| 
 |  | 
	
		|   | 
		
		
			
				| ĐỊA DANH DU LỊCH PHÚ THỌ - 
				CÁC ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH PHÚ THỌ | 
			 
			
				
				
					
						
							| 
							MỎ NƯỚC KHOÁNG THANH THỦY - PHÚ THỌ | 
						 
						
							
							
								
								 Khu 
								mỏ nước khoáng nóng Thanh Thuỷ thuộc địa phận xă 
								La Phù và xă Bảo Yên, huyện Thanh Thuỷ, cách 
								thành phố Việt Tŕ 30 km, cách Xuân Sơn 60 km.
								 
								Qua nghiên cứu cho thấy, mỏ nước khoáng này được 
								phân bố trên diện tích chừng 1 km2, có h́nh dạng 
								như một quả bầu nậm, kéo dài theo hướng sông Đà. 
								Nhiệt độ trung b́nh của nước khoáng nóng từ 37oC 
								đến 43oC, tổng trữ lượng là 19.710.000 m3, lưu 
								lượng khai thác đạt 483 m3/ngày. Trong nước 
								khoáng nóng có nhiều hàm chất vi lượng như natri, 
								canxi, magiê, đặc biệt có chứa nhiều hàm chất 
								radon - một loại nước radon quư hiếm lần đầu 
								tiên được phát hiện ở Việt Nam rất thích hợp cho 
								việc tắm ngâm, phục hồi sức khoẻ và chữa bệnh.
							  
							
								
								Với đặc điểm gần Hà Nội, tiếp giáp Hà Tây - mảnh 
								đất nhiều điểm du lịch nổi tiếng cả nước, hơn 
								nữa c̣n khá nhiều cảnh quan thuộc các xă xung 
								quanh La Phù trên địa bàn huyện Thanh Thủy nên 
								chắc chắn đây sẽ là một sự lựa chọn mới cho du 
								khách khi đến với Phú Thọ!
							  
							
							 | 
						 
						
							
  | 
						 
						
							| 
							LÀNG NGHỀ PHÚ THỌ | 
						 
						
							
							
								
								 Làng 
								Nghề Phú thọ: Phú Thọ là một vùng đất cổ, nơi 
								phát tích của dân tộc Việt Nam . Kế thừa những 
								truyền thống tốt đẹp, người Phú Thọ qua bao đời 
								c̣n lưu giữ nhiều tính cách đặc trưng của con 
								người Việt Nam . Không chỉ giàu sáng tạo trong 
								lao động, giàu khí phách trong đấu tranh, giàu 
								nhân ái trong cuộc sống, con người nơi đây c̣n 
								có óc thẩm mỹ và bàn tay tài hoa của người nghệ 
								sỹ. Sản phẩm làng nghề Phú Thọ là một trong 
								những bằng chứng cho nhận định đó. Mặc dù không 
								phải là đất nghề nhưng nghề thủ công ở Phú Thọ 
								lại tồn tại và phát triển khá bền vững theo thời 
								gian. Và đến nay, các sản phẩm đó chưa hẳn đă 
								đem lại giá trị kinh tế cao nhưng mỗi sản phẩm 
								lại gửi gắm trong đó tâm hồn, tính cách của 
								những người con Đất Tổ.  
							
							
							
								
								Đa dạng các 
								làng nghề ở Phú Thọ  
							
								
								Trong những năm gần đây sự kết hợp giữa công 
								nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại để làm 
								cho các sản phẩm của làng nghề ngày càng tinh 
								xảo, hiện đại hơn, năng suất lao động cũng được 
								nâng cao.  
								Tính đến hết năm 2010, số làng nghề trên địa bàn 
								được UBND tỉnh công nhận là (làng nghề chè Đá 
								Hen - Cẩm Khê; Dốc Đen - Thanh Ba; làng nghề chè 
								Khuân - Thanh Sơn; làng nghề chè Phú Thịnh, Chu 
								Hưng, Phú ích, Lê Lợi - Hạ Hoà, làng nghề chè 
								Chùa Tà - Phù Ninh; làng nghề chè Vân Hùng - 
								Đoan Hùng); sản xuất nón (làng nghề Sơn Nga, Sai 
								Nga - Cẩm Khê; Gia Thanh - Phù Ninh). Những năm 
								gần đây có các làng nghề mới như làng nghề trồng 
								hoa (làng Thượng - Phù Ninh), làng nghề chăn 
								nuôi và chế biến rắn (x• Tứ X• - 37 làng nghề 
								với đa dạng các loại ngành nghề khác nhau nhưng 
								tập trung chủ yếu là các nhóm nghề như: Nghề mộc 
								(Làng nghề Dư Ba - Cẩm Khê; Minh Đức - Tam Nông…); 
								nghề đan lát mây tre ( Làng nghề Ngô Xá, Tùng 
								Khê - Cẩm Khê; Minh Hoà - Hạ Hoà …); chế biến 
								chè Lâm Thao), làng nghề sản xuất cá chép đỏ (Thuỷ 
								Trầm - Cẩm Khê). Việc phát triển các làng nghề 
								với những ngành nghề mới cho thấy các làng nghề 
								để quan tâm đến nhu cầu và thị hiếu của người 
								tiêu dùng. Các làng nghề với những ngành nghề 
								mới nhưng phát triển rất mạnh và bền vững, có 
								tác dụng rơ rệt đối với quá tŕnh chuyển dịch cơ 
								cấu nông thôn, góp phần tăng tỷ trọng công 
								nghiệp, thương mại, giảm tỷ trọng ngành nông 
								nghiệp. Qua đó cho thấy các làng nghề trên địa 
								bàn tỉnh đang dần phát triển trở lại và đem lại 
								hiệu quả kinh tế. Các lĩnh vực ngành nghề đa 
								dạng để tác động tích cực tới đời sống nhân dân 
								ở các vùng nông thôn. Chất lượng hoạt động của 
								các làng nghề được nâng lên, có tính phát triển 
								ổn định và bền vững. Sự lan toả của các làng 
								nghề để thu hút được nhiều lao động và kéo theo 
								sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau.  
							
