| |
|
ĐỊA DANH DU LỊCH PHÚ THỌ -
CÁC ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH PHÚ THỌ |
MỎ NƯỚC KHOÁNG THANH THỦY - PHÚ THỌ |
Khu
mỏ nước khoáng nóng Thanh Thuỷ thuộc địa phận xă
La Phù và xă Bảo Yên, huyện Thanh Thuỷ, cách
thành phố Việt Tŕ 30 km, cách Xuân Sơn 60 km.
Qua nghiên cứu cho thấy, mỏ nước khoáng này được
phân bố trên diện tích chừng 1 km2, có h́nh dạng
như một quả bầu nậm, kéo dài theo hướng sông Đà.
Nhiệt độ trung b́nh của nước khoáng nóng từ 37oC
đến 43oC, tổng trữ lượng là 19.710.000 m3, lưu
lượng khai thác đạt 483 m3/ngày. Trong nước
khoáng nóng có nhiều hàm chất vi lượng như natri,
canxi, magiê, đặc biệt có chứa nhiều hàm chất
radon - một loại nước radon quư hiếm lần đầu
tiên được phát hiện ở Việt Nam rất thích hợp cho
việc tắm ngâm, phục hồi sức khoẻ và chữa bệnh.
Với đặc điểm gần Hà Nội, tiếp giáp Hà Tây - mảnh
đất nhiều điểm du lịch nổi tiếng cả nước, hơn
nữa c̣n khá nhiều cảnh quan thuộc các xă xung
quanh La Phù trên địa bàn huyện Thanh Thủy nên
chắc chắn đây sẽ là một sự lựa chọn mới cho du
khách khi đến với Phú Thọ!
|
|
LÀNG NGHỀ PHÚ THỌ |
Làng
Nghề Phú thọ: Phú Thọ là một vùng đất cổ, nơi
phát tích của dân tộc Việt Nam . Kế thừa những
truyền thống tốt đẹp, người Phú Thọ qua bao đời
c̣n lưu giữ nhiều tính cách đặc trưng của con
người Việt Nam . Không chỉ giàu sáng tạo trong
lao động, giàu khí phách trong đấu tranh, giàu
nhân ái trong cuộc sống, con người nơi đây c̣n
có óc thẩm mỹ và bàn tay tài hoa của người nghệ
sỹ. Sản phẩm làng nghề Phú Thọ là một trong
những bằng chứng cho nhận định đó. Mặc dù không
phải là đất nghề nhưng nghề thủ công ở Phú Thọ
lại tồn tại và phát triển khá bền vững theo thời
gian. Và đến nay, các sản phẩm đó chưa hẳn đă
đem lại giá trị kinh tế cao nhưng mỗi sản phẩm
lại gửi gắm trong đó tâm hồn, tính cách của
những người con Đất Tổ.
Đa dạng các
làng nghề ở Phú Thọ
Trong những năm gần đây sự kết hợp giữa công
nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại để làm
cho các sản phẩm của làng nghề ngày càng tinh
xảo, hiện đại hơn, năng suất lao động cũng được
nâng cao.
Tính đến hết năm 2010, số làng nghề trên địa bàn
được UBND tỉnh công nhận là (làng nghề chè Đá
Hen - Cẩm Khê; Dốc Đen - Thanh Ba; làng nghề chè
Khuân - Thanh Sơn; làng nghề chè Phú Thịnh, Chu
Hưng, Phú ích, Lê Lợi - Hạ Hoà, làng nghề chè
Chùa Tà - Phù Ninh; làng nghề chè Vân Hùng -
Đoan Hùng); sản xuất nón (làng nghề Sơn Nga, Sai
Nga - Cẩm Khê; Gia Thanh - Phù Ninh). Những năm
gần đây có các làng nghề mới như làng nghề trồng
hoa (làng Thượng - Phù Ninh), làng nghề chăn
nuôi và chế biến rắn (x• Tứ X• - 37 làng nghề
với đa dạng các loại ngành nghề khác nhau nhưng
tập trung chủ yếu là các nhóm nghề như: Nghề mộc
(Làng nghề Dư Ba - Cẩm Khê; Minh Đức - Tam Nông…);
nghề đan lát mây tre ( Làng nghề Ngô Xá, Tùng
Khê - Cẩm Khê; Minh Hoà - Hạ Hoà …); chế biến
chè Lâm Thao), làng nghề sản xuất cá chép đỏ (Thuỷ
Trầm - Cẩm Khê). Việc phát triển các làng nghề
với những ngành nghề mới cho thấy các làng nghề
để quan tâm đến nhu cầu và thị hiếu của người
tiêu dùng. Các làng nghề với những ngành nghề
mới nhưng phát triển rất mạnh và bền vững, có
tác dụng rơ rệt đối với quá tŕnh chuyển dịch cơ
cấu nông thôn, góp phần tăng tỷ trọng công
nghiệp, thương mại, giảm tỷ trọng ngành nông
nghiệp. Qua đó cho thấy các làng nghề trên địa
bàn tỉnh đang dần phát triển trở lại và đem lại
hiệu quả kinh tế. Các lĩnh vực ngành nghề đa
dạng để tác động tích cực tới đời sống nhân dân
ở các vùng nông thôn. Chất lượng hoạt động của
các làng nghề được nâng lên, có tính phát triển
ổn định và bền vững. Sự lan toả của các làng
nghề để thu hút được nhiều lao động và kéo theo
sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau.
|
|
KHU DU LICH BẾN GIÓT - PHÚ THỌ |
Khu du lịch Bến Giót nằm tại
Ngă ba Hạc thuộc hai phường Bạch Hạc và Bến Gót,
thành phố Việt Tŕ, tỉnh Phú Thọ.
Khu du lịch có diện tích khoảng 100ha, được chia
thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô, phần
phía Bắc thuộc phường Bến Gót đây là phần chủ
yếu, c̣n phần phía Nam thuộc phường Bạch Hạc.
Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn
tế trời và đă được tiên ông từ trên trời xuống,
ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em
cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi
đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới
thuyền mới có tên là Bến Gót, Đ́nh Bạch Hạc c̣n
có tên là đ́nh thôn Việt Tŕ là nơi thờ các vua
Hùng, Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và
Thuỷ Tinh đấu vơ, Miếu Hà Thần là nơi thờ thần
Sông đă có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man
Đà Giang dẹp yên bờ cơi, Đền Bạch Hạc là nơi thờ
thổ lệnh có tên huư là Trần Lan và em là Thạch
Khanh tên huư là Trần Bảo có phép thuật thần y,
chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở
Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong
làm thần thiêng ở ngă ba sông Hạc....
Ngoài ra trên mảnh đất này
c̣n tồn tại rất nhiều sự tích ly kỳ, nhiều lễ
hội truyền thống đặc sắc như: Hội bơi chải, Hội
giă bánh dầy,... nói lên sự h́nh thành tên làng,
tên xóm, tên sông, những nét sinh hoạt văn hoá
truyền thống của của nhân dân ta gắn liền với
nền văn minh sông Hồng và nền văn minh lúa nước.
Khu du lịch Bến Gót có đặc
trưng điển h́nh của vùng trung du Bắc Bộ, với
địa h́nh nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế
như một bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên
h́nh ảnh về bến nước, ḍng sông. Đặc biệt là sự
gắn kết hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước
tạo nên phong cảnh sơn thuỷ hữu t́nh, thích hợp
để xây dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giăn,
vọng cảnh.
Khu du lịch bao gồm các khu vui chơi giải trí,
thể thao, nhà vườn, cắm trại, khách sạn, nhà
nghỉ, câu cá, trại sáng tác, lầu b́nh thơ,...
được tổ chức tạo thành trục chủ đạo đi từ cổng
chính đến khu lầu tưởng niệm và vọng cảnh phía
bờ sông, kết thúc là Lầu Bạch Hạc. Lầu Bạch Hạc
được xây dựng theo hướng vươn cao vừa tượng
trưng cho đàn tế trời vừa là nơi du khách có thể
ngắm cảnh xa xa, dưới tầng lầu có bia tưởng niệm
100 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ, giúp
cho du khách hiểu rơ hơn nguồn gốc của đại gia
đ́nh các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh Lầu Bạch Hạc
được tái dựng tảng đá lưu vết chân và h́nh dáng
tiên ông phân định ngôi thứ, mở đầu cho sự hưng
thịnh, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc của đại gia
đ́nh các dân tộc Việt Nam. Phần đất phía Nam chủ
yếu dành cho các di tích lịch sử và thể thao
nước truyền thống, một phần dành cho các nhà
nghỉ nhỏ dưới dạng vườn nông thôn, vườn sinh
thái,...
|
|
BẢO TÀNG HÙNG VƯƠNG - PHÚ THỌ |
Bảo
Tàng Hùng Vương Phú Thọ: Nhà bảo tàng Hùng Vương
hai tầng, cao trên ba chục mét, h́nh vuông. Nh́n
từ xa nhà bảo tàng giống như một khối hộp lập
phương, cao vút nằm trên đỉnh một quả đồi ngay
sát đền chính. Bảo tàng Hùng Vương là một ngôi
nhà có h́nh thức đậm chắc mà trang nhă, bề thế
mà lại rất thanh thoát, bắt đầu được khai móng
năm 1986, với tổng số vốn đầu tư trển tỷ đồng,
các nhà xây dựng đă cấu thành một ngôi nhà hoàn
hảo hiện đại mà dân tộc. Hiện đại ở sự bề thế
của quy mô xây dựng, tường ốp đá xẻ bao quanh
với diện tích mặt bằng gần 1.000m2. C̣n dân tộc
v́ đây là một chiếc nhà sàn, bốn bề có cột chống
trụ. Đứng từ đỉnh núi Hùng nh́n xuống, nhà bảo
tàng Hùng Vương như một chiếc bánh chưng
vuông khổng lồ. Sự khổng lồ ấy được các nhà
thiết kế giải thích dó là biểu hiện tượng trưng
của quả đất theo quan niệm người xưa: Đất vuông
trời tṛn. Ở giữa nhà Bảo Tàng là một vùng trần
thủng có khoảng trời nghiêng xuống lồng trong
một khuôn trăng đầy đặn. Tổng thể sự hiện diện
trời tṛn đất vuông ấy là ư tưởng của người kiến
trúc sư muốn khắc hoạ lại huyền thoại lịch sử:
sự tích bánh dày, bánh chưng, mà ở đây, huyền
thoại ấy chắc rằng mỗi người chúng ta nếu không
thuộc ḷng thí chí ít cũng đă một lần được nghe
bà kể chuyện về hoàng tử Lang Liêu làm bánh dày,
bánh chưng dâng tiến vua cha.
Câu chuyện cổ tích ấy đă phần nào nói lên được
quan niệm vũ trụ của con người Việt Nam cổ đại,
đồng thời c̣n nói lên được quan niệm vuông tṛn
trong tiềm thức, trong ước lệ, đó c̣n là triết
lư nhân văn, triết lư toàn vẹn của con người
Việt Nam. Sức người bằng sức lao động sáng tạo,
lộc trời bằng hạt gạo, hoa đất bằng hương vị cây
lá thiên nhiên đă cấu thành sản phẩm vật chất
duy tŕ sự sinh tồn của đất nước qua nhiều thế
hệ.
Nhà bảo tàng Hùng Vương được khánh thành đúng
trong ngày khai hội Đền Hùng năm 1993. Nó tầm cỡ
không chỉ v́ đó là một trong ba bảo tàng Quốc
Gia được người đứng đầu Đảng và Nhà Nước cắn rốn
khai sinh:
- Bảo tàng cách mạng Việt Nam: thủ tướng Phạm
Văn Đồng cắt băng khánh thành năm 1959.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: chủ tịch HĐBT Đỗ Mười
cắt băng khánh thành năm 1990.
- Bảo tàng Hùng Vương: tổng bí thư Đỗ Mười cắt
băng khánh thành năm 1993.
Sự tầm cỡ ở đây chính là nội dung khoa học-
tiếng nói của những hiện vật lịch sử đang chứa
đựng trong ḷng nó.
