|
ĐỊA DANH DU LỊCH HÀ GIANG - CÁC ĐỊA
ĐIỂM DU LỊCH HÀ GIANG |
SÔNG GÂM - HÀ GIANG
|
Sông
Gâm Hà Giang: Du lịch đi du thuyền, khám phá
sông nước độc đáo trên dòng sông Gâm của tỉnh
Hà Giang những ngày nghỉ cũng là một lựa
chọn khá thú vị. Cảnh đẹp và sự kỳ vĩ
của sông Gâm đang dần trở thành một điểm
đến đầy thu hút với nhiều khách du lịch
gần xa.
Từ bến thuyền nơi đầu phố huyện Bắc Mê, thuyền
xuôi chừng 3,5 giờ sẽ đến Nhà máy Thuỷ điện
Tuyên Quang ở huyện Na Hang. Khi du khách tập
trung tại bến đò bên bờ sông Gâm thực hiện tua
du lịch khám phá lòng hồ. Một đội thuyền máy đã
sẵn sàng chở khách xuôi dòng Gâm.
Đoàn thuyền thể hiện tính
chuyên nghiệp cao về du lịch: Mỗi thuyền máy
Cole chở khoảng 40 người, mái thuyền ốp trần gỗ,
có điện, sàn thuyền dải chiếu hoặc tấm nhựa cho
du khách ngồi hai bên mạn thuyền, ở giữa là một
dãy bàn phục vụ khách. Trong thuyền còn được
trang bị hệ thống tăng âm, loa đài để khách du
lịch giao lưu văn nghệ.
Thuyền dời bến chừng 1km
thì dòng nước đục đã biến mất, thay vào là "biển
nước" xanh biếc của dòng Gâm. Thỉnh thoảng những
chiếc thuyền ngược, thuyền xuôi của người dân xã
Thượng Tân, của huyện bạn Na Hang chạy qua lại
tạo cảnh tấp nập của một vùng sông nước. Ngồi
trên thuyền, ngắm "biển nước" xanh biếc của dòng
Gâm mới thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên và lòng
quả cảm của con người chinh phục dòng Gâm để
phục vụ lợi ích Quốc gia. Đôi bờ sông vẫn còn
giữ được những rừng cây hoang sơ, những cây cổ
thụ cao hàng chục mét soi bóng xuống dòng sông,
thấp thoáng ven bờ là những vạt chuối rừng xanh
thẫm. Bất ngờ, hai bên bờ xuất hiện những dãy
núi đá cao ngất, vách dựng thẳng đứng trông như
cửa ải trấn giữ cho vùng thượng nguồn. Những nhũ
đá từ trên vách núi rủ xuống tạo thành những
hình thù lạ mắt, trước kia người đi thuyền phải
ngước cổ lên nhìn thì nay đã gần ngang mặt nước.
Càng xuôi dòng, diện tích mặt nước càng trải
rộng mênh mông, ngắm vút tầm mắt của du khách.
Bất chợt, xuất hiện những đảo nhỏ nổi lên giữa
bao la biển nước, trước kia đó chính là những
dải đồi, núi cao nay đã bị dòng nước vùi ngập,
chỉ còn những ngọn cao chồi lên khỏi mặt nước.
Nếu so sánh với các địa danh khác như hồ Ba Bể (Bắc
Kạn), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), hồ Thuỷ điện Hoà
Bình (Hoà Bình) thì tua du lịch lòng hồ Thủy
điện Tuyên Quang không hề kém hấp dẫn.
Thuyền xuôi đến trưa thì
cập vào một đảo cũng là lúc chủ thuyền bê lên cá
chép nướng, thịt nướng, thịt gà nướng ăn cùng
với xôi và những chén rượu làm ấm lòng du khách.
Một Bắc Mê mới "trên bến dưới thuyền" đang hiện
hữu, sông Gâm hiền hoà ngày nào đang phục vụ
công trình lớn cho đất nước, đang trở thành dòng
sông kinh tế, đang mời gọi du khách đến khám phá,
tham quan
|
CẤM SƠN - HÀ GIANG |
Cấm
Sơn Hà Giang: Không phải thị xã nào cũng được
thiên nhiên ban tặng cho một địa thế đẹp như vậy.
