
								Từ Hà Nội bạn đi về hướng 
								Bắc theo quốc lộ 2, vượt qua trùng điệp những 
								ngọn đồi xanh ngút ngàn của những rừng cọ, đồi 
								chè để đến với thị xã Hà Giang. Từ thị xã Hà 
								Giang đến cao nguyên Đồng Văn còn phải đi 146km. 
								Con đường chạy men theo các triền núi đá, nay 
								được trải nhựa qua nhiều dốc và đèo cua gấp liên 
								tục, bên thì vách đá dựng đứng, bên thì vực sâu 
								thăm thẳm, càng đi con đường càng trở nên kỷ 
								diệu dẫn bạn vào một khung cảnh thiên nhiên hùng 
								vĩ đẹp như tranh. Đỉnh cổng trời gần như quanh 
								năm chìm trong sương, qua đây bạn có cảm giác 
								như lạc vào một mê cung huyền ảo, không phải chỉ 
								có một dốc cổng trời Quản Bạ mà còn nhiều dốc 
								cao khác: Pắc Sum, Na Khê, Mã Pí Lèng. Đến với 
								Đồng Văn dẻo cao vực thẳm là dịp để thử lòng can 
								đảm của bạn. Nhưng đổi lại bạn có được những 
								ngày tuyệt vời không gì sánh được. Ngoài phong 
								cảnh, Đồng Văn còn có cả một kho tàng văn hóa 
								truyền thống của 22 dân tộc anh em chung sống 
								trên vùng đất cực Bắc của Tổ quốc. Điều đó đã 
								tạo ra một nét đẹp riêng cho vùng du lịch sinh 
								thái đầy tiềm năng này. Đặc biệt, thiên nhiên ưu 
								đãi cho vùng nơi đây khí hậu á nhiệt đới quanh 
								năm mát mẻ, rất thích hợp để phát triển các loại 
								cây ăn quả: lê, táo, mận... và đào Lũng Cú quả 
								to, dày cùi, đã giòn lại ngọt nên trở thảnh dặc 
								sản của vùng cao và là cây trồng chủ lực trong 
								kinh tế địa phương.  
								
								
								Quả thật, đến Hà Giang ai 
								cũng mong một lần được lên cao nguyên Đồng Văn, 
								được đặt chân trên mỏm đất Lũng Cú - nơi địa đầu 
								của Tổ quốc. Từ Đồng Văn đến đỉnh chóp Lũng Cú 
								triền miên núi đá, núi trập trùng từng lớp ken 
								nhau, đường đi cheo leo bên vách đá, bên vực sâu 
								nhìn lên cao hoặc nhìn xuống thung lũng đều xa 
								ngút tầm mắt. Đứng trên đường nhìn xuống sông 
								Nho Quế, dòng sông chỉ còn như sợi chỉ mong manh. 
								Bạn có thể đi trên sông Nho Quế bằng thuyền độc 
								mộc, vừa ngắm cảnh vừa nghe người lái đò kể 
								truyền thuyết bí ẩn vùng núi cao. Dễ hiểu tại 
								sao Lũng Cú lại hút hồn và níu chân du khách đến 
								thế!  
								
								
								Lũng Cú - Đồng Văn, núi đá 
								chất ngất lưng trời. Ba phần tư diện tích tự 
								nhiên là đá. Cây ngô tựa vào hốc đá mà lên, cây 
								đậu, cây rau nảy mầm đơm hoa trong vách đá. Đến 
								các giường nằm, cái bếp lò của người Mông cũng 
								kê vào tảng đá, rồi tường bao quanh nhà, chuồng 
								bò, chuồng ngựa tất cả đều xếp bằng đá, vì vậy 
								mùa đông trên cao nguyên đá này chỉ có một màu 
								đá xám mênh mông. Bây giờ là mùa xuân, hoa mận 
								nở trắng rừng Lũng Cú, xen lẫn những hạt tuyết 
								còn sót lại long lanh dưới tia nắng mặt trời. 
								Dưới thung lũng hoa đào rực lên trong sương sớm, 
								thấp thoáng nhưng dải sa mộc bạt ngàn như hàng 
								ngàn chiếc ô vươn lên bất chấp sương, tuyết, gió 
								lạnh.  
								
								
								Nếu bạn lên Lũng Cú vào 
								mùa hè, bạn sẽ thấy những trái lê, táo, mận, đào 
								quả to và thơm ngon nổi tiếng được thồ chất ngất 
								trên lưng ngựa mang xuống bán cùng các sản vật 
								khác tại phiên chợ Lũng Cú. Chợ thuộc loại lớn 
								nơi địa đầu cực Bắc, từ lúc trời chưa rạng, men 
								theo các triền núi chênh vênh mờ sương người ta 
								hăm hở đạp trên đá tai mèo xuống chợ. Con trai 
								đem theo khèn, con gái cõng quẩy tẩu, cắp ô, 
								tiếng lục lạc, tiếng ngựa hý âm vang cả núi rừng, 
								họ rảo bước để sớm có mặt ở chợ. Phiên chợ vừa 
								là nơi trao đổi hàng hóa vừa là nơi gặp gỡ bạn 
								bè. Nhộn nhịp nhất là các hàng bán váy áo, chỉ 
								thêu, đám phụ nữ hớn hở khoe váy áo mới, khăn 
								mới, đám đàn ông tụ tập thành nhóm thổi khèn lá, 
								khèn bè, đàn môi mời gọi bạn tình, rượu ngô 
								trong vắt rót tràn bát để mời nhau bên những nồi 
								thắng cố sôi sùng sục trên bếp lửa hồng. Chiều 
								về khi bóng đã ngả dài cũng là lúc tan chợ. 
								Tiếng vó ngựa. tiếng cười nói xa dần, đây đó chỉ 
								còn âm vang tiếng sáo mèo dìu dặt…  
								