Với hơn 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 3.000
hiện vật có trong kho bảo tàng, 162 bức ảnh, 5
bức tranh sơn mài, 9 bức g̣ đồng 5 hộp b́nh, 1
nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng
bày đă khắc hoạ chủ đề tổng quát: từ văn minh
nông nghiệp các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên
mảnh đất Phong Châu lịch sử (BAO gồm Vĩnh Phú và
1 phần Hà Tây, Hà Nội ngày nay).
Thăm quan bảo tàng Hùng Vương dù khách có là
người du lịch hay là nhà nghiên cứu hoặc là
người dân lao động b́nh thường, ai ai cũng đều
cảm nhận được trước sự biến thiên vĩ đại của
lịch sử dân tộc ta từ buổi b́nh minh, cuộc sống
c̣n mông muội đă làm nên một vua Hùng và một
nước Văn Lang.
Phần trưng bày của bảo tàng Hùng Vương được tập
trung vào 3 chủ đề chính:
- Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng
các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương
hiện t́m được trên đất Vĩnh Phú.
- Giới thiệu việc h́nh thành khu di tích Đền
Hùng và ư thức xây dựng khu di tích Đền Hùng của
nhân dân cả nước.
- T́nh cảm của nhân dân, sự quan tâm cả các chế
độ trước, đến Bác Hồ và các đồng chí lănh đạo
Đảng ngày nay đối với Đền Hùng.
Ư đồ nổi bật trong trưng bày bảo tàng Hùng Vương
về nội dung và giải pháp kỹ thuật, mỹ thuật là
việc giải quyết đề tài trưng bày mối quan hệ hữu
cơ giữa văn hoá Hùng Vương, văn minh sông Hồng
với lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam.
Mục đích của ư đồ trưng bày nhằm làm rơ tầm quan
trọng của khu di tích lịch sử Đền Hùng, Bộ Văn
Lang và địa thế dựng nước của các Vua Hùng.
Trưng bày bảo tàng Hùng Vương đă cố gắng đảm bảo
sự tuân thủ những nguyên tắc của phương pháp
luận sử học Mác Xít và nguyên tắc bảo tàng học,
trên đài trưng bày có 5 trọng tâm- 5 mốc lịch sử
quan trọng trong quá tŕnh h́nh thành con người
Việt Nam, 5 trọng tâm ấy được nhân dân ở 5 vị
trí trang trọng:
- Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ
- Bắt đầu dựng nước.
- Sự nghiệp xây dựng nước Văn Lang của các Vua
Hùng
- Khu di tích Đền Hùng và việc thờ cúng Vua Hùng
trên thềm đất cổ Phong Châu
- T́nh cảm của nhân dân, sự quan tâm của các chế
độ trước đến Bác Hồ và các đồng chí lănh đạo
Đảng ngày nay với Đền Hùng.
Dọc theo 5 trọng tâm có 5 điểm phim tài liệu,
khoa học phù trợ với nội dung lịch sử: Giỗ Tổ
Hùng Vương, Vua Hùng dạy nhân dân cấy lúa, lễ
hội Làng He, tṛ Trám và sự tích rước lúa thần,
hát xoan và sự tích làm bánh chưng bánh dày, Vua
Hùng đi săn.
Trưng bày Bảo Tàng Hùng Vương hướng tới chiều
sâu. T́m về cuội nguồn. Mục đích của giải pháp
này nhằm làm rơ giai đoạn văn hoá Hùng Vương và
thời đại Hùng Vương dựng nước.
Pḥng
1: giới thiệu chung nội dung trọng tâm thứ nhất:
Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ. Với số
lượng hiện vật gồm 1 sa bàn, 1 hộp h́nh, 2 bức
tranh sơn măi cỡ lớn, 18 mẫu động thực vật, 12
mẫu khoáng sản, 20 công cụ đá Sơn Vi và một số
ảnh chụp cùng những hiện vật khác đă khái lược
h́nh thế thiên nhiên và sức sống buổi b́nh minh
lịch sử của con người Việt Nam. Một vùng đất hợp
lưu nơi ngă ba sông Hồng, Đà, Lô giàu đẹp và
thuận lợi từ hàng vạn năm xa xưa đă trở thành
môi trường tụ cư sinh sống cho các loại động,
thực vật và cho con người. Lớp trầm tích t́m
được và hộp h́nh cùng những ảnh chụp hang Ngựa
(Thu Cúc- Thanh Sơn) là di chỉ xa xưa đầu tiên
có dấu vết cư trú của con người cách nay trên 4
vạn năm. Dấu vết hoá thạch của các xương lợn
rừng, hươu nai là dấu vết minh chứng cho sự vận
động của con người chinh phục thiên nhiên để duy
tŕ sự sinh tồn ở thời kỳ xa xưa ấy.
Trong tiến tŕnh phát triển lịch sử xă hội, con
người Việt Nam thời thượng cổ đă trải qua 5 giai
đoạn văn hoá: Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, G̣
Mun, Đông Sơn, 5 giai đoạn phát triển văn hoá là
5 bước tiến dài vạn dặm trong lịch sử phát triển
của dân tộc. Hơn 100 địa điểm văn hoá Sơn Vi có
độ tuổi từ 1 vạn rưỡi đến 2 vạn năm với những
công cụ cuộc ghè đập là chứng tích sinh tồn của
người nguyên thuỷ trên đất Vĩnh Phú- Văn Lang,
đất bản bộ của các Vua Hùng.
Pḥng 2: Bắt đầu thời dựng nước
Bằng những hiện vật gốc có chọn lựa phong phú từ
ba nền văn hoá: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, G̣ Mun…
có nhiều tài liệu khoa học phụ mô tả từng mảng
cuộc sống sinh hoạt của con người vận động hợp
quy luật biến thiên của lịch sử. Công cụ đá mài
từ giản đơn đến phức tạp, từ thô ráp đến tinh
xảo: ŕu có vai, ŕu mài tứ diện, cuốc đá, chày
nghiền, đồ trang sức (ṿng tay đá, khuyên đá…)
vô cùng phong phú bên cạnh những sưu tập gốm đa
dạng: nồi, ṿ, b́nh gốm, bát gốm, dọc xe chỉ,
chài lưới… được trưng bày nhằm giới thiệu cho
người xem thấy được nghề sống chính của cư dân
nguyên thuỷ nước ta là làm nông nghiệp, trồng
lúa nước, săn bắt và hái lượm. Qua từng bước
biến thiên của lịch sử, con người từ chỗ sống
bằng săn bắt, hái lượm đă biết đấu tranh cải tạo
thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên, bắt thiên
nhiên phục vụ cuộc sống con người. Nền kinh tế
nông nghiệp một ngày phát triển. Cuộc sống con
người dần no đủ, có tích luỹ của cải, có sự phân
chia người nghèo, kẻ giàu có sự h́nh thành giai
cấp. Những Nha chương bằng đá t́m được ở Gia
Thanh, Thanh Đ́nh(Phong Châu) là vật chứng điển
h́nh chứng minh cho sự h́nh thành các tộc người,
sự tập trung uy quyền vào người đứng đầu bộ tộc.