Thị xã Hà Giang đã được sự ưu ái đến hậu hĩnh,
ngay giữa lòng thị xã “Cấm Sơn” nổi lên như một
kỳ quan thiên nhiên kỳ vĩ. “Cấm Sơn” thuộc
phường Nguyễn Trãi.
Theo kết cấu địa chất núi
được chia thành hai vùng riêng biệt. Phía từ
đỉnh núi chạy dài theo dốc Mã Tim chủ yếu là núi
đá vôi tai mèo với địa hình hiểm trở, hang sâu
vách đá dựng đứng, như con Sư Tử với dáng oai vệ.
Từ trên đỉnh núi trải dài về phía sông Lô là
rừng núi đất, sườn núi vách dốc trải dài suốt từ
đường 19/5 đến Quảng trường 26/3. Dưới chân núi
“Cấm Sơn” là những phố phường đông đúc dân cư
làm ăn sầm uất.
Nhưng chắc rằng người dân
Hà Giang ít ai có thể hiểu, thấy hết được những
vẻ đẹp tự nhiên, song cũng đầy huyền bí của “Cấm
Sơn”, vì là núi đá hiểm trở nên có rất ít đường
lên núi, chỉ có một con đường độc đạo duy nhất
có thể leo lên đỉnh núi. Trên đỉnh núi, nơi có
một hang sâu thẳm, thẳng đứng như một cái “giếng
trời”. Chính với địa thế hiểm trở và độc đáo này
mà khi thực dân Pháp xâm lược, đã chọn nơi đây
là chốt canh giữ chính, để bảo vệ thị xã.
Theo truyền thuyết được
lưu truyền trong dân gian, đội quân “cờ đen” của
Lưu Vĩnh Phúc, khoảng những năm 1870 - 1875, địa
hạt Hà Giang có đội quân “cờ vàng” của Hoàng
Sùng Anh kéo đến để cướp bóc, chúng bị đội quân
của đồng bào các dân tộc là “Quân cờ trắng” đánh
trả quyết liệt, bao vây truy kích, năm 1875,
quân “Cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh bị co cụm, đội
quân của mình lên núi Cấm để cố thủ, lương thực
cạn kiệt dần, xung quanh núi Cấm lại bị bao vây
chặt chẽ, biết không thể thoát, cả tướng lẫn
quân “Cờ vàng” đã nhảy xuống hang sâu trên núi
tự vẫn. Với tấm lòng bao dung và nhân ái nhân
dân địa phương đã lập ngôi miếu thờ nhỏ, cầu
nguyện cho những linh hồn oan khuất được siêu
thoát. Núi đã trở thành nơi linh thiêng ít có
người dám lên, núi “Cấm sơn” càng trở nên huyền
bí. Trải qua những năm tháng thăng trầm của thời
gian miếu thờ cũng không còn nữa dân địa phương
đã đưa về thờ tại “Cấm Sơn Linh Từ” dịch là ngôi
đền núi Cấm(nay là đền Mẫu). Trên đỉnh núi hiện
vẫn còn vết tích của những hang đá sâu, hệ thống
hầm hào, lô cốt của Pháp.
Trong những năm gần đây,
với chủ trương khai thác tiềm năng của núi Cấm
phục vụ cho việc phát triển kinh tế, văn hoá- xã
hội. Núi cấm đã được đầu tư xây dựng tháp truyền
hình lớn của tỉnh, và một số thiết chế văn hóa
du lịch. Từ dưới chân núi (cầu Yên Biên II) ta
có thể đi lên núi bằng xe máy, ô tô đến lưng
chừng núi, tiếp tục đi bộ theo con đường bậc
thang đổ bê tông ngoằn nghèo cạnh sườn núi, luồn
lách qua những kẽ đá tai mèo dựng đứng, bên là
vực sâu thăm thẳm với những dây song mây rậm rạp
đưa ta trở về ngược dòng thời gian, tìm thấy
những dấu ấn lịch sử của “Cấm sơn”. Từ trên đỉnh
núi ta có thể nhìn thấy toàn bộ phong cảnh thị
xã Hà Giang thơ mộng. Năm ngả đường đổ về thị xã,
hoà quyện cùng với hai dòng hợp lưu của sông Lô
và sông Miện trong xanh chảy giữa lòng thị xã,
xung quanh thị xã là những dãy núi thế Rồng chầu
Hổ phục, bao quanh những công viên cây xanh và
những khu đô thị sầm uất, thể hiện sự bền bỉ và
trường tồn của một thị xã đầy tiềm năng du lịch.