							
								  
							 | 
						 
						
							
  | 
						 
						
							| 
							KHU DU LICH BẾN GIÓT - PHÚ THỌ | 
						 
						
							
							
								Khu du lịch Bến Giót nằm tại 
								Ngă ba Hạc thuộc hai phường Bạch Hạc và Bến Gót, 
								thành phố Việt Tŕ, tỉnh Phú Thọ.  
								Khu du lịch có diện tích khoảng 100ha, được chia 
								thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô, phần 
								phía Bắc thuộc phường Bến Gót đây là phần chủ 
								yếu, c̣n phần phía Nam thuộc phường Bạch Hạc.   
							
							
								Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn 
								tế trời và đă được tiên ông từ trên trời xuống, 
								ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em 
								cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi 
								đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới 
								thuyền mới có tên là Bến Gót, Đ́nh Bạch Hạc c̣n 
								có tên là đ́nh thôn Việt Tŕ là nơi thờ các vua 
								Hùng, Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và 
								Thuỷ Tinh đấu vơ, Miếu Hà Thần là nơi thờ thần 
								Sông đă có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man 
								Đà Giang dẹp yên bờ cơi, Đền Bạch Hạc là nơi thờ 
								thổ lệnh có tên huư là Trần Lan và em là Thạch 
								Khanh tên huư là Trần Bảo có phép thuật thần y, 
								chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở 
								Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong 
								làm thần thiêng ở ngă ba sông Hạc....  
							
								Ngoài ra trên mảnh đất này 
								c̣n tồn tại rất nhiều sự tích ly kỳ, nhiều lễ 
								hội truyền thống đặc sắc như: Hội bơi chải, Hội 
								giă bánh dầy,... nói lên sự h́nh thành tên làng, 
								tên xóm, tên sông, những nét sinh hoạt văn hoá 
								truyền thống của của nhân dân ta gắn liền với 
								nền văn minh sông Hồng và nền văn minh lúa nước.   
							
							
								Khu du lịch Bến Gót có đặc 
								trưng điển h́nh của vùng trung du Bắc Bộ, với 
								địa h́nh nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế 
								như một bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên 
								h́nh ảnh về bến nước, ḍng sông. Đặc biệt là sự 
								gắn kết hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước 
								tạo nên phong cảnh sơn thuỷ hữu t́nh, thích hợp 
								để xây dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giăn, 
								vọng cảnh.  
								Khu du lịch bao gồm các khu vui chơi giải trí, 
								thể thao, nhà vườn, cắm trại, khách sạn, nhà 
								nghỉ, câu cá, trại sáng tác, lầu b́nh thơ,... 
								được tổ chức tạo thành trục chủ đạo đi từ cổng 
								chính đến khu lầu tưởng niệm và vọng cảnh phía 
								bờ sông, kết thúc là Lầu Bạch Hạc. Lầu Bạch Hạc 
								được xây dựng theo hướng vươn cao vừa tượng 
								trưng cho đàn tế trời vừa là nơi du khách có thể 
								ngắm cảnh xa xa, dưới tầng lầu có bia tưởng niệm 
								100 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ, giúp 
								cho du khách hiểu rơ hơn nguồn gốc của đại gia 
								đ́nh các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh Lầu Bạch Hạc 
								được tái dựng tảng đá lưu vết chân và h́nh dáng 
								tiên ông phân định ngôi thứ, mở đầu cho sự hưng 
								thịnh, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc của đại gia 
								đ́nh các dân tộc Việt Nam. Phần đất phía Nam chủ 
								yếu dành cho các di tích lịch sử và thể thao 
								nước truyền thống, một phần dành cho các nhà 
								nghỉ nhỏ dưới dạng vườn nông thôn, vườn sinh 
								thái,...   
							
							 | 
						 
						
							
  | 
						 
						
							| 
							BẢO TÀNG HÙNG VƯƠNG - PHÚ THỌ | 
						 
						
							
							
								