Khi công cụ bằng đồng xuất hiện, những mùi cày
đồng (Vạn Thắng), lưỡi liền đồng (G̣ De), lưỡi
ŕu đồng (Làng Cả) được ra đời và ngày càng đa
dạng, phong phú. Đó là dấu tích chứng minh cho
sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp buổi
ban đầu.
Những mũi lao, mũi tên đồng, lưỡi câu đồng là
vật chứng không chỉ chứng minh cho sự phát triển
trí tuệ và khả năng chinh phục thiên nhiên phục
vụ cuộc sống con người. Đó c̣n là dấu hiệu khả
năng tự vệ của con người trong sự đấu tranh giai
cấp, đấu tranh sinh tồn giữa các tộc người trong
xă hội có sự phân chia đẳng cấp.
Dấu tích sự ra đời của hạt lúa đă đánh dấu bước
tiến dài trong lịch sử kinh tế nông nghiệp. Đó
là hiện vật gốc chứng minh cho thành tựu lớn lao
của con người chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên
phục vụ cuộc sống con người.
Pḥng 3: Sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các
Vua Hùng
Hàng năm hiện vật được trưng bày để nêu bật chủ
đề văn hoá Đông Sơn – văn hoá Hùng Vương, song
đáng chú ư gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người
xem là bộ sưu tập trống đồng (10 chiếc) được
phát triển rải rác trên thềm đất Phong Châu.
Tiêu biểu hơn cả là chiếc trống đồng Đền Hùng.
Chiếc trống này được phát hiện tại làng Cổ Tích
cách chân núi Hùng khoảng 500m. Cho tới nay
trống đồng Đền Hùng được các nhà khoa học xếp
vào các loại đứng đầu hàng dọc trong hệ thống
trống loại 1 Hê gơ t́m thấy ở Việt Nam. So với
trống đồng Đền Hùng kiểu dáng và cách thức trang
trí tương đồng song có kích thước và dáng vẻ bề
thế hơn và điều quan trọng là nó được t́m thấy
ngay tại chân núi Hùng.
Bên cạnh trống đồng Đền Hùng là trống đồng Tân
Long. Đây là một trong những chiếc trống có
đường kính lớn nhất so với toàn bộ trống đồng
t́m thấy ở Việt Nam (trống đồng có đường kính
mặt 108 cm).
Bộ hiện vật điển h́nh thứ 2 là sưu tập vũ khí
bằng đồng, lưỡi cày đồng, thuổng đồng, ŕu đồng,
dao găm đồng, mũi tên đồng, lao đồng…đa dạng và
phong phú. Đó là dấu hiệu phản ánh giai đoạn văn
hoá Đông Sơn phát triển rực rỡ, có sự phân diện
rộng răi từ biên giới phía bắc tới các tỉnh miền
trung nước ta bây giờ. Công cụ đồng xuất hiện
ngày càng đa dạng, phong phú và điêu luyện, cục
diện kinh tế ngày càng phát triển đă đưa tŕnh
độ xă hội phát triển cao hơn. Các thủ lĩnh họ
Hùng với cương vị đứng đầu bộ lạc văn lang từ
nền tảng kinh tế lạc hậu thời kỳ đá mới qua giai
đoạn sơ kỳ đồng thau đă vượt lên mở rộng địa bàn,
đẩy mạnh sự phát triển văn minh và xă hội tới
bước phát triển cực thịnh trong gia đoạn văn hoá
công cụ đồng thau – sắt sớm. Từ sự liên minh bộ
lạc đến sự áp phục 15 bộ lạc gần xa để trở thành
thủ lĩnh liên minh bộ lạc rồi quân chủ quốc gia:
Hùng Vương ở thiên niên kỷ 11 trước công nguyên.
Bộ Văn Lang của các thủ lĩnh họ Hùng đă trở
thành địa bàn gốc của nước Văn Lang. Một nhà
nước xă hội kiểu “ phương thức sản xuất Châu A”
ra đời, nhà nước đầu tiên của xă hội Việt Nam.
Đó là thành tựu, là công lao vĩ đại không ǵ
sánh nổi của các vua Hùng. Nền văn hoá mang sắc
thái riêng và cốt cách riêng của dân tộc bắt đầu
được h́nh thành và phát triển. Một giai đoạnh
lịch sử, một thời đại mới ra đời: Thời đại xây
dựng đất nước của các vua Hùng.
Pḥng 4 và 5: giới thiệu khi di tích lịch
sử Đền Hùng, vịêc thờ cúng vua Hùng trên thềm
đất cổ Phong Châu, t́nh cảm của nhân dân, sự
quan tâm của các chế độ xă hội tới Đền Hùng.
Cho tới nay qua kiểm kê di tích lịch sử văn hoá,
trên đất Vĩnh Phú có 587 nơi thờ Hùng Vương, vợ
con và tướng lĩnh các vua Hùng. Bên cạnh những
dấu tích vật chất c̣n có những trang huyền thoại
kỳ diệu phản ánh sự hào hùng, sự bay bổng kỳ
diệu của những nhân thần, người anh hùng dân tộc
đă có công dựng nước và bảo vệ đất nước.