Hiện nay “Cấm sơn” hàng
ngày đón nhiều du khách trong và ngoài tỉnh tới
tham quan và chiêm ngưỡng cảnh đẹp của thị xã Hà
Giang đầy thơ mộng.
Với nét đẹp kỳ vĩ của núi
Cấm và sự đầu tư khai thác phát triển du lịch,
hy vọng núi Cấm sẽ là một kỳ quan, điểm du lịch
hấp dẫn nhất của thị xã trong tương lai
|
|
ĐỒNG VĂN - HÀ GIANG |
Ðồng
Văn (Hà Giang) được biết đến với trập trùng núi
đá, khí trời ở độ cao chừng 1.000 m mát mẻ suốt
mùa hè (ngày nóng nhất cũng chỉ 240C). Ở đây có
"cổng trời" Thẩm Mã, dốc Chín Khoanh, núi non
với thung lũng ruộng bậc thang.
Với khí hậu gần như ôn đới, Ðồng Văn mùa xuân
bạt ngàn hoa đào, hoa mơ, hoa mận. Cuối xuân và
suốt mùa hè, mùa thu là mùa của những trái ngon
nổi tiếng. Rừng Ðồng Văn khá giàu các loài thực
vật, không hiếm cây gỗ quý, lại nổi tiếng về các
cây thuốc quí như tam thất, sinh địa, hồi, quế...
Núi thì trập trùng vách
dựng, vừa hiểm trở vừa kỳ vĩ, với không ít hang
động trời sinh. Khi kinh tế du lịch vùng này mở
mang, các hành trình du lịch được hoạch định và
tu tạo thêm mạng đường sá cho thuận tiện, thì
những chuyến "du lịch hoang sơ", "du lịch mạo
hiểm" thăm rừng già, thăm hang động nguyên sơ sẽ
hấp dẫn vô cùng.
Nếu thăm Ðồng Văn vào dịp
chợ phiên, nhất là vào cữ xuân sang, bạn sẽ được
thấy hết sức sống của thiên nhiên, của con người,
của sắc mầu văn hóa độc đáo của đồng bào Mông,
Dao, Pu Péo, Hà Nhì... từ lâu đời sinh sống, gìn
giữ đất này. Chợ phiên mở ở trung tâm huyện lỵ
Ðồng Văn, nay phố sá đã đông vui, không hiếm
hàng quán và nhà nghỉ cho khách đường xa. Chợ
phiên là cả một cuộc triển lãm sản vật của đất,
của rừng qua bàn tay lam lũ của con người. Phong
phú nhất là hoa trái và dược liệu, cùng ngô, đậu,
rau củ... Tất cả toát lên sức sống xiết bao bền
bỉ của con người sống trên núi đá
Đồng bào Mông đi chợ như
là đi hội, trước hết để hưởng thú vui cả nhà
quây quần bên chảo "thắng cố" (thịt bò hầm) sôi
sùng sục tỏa mùi thơm ngậy, thưởng thức món ăn
truyền thống này cùng với "mèn mén" (bánh bột
ngô) mang theo. Chợ phiên cũng là nơi tỏ bày,
giao cảm cái vui cộng đồng, hào hứng những đám
hát múa tình tứ và dặt dìu tiếng khèn bè, khiến
du khách có thể cảm nhận chiều sâu tâm khảm văn
hóa của một vùng cao.