								 Bảo 
								Tàng Hùng Vương Phú Thọ: Nhà bảo tàng Hùng Vương 
								hai tầng, cao trên ba chục mét, h́nh vuông. Nh́n 
								từ xa nhà bảo tàng giống như một khối hộp lập 
								phương, cao vút nằm trên đỉnh một quả đồi ngay 
								sát đền chính. Bảo tàng Hùng Vương là một ngôi 
								nhà có h́nh thức đậm chắc mà trang nhă, bề thế 
								mà lại rất thanh thoát, bắt đầu được khai móng 
								năm 1986, với tổng số vốn đầu tư trển tỷ đồng, 
								các nhà xây dựng đă cấu thành một ngôi nhà hoàn 
								hảo hiện đại mà dân tộc. Hiện đại ở sự bề thế 
								của quy mô xây dựng, tường ốp đá xẻ bao quanh 
								với diện tích mặt bằng gần 1.000m2. C̣n dân tộc 
								v́ đây là một chiếc nhà sàn, bốn bề có cột chống 
								trụ. Đứng từ đỉnh núi Hùng nh́n xuống, nhà bảo 
								tàng Hùng Vương như một chiếc bánh chưng  
								vuông khổng lồ. Sự khổng lồ ấy được các nhà 
								thiết kế giải thích dó là biểu hiện tượng trưng 
								của quả đất theo quan niệm người xưa: Đất vuông 
								trời tṛn. Ở giữa nhà Bảo Tàng là một vùng trần 
								thủng có khoảng trời nghiêng xuống lồng trong 
								một khuôn trăng đầy đặn. Tổng thể sự hiện diện 
								trời tṛn đất vuông ấy là ư tưởng của người kiến 
								trúc sư muốn khắc hoạ lại huyền thoại lịch sử: 
								sự tích bánh dày, bánh chưng, mà ở đây, huyền 
								thoại ấy chắc rằng mỗi người chúng ta nếu không 
								thuộc ḷng thí chí ít cũng đă một lần được nghe 
								bà kể chuyện về hoàng tử Lang Liêu làm bánh dày, 
								bánh chưng dâng tiến vua cha.  
								Câu chuyện cổ tích ấy đă phần nào nói lên được 
								quan niệm vũ trụ của con người Việt Nam cổ đại, 
								đồng thời c̣n nói lên được quan niệm vuông tṛn 
								trong tiềm thức, trong ước lệ, đó c̣n là triết 
								lư nhân văn, triết lư toàn vẹn của con người 
								Việt Nam. Sức người bằng sức lao động sáng tạo, 
								lộc trời bằng hạt gạo, hoa đất bằng hương vị cây 
								lá thiên nhiên đă cấu thành sản phẩm vật chất 
								duy tŕ sự sinh tồn của đất nước qua nhiều thế 
								hệ.   
							
								
								Nhà bảo tàng Hùng Vương được khánh thành đúng 
								trong ngày khai hội Đền Hùng năm 1993. Nó tầm cỡ 
								không chỉ v́ đó là một trong ba bảo tàng Quốc 
								Gia được người đứng đầu Đảng và Nhà Nước cắn rốn 
								khai sinh:  
								- Bảo tàng cách mạng Việt Nam: thủ tướng Phạm 
								Văn Đồng cắt băng khánh thành năm 1959.  
								- Bảo tàng Hồ Chí Minh: chủ tịch HĐBT Đỗ Mười 
								cắt băng khánh thành năm 1990.  
								- Bảo tàng Hùng Vương: tổng bí thư Đỗ Mười cắt 
								băng khánh thành năm 1993.  
								Sự tầm cỡ ở đây chính là nội dung khoa học- 
								tiếng nói của những hiện vật lịch sử đang chứa 
								đựng trong ḷng nó.  
								Với hơn 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 3.000 
								hiện vật có trong kho bảo tàng, 162 bức ảnh, 5 
								bức tranh sơn mài, 9 bức g̣ đồng 5 hộp b́nh, 1 
								nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng 
								bày đă khắc hoạ chủ đề tổng quát: từ văn minh 
								nông nghiệp các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên 
								mảnh đất Phong Châu lịch sử (BAO gồm Vĩnh Phú và 
								1 phần Hà Tây, Hà Nội ngày nay).   
							
								
								Thăm quan bảo tàng Hùng Vương dù khách có là 
								người du lịch hay là nhà nghiên cứu hoặc là 
								người dân lao động b́nh thường, ai ai cũng đều 
								cảm nhận được trước sự biến thiên vĩ đại của 
								lịch sử dân tộc ta từ buổi b́nh minh, cuộc sống 
								c̣n mông muội đă làm nên một vua Hùng và một 
								nước Văn Lang.  
								Phần trưng bày của bảo tàng Hùng Vương được tập 
								trung vào 3 chủ đề chính:  
								- Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng 
								các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương 
								hiện t́m được trên đất Vĩnh Phú.  
								- Giới thiệu việc h́nh thành khu di tích Đền 
								Hùng và ư thức xây dựng khu di tích Đền Hùng của 
								nhân dân cả nước.  
								- T́nh cảm của nhân dân, sự quan tâm cả các chế 
								độ trước, đến Bác Hồ và các đồng chí lănh đạo 
								Đảng ngày nay đối với Đền Hùng.   
							
								
								Ư đồ nổi bật trong trưng bày bảo tàng Hùng Vương 
								về nội dung và giải pháp kỹ thuật, mỹ thuật là 
								việc giải quyết đề tài trưng bày mối quan hệ hữu 
								cơ giữa văn hoá Hùng Vương, văn minh sông Hồng 
								với lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam.  
								Mục đích của ư đồ trưng bày nhằm làm rơ tầm quan 
								trọng của khu di tích lịch sử Đền Hùng, Bộ Văn 
								Lang và địa thế dựng nước của các Vua Hùng.  
								Trưng bày bảo tàng Hùng Vương đă cố gắng đảm bảo 
								sự tuân thủ những nguyên tắc của phương pháp 
								luận sử học Mác Xít và nguyên tắc bảo tàng học, 
								trên đài trưng bày có 5 trọng tâm- 5 mốc lịch sử 
								quan trọng trong quá tŕnh h́nh thành con người 
								Việt Nam, 5 trọng tâm ấy được nhân dân ở 5 vị 
								trí trang trọng:  
								- Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ  
								- Bắt đầu dựng nước.  
								- Sự nghiệp xây dựng nước Văn Lang của các Vua 
								Hùng  
								- Khu di tích Đền Hùng và việc thờ cúng Vua Hùng 
								trên thềm đất cổ Phong Châu  
								- T́nh cảm của nhân dân, sự quan tâm của các chế 
								độ trước đến Bác Hồ và các đồng chí lănh đạo 
								Đảng ngày nay với Đền Hùng.  
							