Các ngôi đ́nh làng: Hùng Lô, Đào Xá, Hương Nộn,
Lâu Thượng, Cổ Tích…là những công tŕnh kiến
trúc hoàn hảo ở mọi góc độ được nhân dân lập nên
để thờ cúng vua Hùng nhưng đó lại là di tích
quan trọng vào bậc nhất. Ơ đó di tích không chỉ
mang tính tưởng niệm trong các ngôi đền do dân
đời sau lập nên mà ở đây dấu tích lưu niệm của
các vua Hùng vẫn c̣n phảng phất trong những pho
huyền thoại lịch sử.
Bộ hiện vật tiêu biểu của pḥng 4 và 5 là bộ sưu
tập ảnh lễ hội Đền Hùng trong thế kỷ XX và đặc
biệt tiêu biểu hơn cả là bộ ảnh lưu niệm Chủ
tịch Hồ Chí Minh thăm Đền Hùng năm 1954 với sự
kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Danh
nhân Văn hoá Thế giới đă căn dặn: “ Các vua Hùng
đă có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước” với 61 tài liệu khoa học của các
học giả, các nhà khoa học trong và ngoài nước
nghiên cứu về Đền Hùng và thời đại Hùng Vương
được trưng bày cùng với hơn 100 hiện vật do đồng
bào Việt Nam khắp mọi miền thờ cúng vua Hùng đă
nêu bật chủ đề: T́nh cảm và trách nhiệm của nhân
dân với Đền Hùng và các vua Hùng đă có công dựng
nước.
C̣n nhiều nữa h́nh ảnh các đồng chí lănh đạo
Đảng và Nhà nước thăm viếng Đền Hùng xem xét quy
hoạch tổng thể di tích Đền Hùng xây dựng nhà bảo
tàng Hùng Vương…. Bên cạnh một số h́nh ảnh các
đoàn khách quốc tế thăm Đền Hùng đều phản ánh
tấm ḷng của dân tộc và bè bạn với Tổ tiên dân
tộc Việt Nam.
Trong nhà bảo tàng c̣n có 1 pḥng chiếu video
với sức chứa trên 50 người xem một lượt các bộ
phim về lễ hội Đền Hùng xưa, nay, phim về một số
tích tṛ dân gian theo thuyền thoại, lịch sử
được chiếu phục vụ khách tham quan. Đó là những
tài liệu h́nh ảnh sống động mô phỏng sự tích
lịch sử đă cung cấp cho người xem nhiều tư liệu
khoa học và một số lượng thông tin lớn về lịch
sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam, xă hội Việt Nam,
văn hoá Việt Nam thời vua Hùng dựng nước.
Nhà bảo tàng Hùng Vương ra đời đă phần nào đáp
ứng ḷng mong đợi của đồng bào cả nước, của
người Việt Nam sống xa Tổ quốc, của các nhà khoa
học và của bè bạn Quốc tế. Thăm viếng Đền Hùng
và tham quan nhà bảo tàng Hùng Vương người Việt
Nam có được một dịp ôn lại truyền thống đạo lư
uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
hiểu sâu sắc hơn về thời đại các vua Hùng dựng
nước và tấm ḷng toàn dân tộc với Đền Hùng. C̣n
đối với khách Quốc tế thăm Đền Hùng và bảo tàng
Hùng Vương sẽ có dịp hiểu được ngọn nguồn dân
tộc Việt Nam, văn hoá Việt Nam, truyền thống
Việt Nam và đạo lư của con người Việt Nam.
Nh́n tổng thể nội dung và ư đồ trưng bày bảo
tàng Hùng Vương là hướng người xem vào chiều sâu
tư tưởng, nhận được dung mạo con người Việt Nam:
Quá khứ – Hiện tại – Tương lai. Mặt khác nội
dung trưng bày bảo tàng Hùng Vương phản ánh được
mối quan hệ giữa vua Hùng – Đền Hùng và thời đại
Hùng Vương dựng nước.
Bảo tàng Hùng Vương đă trở thành di sản văn hoá
mọi thời đại. Đó là một thiết chế văn hoá quan
trọng của nước Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam tưởng niệm công lao của các vua Hùng đă có
công dựng nước.
Phú Thọ là nơi có các đ́nh, đền, miếu để thờ các
vua Hùng và các tướng lĩnh của vua Hùng nhiều
nhất Việt Nam. Cho nên, lễ hội quan trọng và
đáng kể nhất nơi đây phải nói đến đó là lễ hội
giỗ tổ Hùng Vương- lễ hội đă được nhà nước công
nhận là Quốc Lễ.
Toàn tỉnh có 700 điểm thờ, tập trung nhiều nhất
ở Lâm Thao, huyện Tam Nông, thành phố Việt Tŕ,
huyện Phù Ninh, huyện Thanh Thủy, huyện Cẩm Khê.
Các đền thờ này chủ yếu thờ các bài vị sắc phong
của các vua Hùng và tướng lĩnh.
Phường Bạch Hạc, phường Bến Gót nằm ở phía Nam
thành phố Việt Tŕ, cửa ngơ nối liền giữa Phú
Thọ và các tỉnh miền núi phía Tây Bắc với thủ đô
Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Ngă ba Hạc từ lâu đă nổi tiếng bởi vùng sông
nước hữu t́nh, nơi tụ nhân, tụ thuỷ, tụ khí,
buôn bán kinh doanh sầm uất. Trên mảnh đất này
c̣n tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá, gắn
liền với vùng "địa linh, hào khí", bên cạnh đó
là những sự tích từ thời vua Hùng dựng nước Văn
Lang. Cho đến ngày nay, vùng ngă ba Hạc vẫn c̣n
tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá có giá trị,
có thể phát triển nhiều loại h́nh du lịch như
thể thao, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí....
Ngă ba Hạc hợp lưu bởi sông Thao, sông Đà, sông
Lô, tạo nên ḍng trong, ḍng đục, nước sông rộng
mênh mông như biển cả, xa xa tả có Tam Đảo, hữu
có Ba V́, hai bên bờ là các làng mạc, ruộng vườn
tươi tốt, bến sông thuyền bè tấp nập vào ra....
tất cả những phong cảnh đó đă tạo cho ngă ba Hạc
có cảnh trí vừa thơ mộng, vừa hữu t́nh. Bạch Hạc
- Bến Gót ngày nay thuộc phủ Tam Đới xưa, c̣n
tồn tại rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, các
truyền thuyết, chuyện kể về quá tŕnh dựng nước
và giữ nước của ông cha ta như: “Hoa Long Thiền
Tự” xưa ở bến sông Thông, cạnh chùa có một tảng
đá ven sông, trên mặt c̣n hằn vết gót chân.
Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn
tế trời và đă được tiên ông từ trên trời xuống,
ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em
cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi
đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới
thuyền mới có tên là Bến Gót, Đ́nh Bạch Hạc c̣n
có tên là đ́nh thôn Việt Tŕ là nơi thờ các vua
Hùng, Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và
Thuỷ Tinh đấu vơ, Miếu Hà Thần là nơi thờ thần
Sông đă có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man
Đà Giang dẹp yên bờ cơi, Đền Bạch Hạc là nơi thờ
thổ lệnh có tên huư là Trần Lan và em là Thạch
Khanh tên huư là Trần Bảo có phép thuật thần y,
chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở
Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong
làm thần thiêng ở ngă ba sông Hạc..... Ngoài ra
trên mảnh đất này c̣n tồn tại rất nhiều sự tích
ly kỳ, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như:
Hội bơi chải, Hội giă bánh dầy,... nói lên sự
h́nh thành tên làng, tên xóm, tên sông, những
nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của của nhân
dân ta gắn liền với nền văn minh sông Hồng và
nền văn minh lúa nước.
Với diện tích 100 ha, khu Du lịch Bến Gót được
chia thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô,
trong đó phần lănh thổ phía Bắc (thuộc phường
Bến Gót) là chủ yếu. Khu du lịch có đặc trưng
điển h́nh của vùng trung du Bắc Bộ, với địa h́nh
nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế như một
bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên h́nh ảnh
về bến nước, ḍng sông. Đặc biệt là sự gắn kết
hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước tạo nên
phong cảnh sơn thuỷ hữu t́nh, thích hợp để xây
dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giăn, vọng cảnh.
Khu du lịch Bến Gót bao gồm những thành phần chủ
yếu như: vui chơi giải trí, thể thao, nhà vườn,
cắm trại, khách sạn, nhà nghỉ, câu cá, trại sáng
tác, lầu b́nh thơ,... được tổ chức tạo thành
trục chủ đạo đi từ cổng chính đến khu lầu tưởng
niệm và vọng cảnh phía bờ sông, kết thúc là Lầu
Bạch Hạc. Lầu Bạch Hạc được xây dựng theo hướng
vươn cao vừa tượng trưng cho đàn tế trời vừa là
nơi du khách có thể ngắm cảnh xa xa, dưới tầng
lầu có bia tưởng niệm 100 người con của Lạc Long
Quân - Âu Cơ, giúp cho du khách hiểu rơ hơn
nguồn gốc của đại gia đ́nh các dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh Lầu Bạch Hạc được tái dựng tảng đá lưu
vết chân và h́nh dáng tiên ông phân định ngôi
thứ, mở đầu cho sự hưng thịnh, đoàn kết, thương
yêu, đùm bọc của đại gia đ́nh các dân tộc Việt
Nam. Phần đất phía Nam chủ yếu dành cho các di
tích lịch sử và thể thao nước truyền thống, một
phần dành cho các nhà nghỉ nhỏ dưới dạng vườn
nông thôn, vườn sinh thái,... Việc phân khu chức
năng trên cơ sở địa h́nh của khu vực quy hoạch
và các di tích lịch sử, truyền thuyết sẵn có của
khu vực, tạo nên hệ thống không gian sinh động,
gây ấn tượng mạnh mẽ, có sức hấp dẫn lớn đối với
khách du lịch.
|
|
ĐỀN GIẾNG - PHÚ THỌ |
Đền
Giếng Phú Thọ: Kiến trúc có vào khoảng thế kỷ
XVIII. Đền Giếng nằm dưới chân núi Hùng gồm ba
lớp nhà và hai nhà oản hai bên. Tương truyền khi
theo cha đi kính lư qua vùng này, hai nàng Tiên
Dung- Ngọc Hoa con gái Vua Hùng Vương thứ 18
thường đến đây soi gương chải tóc. Hai nàng đă
có công cùng chồng khẩn hoang, trị thuỷ, dạy dân
trồng lúa xây dựng cuộc sống.
Theo truyền thuyết nàng Tiên Dung xinh đẹp, đến
tuổi trăng tṛn có nhiều người tài giỏi đến cầu
hôn. Nàng Tiên Dung không muốn lấy chồng, để
được thường xuyên đi du ngoạn núi rừng. Một lần
Tiên Dung bơi dọc sông hồng về xuôi, tới vùng dạ
trạch (khoái châu-hải hưng) Tiên Dung nghỉ, tắm
trên băi cát. Không ngờ gặp Không
ngờ gặp Chữ Đồng Tử, chàng trai nghèo khổ v́ mẹ
mất sớm, cha gà trống nuôi con, hai cha con
nghèo có mỗi chiếc khố che thân, một năm cha
chết nốt, Chữ Đồng Tử không nỡ bó chiếu chôn cha
ở trần, c̣n cái khố cuối cùng nhường cha. Thấy
thuyền của tiên dung neo bên bến cát, Chữ Đồng
Tử không có quần áo đang ngâm ḿnh đánh dậm dưới
đầm, liền vùi ḿnh trong cát. Vô h́nh nàng tiên
dung quây màn tắm đúng chỗ Chữ Đồng Tử dấu ḿnh,
nước chảy cát trôi Chữ Đồng Tử bị lộ. Chàng
tŕnh bày gia cảnh vất vả xin nàng tha tội. Tiên
dung thấy chàng là người hiếu nghĩa nên xin cha
cho lấy. Nàng theo chồng về vùng dạ trạch, cùng
chồng khẩn hoang, dạy dân trồng lúa.
C̣n ngọc hoa xinh đẹp vua cho dựng lầu kén rể,
hai chàng trai giỏi sơn tinh- thủy tinh cùng đến
cầu hôn, thi tài. Cuối cùng sơn tinh thắng cuộc
lấy được nàng ngọc hoa, hai vợ chồng về vùng núi
tản quê hương của sơn tinh cùng dân làng trị
thủy sông, trồng lúa nước, xây dựng cuộc sống.