Ðồng Văn hiện có thêm điểm
nhấn hấp dẫn, đó là di tích văn hóa - nghệ thuật
Nhà Vương trong thung lũng Sà Phìn vừa được Nhà
nước trùng tu nguyên dạng. Dinh thự này bề thế,
uy nghi, kiến trúc hình chữ "vương" (vua), tọa
lạc trên quả đồi hình mai rùa, được xây dựng
bằng tài năng điêu luyện của thợ đá đến từ Vân
Nam (Trung Quốc) và thợ giỏi nhất của người Mông,
kén toàn đá xanh, gỗ pơ-mu, ngói đất nung già,
chạm trổ tỉ mỉ, công phu, đẹp mắt những hình chủ
đạo là rồng, phượng, dơi... tượng trưng quyền
quí và hưng thịnh. Dinh thự bị đổ nát nay trùng
tu xong, có tường thành bao bọc, gồm tiền dinh
có sân tiền, sân hậu; cùng hai dãy nhà ngang để
tiếp khách và sinh hoạt gia đình; ngoài ra vẫn
có bể nước và chuồng ngựa, gia súc như xưa. Nội
thất cũng được làm mới theo mẫu cũ như khung
cửi, giường, tủ... Từ trên đường lưng núi nhìn
xuống thung lũng, vẫn thấy nổi bật lên những nếp
mái dinh thự tạo hình chữ "vương" với mầu sắc
xen kẽ trắng đục, hồng nhạt và đỏ tươi. Khách
muốn biết nhiều hơn về lai lịch ngôi nhà, còn có
thể hỏi chuyện con cháu họ Vương hiện sống gần
di tích, trong những ngôi nhà chính quyền địa
phương xây tặng. Rồi đây, dinh thự độc đáo hiếm
thấy ở miền núi này sẽ trở thành một bảo tàng
văn hóa các dân tộc trong vùng, khi các hiện vật
chọn lọc được sưu tầm và trưng bày hệ thống...
|
|
LŨNG CÚ - HÀ GIANG |
Lũng
Cú - Đồng Văn - Hà Giang: Nếu bạn là người thích
du lịch, ưa khám phá hãy làm một cuộc hành trình
về cao nguyên đá Lũng Cú - Đồng Văn, đắm mình
trong chốn thiên nhiên hùng vĩ, giữa những vách
đá cao sừng sững được tô điểm bởi những nếp nhà
sàn xinh xắn, những ô ruộng bậc thang đan xen
chênh vênh sườn núi, thấp thoáng bóng các cô gái
dân tộc Mông trong những bộ váy áo rực rỡ đang
cần mẫn làm nương...
Từ Hà Nội bạn đi về hướng
Bắc theo quốc lộ 2, vượt qua trùng điệp những
ngọn đồi xanh ngút ngàn của những rừng cọ, đồi
chè để đến với thị xã Hà Giang. Từ thị xã Hà
Giang đến cao nguyên Đồng Văn còn phải đi 146km.
Con đường chạy men theo các triền núi đá, nay
được trải nhựa qua nhiều dốc và đèo cua gấp liên
tục, bên thì vách đá dựng đứng, bên thì vực sâu
thăm thẳm, càng đi con đường càng trở nên kỷ
diệu dẫn bạn vào một khung cảnh thiên nhiên hùng
vĩ đẹp như tranh. Đỉnh cổng trời gần như quanh
năm chìm trong sương, qua đây bạn có cảm giác
như lạc vào một mê cung huyền ảo, không phải chỉ
có một dốc cổng trời Quản Bạ mà còn nhiều dốc
cao khác: Pắc Sum, Na Khê, Mã Pí Lèng. Đến với
Đồng Văn dẻo cao vực thẳm là dịp để thử lòng can
đảm của bạn. Nhưng đổi lại bạn có được những
ngày tuyệt vời không gì sánh được. Ngoài phong
cảnh, Đồng Văn còn có cả một kho tàng văn hóa
truyền thống của 22 dân tộc anh em chung sống
trên vùng đất cực Bắc của Tổ quốc. Điều đó đã
tạo ra một nét đẹp riêng cho vùng du lịch sinh
thái đầy tiềm năng này. Đặc biệt, thiên nhiên ưu
đãi cho vùng nơi đây khí hậu á nhiệt đới quanh
năm mát mẻ, rất thích hợp để phát triển các loại
cây ăn quả: lê, táo, mận... và đào Lũng Cú quả
to, dày cùi, đã giòn lại ngọt nên trở thảnh dặc
sản của vùng cao và là cây trồng chủ lực trong
kinh tế địa phương.