								
								Dọc theo 5 trọng tâm có 5 điểm phim tài liệu, 
								khoa học phù trợ với nội dung lịch sử: Giỗ Tổ 
								Hùng Vương, Vua Hùng dạy nhân dân cấy lúa, lễ 
								hội Làng He, tṛ Trám và sự tích rước lúa thần, 
								hát xoan và sự tích làm bánh chưng bánh dày, Vua 
								Hùng đi săn.  
								Trưng bày Bảo Tàng Hùng Vương hướng tới chiều 
								sâu. T́m về cuội nguồn. Mục đích của giải pháp 
								này nhằm làm rơ giai đoạn văn hoá Hùng Vương và 
								thời đại Hùng Vương dựng nước.  
								 Pḥng 
								1: giới thiệu chung nội dung trọng tâm thứ nhất:
								 
								Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ. Với số 
								lượng hiện vật gồm 1 sa bàn, 1 hộp h́nh, 2 bức 
								tranh sơn măi cỡ lớn, 18 mẫu động thực vật, 12 
								mẫu khoáng sản, 20 công cụ đá Sơn Vi và một số 
								ảnh chụp cùng những hiện vật khác đă khái lược 
								h́nh thế thiên nhiên và sức sống buổi b́nh minh 
								lịch sử của con người Việt Nam. Một vùng đất hợp 
								lưu nơi ngă ba sông Hồng, Đà, Lô giàu đẹp và 
								thuận lợi từ hàng vạn năm xa xưa đă trở thành 
								môi trường tụ cư sinh sống cho các loại động, 
								thực vật và cho con người. Lớp trầm tích t́m 
								được và hộp h́nh cùng những ảnh chụp hang Ngựa 
								(Thu Cúc- Thanh Sơn) là di chỉ xa xưa đầu tiên 
								có dấu vết cư trú của con người cách nay trên 4 
								vạn năm. Dấu vết hoá thạch của các xương lợn 
								rừng, hươu nai là dấu vết minh chứng cho sự vận 
								động của con người chinh phục thiên nhiên để duy 
								tŕ sự sinh tồn ở thời kỳ xa xưa ấy.  
								Trong tiến tŕnh phát triển lịch sử xă hội, con 
								người Việt Nam thời thượng cổ đă trải qua 5 giai 
								đoạn văn hoá: Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, G̣ 
								Mun, Đông Sơn, 5 giai đoạn phát triển văn hoá là 
								5 bước tiến dài vạn dặm trong lịch sử phát triển 
								của dân tộc. Hơn 100 địa điểm văn hoá Sơn Vi có 
								độ tuổi từ 1 vạn rưỡi đến 2 vạn năm với những 
								công cụ cuộc ghè đập là chứng tích sinh tồn của 
								người nguyên thuỷ trên đất Vĩnh Phú- Văn Lang, 
								đất bản bộ của các Vua Hùng.   
							
								
								Pḥng 2: Bắt đầu thời dựng nước    
							
								
								Bằng những hiện vật gốc có chọn lựa phong phú từ 
								ba nền văn hoá: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, G̣ Mun… 
								có nhiều tài liệu khoa học phụ mô tả từng mảng 
								cuộc sống sinh hoạt của con người vận động hợp 
								quy luật biến thiên của lịch sử. Công cụ đá mài 
								từ giản đơn đến phức tạp, từ thô ráp đến tinh 
								xảo: ŕu có vai, ŕu mài tứ diện, cuốc đá, chày 
								nghiền, đồ trang sức (ṿng tay đá, khuyên đá…) 
								vô cùng phong phú bên cạnh những sưu tập gốm đa 
								dạng: nồi, ṿ, b́nh gốm, bát gốm, dọc xe chỉ, 
								chài lưới… được trưng bày nhằm giới thiệu cho 
								người xem thấy được nghề sống chính của cư dân 
								nguyên thuỷ nước ta là làm nông nghiệp, trồng 
								lúa nước, săn bắt và hái lượm. Qua từng bước 
								biến thiên của lịch sử, con người từ chỗ sống 
								bằng săn bắt, hái lượm đă biết đấu tranh cải tạo 
								thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên, bắt thiên 
								nhiên phục vụ cuộc sống con người. Nền kinh tế 
								nông nghiệp một ngày phát triển. Cuộc sống con 
								người dần no đủ, có tích luỹ của cải, có sự phân 
								chia người nghèo, kẻ giàu có sự h́nh thành giai 
								cấp. Những Nha chương bằng đá t́m được ở Gia 
								Thanh, Thanh Đ́nh(Phong Châu) là vật chứng điển 
								h́nh chứng minh cho sự h́nh thành các tộc người, 
								sự tập trung uy quyền vào người đứng đầu bộ tộc. 
								Khi công cụ bằng đồng xuất hiện, những mùi cày 
								đồng (Vạn Thắng), lưỡi liền đồng (G̣ De), lưỡi 
								ŕu đồng (Làng Cả) được ra đời và ngày càng đa 
								dạng, phong phú. Đó là dấu tích chứng minh cho 
								sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp buổi 
								ban đầu.   
							