Thủy tinh thua cuộc hàng năm ôm hận, cứ đến mùa
tháng 6, tháng 7 ( âm lịch), lại dâng nước làm
lũ lụt lội đ̣i lại người yêu.
Tại đền giếng chiều ngày 18/9/1945, bác hồ đă về
nghỉ ở đây, hôm sau 19/9/1945, bác đă gặp gỡ và
nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ đại đoàn quân
tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô. Lời
bác dặn đă trở thành chân lư:
“ các vua hùng đă có công dựng nước bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ngày xa xưa, núi nghĩa lĩnh là nơi thờ thần tự
nhiên trước khi các vua Hùng. Tục truyền rằng
hùng vương và các quan tướng thường đến đây làm
lễ tế trời thờ lúa, cầu mong cho giống ṇi sinh
sôi nảy nở, mùa màng tốt tưới, cộng đồng no đủ.
Do đó cho đến nay đền thượng vẫn c̣n có tên gọi
kính thên lĩnh điện (tức điện thờ trời trên núi
Nghĩa Lĩnh), là nơi cấm địa (đất cấm). Đồng bào
địa phương c̣n kể chuyện lại rằng: trước đấy gần
một thế kỷ vẫn có thờ hạt lúa thần. Đó là h́nh
tượng hạt thóc làm bằng đá to như cái thuyền ba
cẵng được thờ tại đền thượng. Phía sau núi nghĩa
lĩnh c̣n có núi thứ hai cao gần bằng nghĩa lĩnh
đó là núi trọc, c̣n có ḥn cối xay hay là ḥn đá
ông đá bà( tục truyền là nghi thức thờ sinh lực
khí). Như vậy từ xa xưa, cư dân ở đây đă có
những tín ngưỡng phồn thực nông nghiệp tôn thờ
những thế lực huyền bí của tự nhiên, mong được
những thế lực đó phù hộ cuộc sống của con người.
Khi con người chưa chế ngự khắc phục nổi tự
nhiên, th́ việc thờ các thần tự nhiên là lẽ tất
nhiên. Về sau vào thời phong kiến độc lập tự chủ,
khoảng thế kỉ XIII-XIV, với ư thức “ uống nước
nhớ nguồn”, nhớ ơn tổ tiên dựng nước, ngườ việt
xây dựng các ngôi đến thờ hùng vương trên núi
nghĩa lĩnh. Ba ngôi đền : đền thượng, đền trung,
đền hạ đều thờ 18 đời vua Hùng cùng các vị thần
núi. Trong ba ngôi đền đều gồm 4 cỗ long ngai, 3
cỗ ngai chính diện bài vị thờ :
Đột ngột cao sơn cổ việt hùng, thị thập bát thế
thánh vương thánh vị (thần núi cao, 18 đời hùng
vương thánh vương thánh vị).
- Ất sơn thánh vương thánh vị (thần núi gần
thánh vương thánh vị).
- Viễn sơn thánh vương thánh vị (thần núi xa
thánh vương thánh vị ).
Đó là tục thờ thần núi (tam sơn cấm địa – 3 ngọn
núi cấm) của cư dân vùng cao và cả 18 đời Hùng
Vương. Như vậy vào khoảng thế kỷ VIII-XIV trên
núi Nghĩa Lĩnh đă có tín ngưỡng thờ nhân thần (vua
Hùng tổ tiên người Việt) bên cạnh các thiên thần.
- Cỗ long ngai thứ 4 lùi xuống phía bên trái của
đền không bài vị thờ con gái vua Hùng. Trong
truyền thuyết và văn tế đền hùng ngày xưa là thờ
hai nàng Tiên Dung – Ngọc Hoa.
- Ngôi chùa thiền quang thờ phật
- Đền giếng thờ hai nàng công chúa tiên dung –
ngọc hoa. Như vậy không kể một chùa và đền giếng
th́ các ngôi đền trên núi hùng ở ban cấp khác
nhau, thờ giống nhau. Nguyên do là sự phát triển
phân chia làng xă ở khu vực. Trước thế kỷ XIV,
làng trẹo là cư dân duy nhất ở vùng này, làm đền
giữa núi hùng để thờ tổ tiên (bây giờ là đền
trung). Làng Trẹo về sau đông con cháu, mới tách
làm hai làng. Làng mới đi vào Lũng Cỏ lập làng
Cả là tiền thân của làng Cổ Tích sau này. Thế kỷ
XV giặc ngoại xâm đă tàn phá Đền Trung và Làng
Cả. Hoà b́nh trở lại, những người c̣n sống sót
của cư dân làng Cả và một vài nơi khác đến ngụ
cư tại chân núi Hùng, làng Cô Tích có từ đó.
Làng Cổ Tích dựng đền Thượng, Chùa và Gác Chuông.
Cùng thời gian đó làng Trẹo dựng lại Đền Trung
trên nền đền cũ ở lưng chừng núi, kiến thiết cột
gỗ lớn có thớt đá kê, mái lợp ngói.
Thế kỷ XVII làng Trẹo tách một dân nữa, làng mới
này là làng Vi (nay thuộc xă Chu Hoá- huyện
Phong Châu), làng Vi dựng Đền Hạ c̣n làng Trẹo
và Cổ Tích thuộc xă Hy Cương- huyện Phong Châu.
Vốn nguồn gốc cùng một cư dân, cùng thờ một vị
thần nên khi tách làng xă các thần vẫn thờ giống
nhau ở các đền khác nhau trên núi Nghĩa Lĩnh.
Dân làng Cổ Tích quản lư và trông coi Đền Thượng,
Chùa và Gác Chuông, Đền Giếng, làng Trẹo trông
coi Đền Trung, Làng Vi trông coi Đền Hạ.
Thường ngày xưa có hai ngày cầu chính vào tháng
giêng và tháng tám. Tháng ba cùng nhau mở cửa
đền làm hội. Cư dân xă Hy Cương vào thời nhà Lê
được nhận làm “con trưởng tạo lệ”, trong cuốn
“Ngọc Phả” do trực hoạ Nguyễn Cố soạn năm 1470
có đoạn viết: “Phụng ban hương Trung Nghĩa (Cổ
Tích) làm dân trưởng tạo lễ, cấp 500 mẫu ruộng
tại xă Hy Cương, lại cho thu thuế ruộng của một
vùng trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới Việt
Tŕ làm hương hoả phụng thờ”.