								
								Bí thư Đảng ủy xã Lũng Cú, 
								Lầu A Páo nói với chúng tôi: “Lũng Cú còn lưu 
								giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc, đặc 
								biệt là của dân tộc Mông và Lô Lô. Người Mông 
								rất quý khách, vào nhà người Mông bạn sẽ là 
								khách quý, là anh em, dù bạn đến cao nguyên đá 
								lần đầu, bát rượu ngô nồng say sẽ làm ấm lòng 
								bạn. Người Lô Lô đã có mặt ở Lũng Cú từ rất sớm, 
								dân tộc Lô Lô có công khai hoang và trụ lại ở 
								mảnh đất địa đầu này.  
								
								
								Bộ trống cổ là bảo vật của 
								dân tộc Lô Lô, những ngày lễ hội điệu trống của 
								người Lô Lô âm vang một vùng núi cao". Anh Lầu A 
								Páo còn cho biết thêm: “Đường vào Lũng Cú đang 
								san ủi để nâng cấp. Khi hoàn thành công việc này 
								Tỉnh sẽ xây dựng thêm các công trình văn hóa và 
								cơ sở hạ tầng tại Lũng Cú để đón khách tham quan 
								du lịch”.  
								
								
								Đường từ đồn biên phòng 
								Lũng Cú đến cột cờ dài 12 km, uốn khúc quanh co 
								qua nhiều triền núi với khung cảnh núi rừng hùng 
								vĩ, bao la, thung lũng Lô Lô chợt hiện ra đột 
								ngột, phong quang và bảng lảng sương khói. Những 
								cây đào ở bản Lô Lô vạm vỡ, gốc xù xì quả sai 
								chĩu chịt. Thấp thoáng bóng các cô gái Mông, Lô 
								Lô đang gieo trồng chăm bón những vạt ngô trên 
								hốc đá. Xe vừa vòng qua hết một ngọn núi này thì 
								ngọn núi khác cao hơn như đã ập vào mắt mình. 
								Núi tiếp núi trùng điệp, bên là vách núi bên kia 
								là thung lũng nhìn xuống chỉ thấy một màu xanh 
								của ngô. Càng lên cao không khí càng mát mẻ và 
								lạnh dần, thiên nhiên được mở ra thêm kỳ vĩ, gây 
								cảm giác choáng ngợp bởi không gian rộng lớn và 
								núi non quá hùng vĩ. Đường lên cột cờ Lũng Cú 
								đang mở tương đối rộng nhưng nhìn lại chỉ như 
								dải lụa trắng vắt qua những dãy núi, ngọn đồi. 
								Thấp thoáng phía xa xa có thác nước len lỏi sau 
								những vách đá, thỉnh thoảng lại thấy vài nếp nhà 
								sàn ẩn hiện sau những bức tường xếp bằng dá. Từ 
								rất xa đã nhìn thấy lá cờ đỏ in trên nền trời 
								xanh bồng bềnh mây trắng, chúng tôi háo hức muốn 
								đến ngay cột cờ trên đỉnh núi Rồng. Đồn trưởng 
								đồn biên phòng Lũng Cú, Giàng A Ly xúc động nói: 
								“Lũng Cú tiếng Mông là lũng ngô, nhưng núi Rồng 
								lại là địa danh có thật. Trên chóp đỉnh núi Rồng 
								bao năm rồi đêm ngày phần phật tung bay lá cờ đỏ 
								sao vàng, một biểu tượng thiêng liêng của chủ 
								quyền đất nước và cũng là niềm tin và sức mạnh 
								của người dân Lũng Cú đời đời gắn bó với non 
								sông đất Việt”.  
								
								
								Từ chân núi Rồng chúng tôi 
								vịn đá, vịn cây băng qua những lùm hoa kim ngân 
								leo lên, chừng hơn 300m thì đến cột cờ, thân cột 
								cờ bằng bê tông, sáu mặt, cao 17m sừng sững trên 
								đỉnh núi Rồng. Nhìn xuống, những bản làng xinh 
								xắn, những ô ruộng bậc thang đan xen. Nhìn lên, 
								phấp phới lá cờ đỏ sao vàng rộng 54m. Cả đoàn 
								người lặng đi, ngắm lá cờ cuộn bay uy nghi, tất 
								cả đã lý giải sức tồn tại mãnh liệt đến kỳ diệu 
								của dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm dựng nước và 
								giữ nước.  
								
								
								Lũng Cú “chóp nón” khổng 
								lồ, mảnh đất địa đầu của Tổ quốc luôn ở trong 
								lòng chúng ta, gần gũi và thiêng liêng đến vô 
								cùng  
							 | 
						 
					 
				 
				 | 
			 
		 
		Nguồn: saigontoserco  |