								
								Những mũi lao, mũi tên đồng, lưỡi câu đồng là 
								vật chứng không chỉ chứng minh cho sự phát triển 
								trí tuệ và khả năng chinh phục thiên nhiên phục 
								vụ cuộc sống con người. Đó c̣n là dấu hiệu khả 
								năng tự vệ của con người trong sự đấu tranh giai 
								cấp, đấu tranh sinh tồn giữa các tộc người trong 
								xă hội có sự phân chia đẳng cấp.   
							
								
								Dấu tích sự ra đời của hạt lúa đă đánh dấu bước 
								tiến dài trong lịch sử kinh tế nông nghiệp. Đó 
								là hiện vật gốc chứng minh cho thành tựu lớn lao 
								của con người chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên 
								phục vụ cuộc sống con người.   
							
								
								Pḥng 3: Sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các 
								Vua Hùng    
							
								
								Hàng năm hiện vật được trưng bày để nêu bật chủ 
								đề văn hoá Đông Sơn – văn hoá Hùng Vương, song 
								đáng chú ư gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người 
								xem là bộ sưu tập trống đồng (10 chiếc) được 
								phát triển rải rác trên thềm đất Phong Châu. 
								Tiêu biểu hơn cả là chiếc trống đồng Đền Hùng. 
								Chiếc trống này được phát hiện tại làng Cổ Tích 
								cách chân núi Hùng khoảng 500m. Cho tới nay 
								trống đồng Đền Hùng được các nhà khoa học xếp 
								vào các loại đứng đầu hàng dọc trong hệ thống 
								trống loại 1 Hê gơ t́m thấy ở Việt Nam. So với 
								trống đồng Đền Hùng kiểu dáng và cách thức trang 
								trí tương đồng song có kích thước và dáng vẻ bề 
								thế hơn và điều quan trọng là nó được t́m thấy 
								ngay tại chân núi Hùng.   
							
								
								Bên cạnh trống đồng Đền Hùng là trống đồng Tân 
								Long. Đây là một trong những chiếc trống có 
								đường kính lớn nhất so với toàn bộ trống đồng 
								t́m thấy ở Việt Nam (trống đồng có đường kính 
								mặt 108 cm).   
							
								
								Bộ hiện vật điển h́nh thứ 2 là sưu tập vũ khí 
								bằng đồng, lưỡi cày đồng, thuổng đồng, ŕu đồng, 
								dao găm đồng, mũi tên đồng, lao đồng…đa dạng và 
								phong phú. Đó là dấu hiệu phản ánh giai đoạn văn 
								hoá Đông Sơn phát triển rực rỡ, có sự phân diện 
								rộng răi từ biên giới phía bắc tới các tỉnh miền 
								trung nước ta bây giờ. Công cụ đồng xuất hiện 
								ngày càng đa dạng, phong phú và điêu luyện, cục 
								diện kinh tế ngày càng phát triển đă đưa tŕnh 
								độ xă hội phát triển cao hơn. Các thủ lĩnh họ 
								Hùng với cương vị đứng đầu bộ lạc văn lang từ 
								nền tảng kinh tế lạc hậu thời kỳ đá mới qua giai 
								đoạn sơ kỳ đồng thau đă vượt lên mở rộng địa bàn, 
								đẩy mạnh sự phát triển văn minh và xă hội tới 
								bước phát triển cực thịnh trong gia đoạn văn hoá 
								công cụ đồng thau – sắt sớm. Từ sự liên minh bộ 
								lạc đến sự áp phục 15 bộ lạc gần xa để trở thành 
								thủ lĩnh liên minh bộ lạc rồi quân chủ quốc gia: 
								Hùng Vương ở thiên niên kỷ 11 trước công nguyên. 
								Bộ Văn Lang của các thủ lĩnh họ Hùng đă trở 
								thành địa bàn gốc của nước Văn Lang. Một nhà 
								nước xă hội kiểu “ phương thức sản xuất Châu A” 
								ra đời, nhà nước đầu tiên của xă hội Việt Nam. 
								Đó là thành tựu, là công lao vĩ đại không ǵ 
								sánh nổi của các vua Hùng. Nền văn hoá mang sắc 
								thái riêng và cốt cách riêng của dân tộc bắt đầu 
								được h́nh thành và phát triển. Một giai đoạnh 
								lịch sử, một thời đại mới ra đời: Thời đại xây 
								dựng đất nước của các vua Hùng.   
							
								
								Pḥng 4 và 5: giới thiệu khi di tích lịch 
								sử Đền Hùng, vịêc thờ cúng vua Hùng trên thềm 
								đất cổ Phong Châu, t́nh cảm của nhân dân, sự 
								quan tâm của các chế độ xă hội tới Đền Hùng.   
							