Hàng
năm con trưởng chỉ có nghĩa vụ đi lính, c̣n được
miễn thuế khoá, tiền thuết và ruộng chỉ làm đèn
nhang cúng lễ Đền Hùng. Thời xưa việc cúng Tổ
vào ngày 12 tháng 3 âm lịch hàng năm, thường khi
con cháu ở những miền xa về làm giỗ trước một
ngày vào ngày 11 tháng 3 âm lịch. Cuốn Ngọc Phả
Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê c̣n có đoạn
“Từ đời nhà Đinh, nhà Lê, Nhà Lư, nhà Trần rồi
đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn
cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung
Nghĩa (Cổ Tích). Ở đây nhân dân toàn quốc đều
đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của đấng thánh
tổ xưa…”
Đền thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một
lần (vào các năm thứ 5 và 10 của thập kỷ) có
quan triều đ́nh về cúng tế cùng quan hàng tỉnh
và ông chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng
3 âm lịch, để những ngày sau cho nhân dân mọi
miền về làm lễ hội. Do đó ngày giỗ tổ sau này
mới là ngày 10/3 âm lịch hàng năm:
“ Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3
Khắp miền truyền măi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”.
Như vậy trong thời đại phong kiến, các vương
triều luôn luôn coi trọng việc tế lễ Vua Hùng và
xem đó như một việc hệ trọng của cả nước. Từ khi
có Cách Mạng Tháng Tám thành công đến nay. Chính
phủ nước Việt Nam đều tổ chức dâng hương tưởng
niệm các Vua Hùng vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm
theo nghi thức nhà nước.
Vào ngày lễ hội, lá cờ thần được treo trên đỉnh
núi Hùng, có 41 làng xă thuộc đất Vĩnh Phú (riêng
huyện Phong Châu là 38 làng xă) rước kiệu dâng
lễ về lễ tổ. Trên các cỗ kiệu có bày lễ vật, đi
kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt bát bửu,
lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa
thường phải rước 2-3 ngày mới tới. Lại có những
hoạt động văn hoá mang đậm sắc thái dân gian
truyền thống, trí thông minh và tinh thần thượng
vơ của người Việt như: Đu quay, đấu vật, chọi gà,
kéo co, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng, hát
xoan, hát ví ghẹo… cờ tướng ở hội Hùng xưa không
thể thiếu được, thường các năm tướng bà bao giờ
cũng là người đẹp của đất Phong Châu, c̣n tướng
ông có thể từ các vùng khác đến: hội xưa thường
mở từ mùng 7 đến mùng 10/3 âm lịch, các cuộc cờ
tướng cũng được tổ chức suốt mấy ngày hội. Đă
không ít hội xưa, sau ba ngày hội, tướng bà theo
tướng ông về xuôi, bất chấp cả luật lệ phong
kiến hà khắc khi chưa cưới hỏi.
Hội Hùng là một lễ hội đặc biệt của dân tộc Việt
Nam, người Việt về giỗ tổ tỏ ḷng kính hiếu tôn
trọng tổ tiên, nhưng cũng là để nhân thêm t́nh
yêu thương con người, xứ sở, niềm tin vào cộng
đồng của dân tộc Việt Nam.
Đền Hùng cùng ngày giỗ tổ giành cho tất cả mọi
người Việt Nam, từ các Nguyên thủ quốc gia đến
người dân nước Việt, tất cả các số phận, các
cuộc đời, các ngành giới không kể tông giáo,
miền ngược hay miền xuôi, trải qua bao thế kỷ
người Việt vẫn về kính viếng tổ tiên. Tín ngưỡng
cả nước thờ chung một ông tổ có lẽ trên thế giới
này chỉ có ở Việt Nam, điều đó đă trở thành
truyền thống, lẽ tự nhiên của dân tộc Việt.
|
|
LĂNG TỔ - PHÚ THỌ |
Lăng
Tổ Phú Thọ: Lăng Tổ Được xây dựng vào thời gian
nào không ai nhớ rơ. Xưa có thể là mộ đất có mái
che, sau tới năm 1874, được xây dựng kiểu dáng
như ngày nay.
Tương truyền phần mộ là của Vua Hùng thứ 6, theo
lời dặn của Người: hăy chôn ta trên núi Cả, để
đứng trên núi cao ta c̣n trông nom bờ cơi cho
con cháu.
Cạnh Đền Thượng c̣n có một cột đá, người xưa
truyền lại khi Thục Phán được Vua Hùng nhường
ngôi, đă dựng cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh
thề nguyện muôn đời bảo vệ giang sơn gấm vóc mà
Vua Hùng trao lại và đời đời hương khói tại miều
Vua Hùng. Đứng ở đỉnh cao Nghĩa Lĩnh nh́n quay
lên hướng bắc, những quả đồi lớn nhấp nhô nối
nhau thấp dần về Nam giống như đàn voi phục.
Truyền thuyết kể rằng: đă có một trăm voi khi
nghe tin Hùng Vương chọn đất đóng đô đă chầu về
đất Tổ. Trong đàn voi có 99 con cùng quay đầu
một hướng, có một con quay ngược lại hướng đàn,
đă bị nàng Bầu (con gái cả của Hùng Vương thứ
nhất) vâng lệnh cha chém chết con voi bất nghĩa.
Ngày nay vẫn thấy cách đền Hùng Vương khảong
10km về phía Bắc (thuộc xă Phú Lộc) vẫn c̣n một
quả đồi giống con voi quay ngược bị trừng trị v́
tội phản phúc.
Ngày 19.9.1954 chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đền
Thượng, xem bài minh chuông của quả chuông đền
Thượng treo trên cây đại cổ thụ trước đền. Ngày
19.8.1962 Bác Hồ về thăm Đền Hùng lần thứ hai và
nghỉ lại tại cửa ngách đông nam của Đền Thượng.
|
|
Nguồn: saigontoserco
|
|