Quả thật, đến Hà Giang ai
cũng mong một lần được lên cao nguyên Đồng Văn,
được đặt chân trên mỏm đất Lũng Cú - nơi địa đầu
của Tổ quốc. Từ Đồng Văn đến đỉnh chóp Lũng Cú
triền miên núi đá, núi trập trùng từng lớp ken
nhau, đường đi cheo leo bên vách đá, bên vực sâu
nhìn lên cao hoặc nhìn xuống thung lũng đều xa
ngút tầm mắt. Đứng trên đường nhìn xuống sông
Nho Quế, dòng sông chỉ còn như sợi chỉ mong manh.
Bạn có thể đi trên sông Nho Quế bằng thuyền độc
mộc, vừa ngắm cảnh vừa nghe người lái đò kể
truyền thuyết bí ẩn vùng núi cao. Dễ hiểu tại
sao Lũng Cú lại hút hồn và níu chân du khách đến
thế!
Lũng Cú - Đồng Văn, núi đá
chất ngất lưng trời. Ba phần tư diện tích tự
nhiên là đá. Cây ngô tựa vào hốc đá mà lên, cây
đậu, cây rau nảy mầm đơm hoa trong vách đá. Đến
các giường nằm, cái bếp lò của người Mông cũng
kê vào tảng đá, rồi tường bao quanh nhà, chuồng
bò, chuồng ngựa tất cả đều xếp bằng đá, vì vậy
mùa đông trên cao nguyên đá này chỉ có một màu
đá xám mênh mông. Bây giờ là mùa xuân, hoa mận
nở trắng rừng Lũng Cú, xen lẫn những hạt tuyết
còn sót lại long lanh dưới tia nắng mặt trời.
Dưới thung lũng hoa đào rực lên trong sương sớm,
thấp thoáng nhưng dải sa mộc bạt ngàn như hàng
ngàn chiếc ô vươn lên bất chấp sương, tuyết, gió
lạnh.
Nếu bạn lên Lũng Cú vào
mùa hè, bạn sẽ thấy những trái lê, táo, mận, đào
quả to và thơm ngon nổi tiếng được thồ chất ngất
trên lưng ngựa mang xuống bán cùng các sản vật
khác tại phiên chợ Lũng Cú. Chợ thuộc loại lớn
nơi địa đầu cực Bắc, từ lúc trời chưa rạng, men
theo các triền núi chênh vênh mờ sương người ta
hăm hở đạp trên đá tai mèo xuống chợ. Con trai
đem theo khèn, con gái cõng quẩy tẩu, cắp ô,
tiếng lục lạc, tiếng ngựa hý âm vang cả núi rừng,
họ rảo bước để sớm có mặt ở chợ. Phiên chợ vừa
là nơi trao đổi hàng hóa vừa là nơi gặp gỡ bạn
bè. Nhộn nhịp nhất là các hàng bán váy áo, chỉ
thêu, đám phụ nữ hớn hở khoe váy áo mới, khăn
mới, đám đàn ông tụ tập thành nhóm thổi khèn lá,
khèn bè, đàn môi mời gọi bạn tình, rượu ngô
trong vắt rót tràn bát để mời nhau bên những nồi
thắng cố sôi sùng sục trên bếp lửa hồng. Chiều
về khi bóng đã ngả dài cũng là lúc tan chợ.
Tiếng vó ngựa. tiếng cười nói xa dần, đây đó chỉ
còn âm vang tiếng sáo mèo dìu dặt…
Bí thư Đảng ủy xã Lũng Cú,
Lầu A Páo nói với chúng tôi: “Lũng Cú còn lưu
giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc, đặc
biệt là của dân tộc Mông và Lô Lô. Người Mông
rất quý khách, vào nhà người Mông bạn sẽ là
khách quý, là anh em, dù bạn đến cao nguyên đá
lần đầu, bát rượu ngô nồng say sẽ làm ấm lòng
bạn. Người Lô Lô đã có mặt ở Lũng Cú từ rất sớm,
dân tộc Lô Lô có công khai hoang và trụ lại ở
mảnh đất địa đầu này.