								
								Cho tới nay qua kiểm kê di tích lịch sử văn hoá, 
								trên đất Vĩnh Phú có 587 nơi thờ Hùng Vương, vợ 
								con và tướng lĩnh các vua Hùng. Bên cạnh những 
								dấu tích vật chất c̣n có những trang huyền thoại 
								kỳ diệu phản ánh sự hào hùng, sự bay bổng kỳ 
								diệu của những nhân thần, người anh hùng dân tộc 
								đă có công dựng nước và bảo vệ đất nước.  
								Các ngôi đ́nh làng: Hùng Lô, Đào Xá, Hương Nộn, 
								Lâu Thượng, Cổ Tích…là những công tŕnh kiến 
								trúc hoàn hảo ở mọi góc độ được nhân dân lập nên 
								để thờ cúng vua Hùng nhưng đó lại là di tích 
								quan trọng vào bậc nhất. Ơ đó di tích không chỉ 
								mang tính tưởng niệm trong các ngôi đền do dân 
								đời sau lập nên mà ở đây dấu tích lưu niệm của 
								các vua Hùng vẫn c̣n phảng phất trong những pho 
								huyền thoại lịch sử.   
							
								
								Bộ hiện vật tiêu biểu của pḥng 4 và 5 là bộ sưu 
								tập ảnh lễ hội Đền Hùng trong thế kỷ XX và đặc 
								biệt tiêu biểu hơn cả là bộ ảnh lưu niệm Chủ 
								tịch Hồ Chí Minh thăm Đền Hùng năm 1954 với sự 
								kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Danh 
								nhân Văn hoá Thế giới đă căn dặn: “ Các vua Hùng 
								đă có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau 
								giữ lấy nước” với 61 tài liệu khoa học của các 
								học giả, các nhà khoa học trong và ngoài nước 
								nghiên cứu về Đền Hùng và thời đại Hùng Vương 
								được trưng bày cùng với hơn 100 hiện vật do đồng 
								bào Việt Nam khắp mọi miền thờ cúng vua Hùng đă 
								nêu bật chủ đề: T́nh cảm và trách nhiệm của nhân 
								dân với Đền Hùng và các vua Hùng đă có công dựng 
								nước.   
							
								
								C̣n nhiều nữa h́nh ảnh các đồng chí lănh đạo 
								Đảng và Nhà nước thăm viếng Đền Hùng xem xét quy 
								hoạch tổng thể di tích Đền Hùng xây dựng nhà bảo 
								tàng Hùng Vương…. Bên cạnh một số h́nh ảnh các 
								đoàn khách quốc tế thăm Đền Hùng đều phản ánh 
								tấm ḷng của dân tộc và bè bạn với Tổ tiên dân 
								tộc Việt Nam.   
							
								
								Trong nhà bảo tàng c̣n có 1 pḥng chiếu video 
								với sức chứa trên 50 người xem một lượt các bộ 
								phim về lễ hội Đền Hùng xưa, nay, phim về một số 
								tích tṛ dân gian theo thuyền thoại, lịch sử 
								được chiếu phục vụ khách tham quan. Đó là những 
								tài liệu h́nh ảnh sống động mô phỏng sự tích 
								lịch sử đă cung cấp cho người xem nhiều tư liệu 
								khoa học và một số lượng thông tin lớn về lịch 
								sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam, xă hội Việt Nam, 
								văn hoá Việt Nam thời vua Hùng dựng nước.   
							
								
								Nhà bảo tàng Hùng Vương ra đời đă phần nào đáp 
								ứng ḷng mong đợi của đồng bào cả nước, của 
								người Việt Nam sống xa Tổ quốc, của các nhà khoa 
								học và của bè bạn Quốc tế. Thăm viếng Đền Hùng 
								và tham quan nhà bảo tàng Hùng Vương người Việt 
								Nam có được một dịp ôn lại truyền thống đạo lư 
								uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, 
								hiểu sâu sắc hơn về thời đại các vua Hùng dựng 
								nước và tấm ḷng toàn dân tộc với Đền Hùng. C̣n 
								đối với khách Quốc tế thăm Đền Hùng và bảo tàng 
								Hùng Vương sẽ có dịp hiểu được ngọn nguồn dân 
								tộc Việt Nam, văn hoá Việt Nam, truyền thống 
								Việt Nam và đạo lư của con người Việt Nam.   
							
								
								Nh́n tổng thể nội dung và ư đồ trưng bày bảo 
								tàng Hùng Vương là hướng người xem vào chiều sâu 
								tư tưởng, nhận được dung mạo con người Việt Nam: 
								Quá khứ – Hiện tại – Tương lai. Mặt khác nội 
								dung trưng bày bảo tàng Hùng Vương phản ánh được 
								mối quan hệ giữa vua Hùng – Đền Hùng và thời đại 
								Hùng Vương dựng nước.   
							
								
								Bảo tàng Hùng Vương đă trở thành di sản văn hoá 
								mọi thời đại. Đó là một thiết chế văn hoá quan 
								trọng của nước Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt 
								Nam tưởng niệm công lao của các vua Hùng đă có 
								công dựng nước.  
								 
								Phú Thọ là nơi có các đ́nh, đền, miếu để thờ các 
								vua Hùng và các tướng lĩnh của vua Hùng nhiều 
								nhất Việt Nam. Cho nên, lễ hội quan trọng và 
								đáng kể nhất nơi đây phải nói đến đó là lễ hội 
								giỗ tổ Hùng Vương- lễ hội đă được nhà nước công 
								nhận là Quốc Lễ.  
								Toàn tỉnh có 700 điểm thờ, tập trung nhiều nhất 
								ở Lâm Thao, huyện Tam Nông, thành phố Việt Tŕ, 
								huyện Phù Ninh, huyện Thanh Thủy, huyện Cẩm Khê. 
								Các đền thờ này chủ yếu thờ các bài vị sắc phong 
								của các vua Hùng và tướng lĩnh.  
   