Bộ trống cổ là bảo vật của
dân tộc Lô Lô, những ngày lễ hội điệu trống của
người Lô Lô âm vang một vùng núi cao". Anh Lầu A
Páo còn cho biết thêm: “Đường vào Lũng Cú đang
san ủi để nâng cấp. Khi hoàn thành công việc này
Tỉnh sẽ xây dựng thêm các công trình văn hóa và
cơ sở hạ tầng tại Lũng Cú để đón khách tham quan
du lịch”.
Đường từ đồn biên phòng
Lũng Cú đến cột cờ dài 12 km, uốn khúc quanh co
qua nhiều triền núi với khung cảnh núi rừng hùng
vĩ, bao la, thung lũng Lô Lô chợt hiện ra đột
ngột, phong quang và bảng lảng sương khói. Những
cây đào ở bản Lô Lô vạm vỡ, gốc xù xì quả sai
chĩu chịt. Thấp thoáng bóng các cô gái Mông, Lô
Lô đang gieo trồng chăm bón những vạt ngô trên
hốc đá. Xe vừa vòng qua hết một ngọn núi này thì
ngọn núi khác cao hơn như đã ập vào mắt mình.
Núi tiếp núi trùng điệp, bên là vách núi bên kia
là thung lũng nhìn xuống chỉ thấy một màu xanh
của ngô. Càng lên cao không khí càng mát mẻ và
lạnh dần, thiên nhiên được mở ra thêm kỳ vĩ, gây
cảm giác choáng ngợp bởi không gian rộng lớn và
núi non quá hùng vĩ. Đường lên cột cờ Lũng Cú
đang mở tương đối rộng nhưng nhìn lại chỉ như
dải lụa trắng vắt qua những dãy núi, ngọn đồi.
Thấp thoáng phía xa xa có thác nước len lỏi sau
những vách đá, thỉnh thoảng lại thấy vài nếp nhà
sàn ẩn hiện sau những bức tường xếp bằng dá. Từ
rất xa đã nhìn thấy lá cờ đỏ in trên nền trời
xanh bồng bềnh mây trắng, chúng tôi háo hức muốn
đến ngay cột cờ trên đỉnh núi Rồng. Đồn trưởng
đồn biên phòng Lũng Cú, Giàng A Ly xúc động nói:
“Lũng Cú tiếng Mông là lũng ngô, nhưng núi Rồng
lại là địa danh có thật. Trên chóp đỉnh núi Rồng
bao năm rồi đêm ngày phần phật tung bay lá cờ đỏ
sao vàng, một biểu tượng thiêng liêng của chủ
quyền đất nước và cũng là niềm tin và sức mạnh
của người dân Lũng Cú đời đời gắn bó với non
sông đất Việt”.
Từ chân núi Rồng chúng tôi
vịn đá, vịn cây băng qua những lùm hoa kim ngân
leo lên, chừng hơn 300m thì đến cột cờ, thân cột
cờ bằng bê tông, sáu mặt, cao 17m sừng sững trên
đỉnh núi Rồng. Nhìn xuống, những bản làng xinh
xắn, những ô ruộng bậc thang đan xen. Nhìn lên,
phấp phới lá cờ đỏ sao vàng rộng 54m. Cả đoàn
người lặng đi, ngắm lá cờ cuộn bay uy nghi, tất
cả đã lý giải sức tồn tại mãnh liệt đến kỳ diệu
của dân tộc Việt Nam bốn ngàn năm dựng nước và
giữ nước.
Lũng Cú “chóp nón” khổng
lồ, mảnh đất địa đầu của Tổ quốc luôn ở trong
lòng chúng ta, gần gũi và thiêng liêng đến vô
cùng
|
|
Nguồn: saigontoserco |