							
							
								
								Phường Bạch Hạc, phường Bến Gót nằm ở phía Nam 
								thành phố Việt Tŕ, cửa ngơ nối liền giữa Phú 
								Thọ và các tỉnh miền núi phía Tây Bắc với thủ đô 
								Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.  
								Ngă ba Hạc từ lâu đă nổi tiếng bởi vùng sông 
								nước hữu t́nh, nơi tụ nhân, tụ thuỷ, tụ khí, 
								buôn bán kinh doanh sầm uất. Trên mảnh đất này 
								c̣n tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá, gắn 
								liền với vùng "địa linh, hào khí", bên cạnh đó 
								là những sự tích từ thời vua Hùng dựng nước Văn 
								Lang. Cho đến ngày nay, vùng ngă ba Hạc vẫn c̣n 
								tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá có giá trị, 
								có thể phát triển nhiều loại h́nh du lịch như 
								thể thao, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí....  
							
								
								Ngă ba Hạc hợp lưu bởi sông Thao, sông Đà, sông 
								Lô, tạo nên ḍng trong, ḍng đục, nước sông rộng 
								mênh mông như biển cả, xa xa tả có Tam Đảo, hữu 
								có Ba V́, hai bên bờ là các làng mạc, ruộng vườn 
								tươi tốt, bến sông thuyền bè tấp nập vào ra.... 
								tất cả những phong cảnh đó đă tạo cho ngă ba Hạc 
								có cảnh trí vừa thơ mộng, vừa hữu t́nh. Bạch Hạc 
								- Bến Gót ngày nay thuộc phủ Tam Đới xưa, c̣n 
								tồn tại rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, các 
								truyền thuyết, chuyện kể về quá tŕnh dựng nước 
								và giữ nước của ông cha ta như: “Hoa Long Thiền 
								Tự” xưa ở bến sông Thông, cạnh chùa có một tảng 
								đá ven sông, trên mặt c̣n hằn vết gót chân. 
								Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn 
								tế trời và đă được tiên ông từ trên trời xuống, 
								ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em 
								cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi 
								đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới 
								thuyền mới có tên là Bến Gót, Đ́nh Bạch Hạc c̣n 
								có tên là đ́nh thôn Việt Tŕ là nơi thờ các vua 
								Hùng, Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và 
								Thuỷ Tinh đấu vơ, Miếu Hà Thần là nơi thờ thần 
								Sông đă có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man 
								Đà Giang dẹp yên bờ cơi, Đền Bạch Hạc là nơi thờ 
								thổ lệnh có tên huư là Trần Lan và em là Thạch 
								Khanh tên huư là Trần Bảo có phép thuật thần y, 
								chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở 
								Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong 
								làm thần thiêng ở ngă ba sông Hạc..... Ngoài ra 
								trên mảnh đất này c̣n tồn tại rất nhiều sự tích 
								ly kỳ, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như: 
								Hội bơi chải, Hội giă bánh dầy,... nói lên sự 
								h́nh thành tên làng, tên xóm, tên sông, những 
								nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của của nhân 
								dân ta gắn liền với nền văn minh sông Hồng và 
								nền văn minh lúa nước.   
							
								
								Với diện tích 100 ha, khu Du lịch Bến Gót được 
								chia thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô, 
								trong đó phần lănh thổ phía Bắc (thuộc phường 
								Bến Gót) là chủ yếu. Khu du lịch có đặc trưng 
								điển h́nh của vùng trung du Bắc Bộ, với địa h́nh 
								nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế như một 
								bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên h́nh ảnh 
								về bến nước, ḍng sông. Đặc biệt là sự gắn kết 
								hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước tạo nên 
								phong cảnh sơn thuỷ hữu t́nh, thích hợp để xây 
								dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giăn, vọng cảnh. 
								Khu du lịch Bến Gót bao gồm những thành phần chủ 
								yếu như: vui chơi giải trí, thể thao, nhà vườn, 
								cắm trại, khách sạn, nhà nghỉ, câu cá, trại sáng 
								tác, lầu b́nh thơ,... được tổ chức tạo thành 
								trục chủ đạo đi từ cổng chính đến khu lầu tưởng 
								niệm và vọng cảnh phía bờ sông, kết thúc là Lầu 
								Bạch Hạc. Lầu Bạch Hạc được xây dựng theo hướng 
								vươn cao vừa tượng trưng cho đàn tế trời vừa là 
								nơi du khách có thể ngắm cảnh xa xa, dưới tầng 
								lầu có bia tưởng niệm 100 người con của Lạc Long 
								Quân - Âu Cơ, giúp cho du khách hiểu rơ hơn 
								nguồn gốc của đại gia đ́nh các dân tộc Việt Nam. 
								Bên cạnh Lầu Bạch Hạc được tái dựng tảng đá lưu 
								vết chân và h́nh dáng tiên ông phân định ngôi 
								thứ, mở đầu cho sự hưng thịnh, đoàn kết, thương 
								yêu, đùm bọc của đại gia đ́nh các dân tộc Việt 
								Nam. Phần đất phía Nam chủ yếu dành cho các di 
								tích lịch sử và thể thao nước truyền thống, một 
								phần dành cho các nhà nghỉ nhỏ dưới dạng vườn 
								nông thôn, vườn sinh thái,... Việc phân khu chức 
								năng trên cơ sở địa h́nh của khu vực quy hoạch 
								và các di tích lịch sử, truyền thuyết sẵn có của 
								khu vực, tạo nên hệ thống không gian sinh động, 
								gây ấn tượng mạnh mẽ, có sức hấp dẫn lớn đối với 
								khách du lịch.   
							
							 | 
						 
						
							
  | 
						 
						
							| 
							ĐỀN GIẾNG - PHÚ THỌ | 
						 
						
							
							
								
								 Đền 
								Giếng Phú Thọ: Kiến trúc có vào khoảng thế kỷ 
								XVIII. Đền Giếng nằm dưới chân núi Hùng gồm ba 
								lớp nhà và hai nhà oản hai bên. Tương truyền khi 
								theo cha đi kính lư qua vùng này, hai nàng Tiên 
								Dung- Ngọc Hoa con gái Vua Hùng Vương thứ 18 
								thường đến đây soi gương chải tóc. Hai nàng đă 
								có công cùng chồng khẩn hoang, trị thuỷ, dạy dân 
								trồng lúa xây dựng cuộc sống.  
								Theo truyền thuyết nàng Tiên Dung xinh đẹp, đến 
								tuổi trăng tṛn có nhiều người tài giỏi đến cầu 
								hôn. Nàng Tiên Dung không muốn lấy chồng, để 
								được thường xuyên đi du ngoạn núi rừng. Một lần 
								Tiên Dung bơi dọc sông hồng về xuôi, tới vùng dạ 
								trạch (khoái châu-hải hưng) Tiên Dung nghỉ, tắm 
								trên băi cát. Không ngờ gặp Không 
								ngờ gặp Chữ Đồng Tử, chàng trai nghèo khổ v́ mẹ 
								mất sớm, cha gà trống nuôi con, hai cha con 
								nghèo có mỗi chiếc khố che thân, một năm cha 
								chết nốt, Chữ Đồng Tử không nỡ bó chiếu chôn cha 
								ở trần, c̣n cái khố cuối cùng nhường cha. Thấy 
								thuyền của tiên dung neo bên bến cát, Chữ Đồng 
								Tử không có quần áo đang ngâm ḿnh đánh dậm dưới 
								đầm, liền vùi ḿnh trong cát. Vô h́nh nàng tiên 
								dung quây màn tắm đúng chỗ Chữ Đồng Tử dấu ḿnh, 
								nước chảy cát trôi Chữ Đồng Tử bị lộ. Chàng 
								tŕnh bày gia cảnh vất vả xin nàng tha tội. Tiên 
								dung thấy chàng là người hiếu nghĩa nên xin cha 
								cho lấy. Nàng theo chồng về vùng dạ trạch, cùng 
								chồng khẩn hoang, dạy dân trồng lúa.  
								C̣n ngọc hoa xinh đẹp vua cho dựng lầu kén rể, 
								hai chàng trai giỏi sơn tinh- thủy tinh cùng đến 
								cầu hôn, thi tài. Cuối cùng sơn tinh thắng cuộc 
								lấy được nàng ngọc hoa, hai vợ chồng về vùng núi 
								tản quê hương của sơn tinh cùng dân làng trị 
								thủy sông, trồng lúa nước, xây dựng cuộc sống. 
								Thủy tinh thua cuộc hàng năm ôm hận, cứ đến mùa 
								tháng 6, tháng 7 ( âm lịch), lại dâng nước làm 
								lũ lụt lội đ̣i lại người yêu.  
								Tại đền giếng chiều ngày 18/9/1945, bác hồ đă về 
								nghỉ ở đây, hôm sau 19/9/1945, bác đă gặp gỡ và 
								nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ đại đoàn quân 
								tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô. Lời 
								bác dặn đă trở thành chân lư:  
								 
								“ các vua hùng đă có công dựng nước bác 
								cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. 
								 
								 
								Ngày xa xưa, núi nghĩa lĩnh là nơi thờ thần tự 
								nhiên trước khi các vua Hùng. Tục truyền rằng 
								hùng vương và các quan tướng thường đến đây làm 
								lễ tế trời thờ lúa, cầu mong cho giống ṇi sinh 
								sôi nảy nở, mùa màng tốt tưới, cộng đồng no đủ. 
								Do đó cho đến nay đền thượng vẫn c̣n có tên gọi 
								kính thên lĩnh điện (tức điện thờ trời trên núi 
								Nghĩa Lĩnh), là nơi cấm địa (đất cấm). Đồng bào 
								địa phương c̣n kể chuyện lại rằng: trước đấy gần 
								một thế kỷ vẫn có thờ hạt lúa thần. Đó là h́nh 
								tượng hạt thóc làm bằng đá to như cái thuyền ba 
								cẵng được thờ tại đền thượng. Phía sau núi nghĩa 
								lĩnh c̣n có núi thứ hai cao gần bằng nghĩa lĩnh 
								đó là núi trọc, c̣n có ḥn cối xay hay là ḥn đá 
								ông đá bà( tục truyền là nghi thức thờ sinh lực 
								khí). Như vậy từ xa xưa, cư dân ở đây đă có 
								những tín ngưỡng phồn thực nông nghiệp tôn thờ 
								những thế lực huyền bí của tự nhiên, mong được 
								những thế lực đó phù hộ cuộc sống của con người. 
								Khi con người chưa chế ngự khắc phục nổi tự 
								nhiên, th́ việc thờ các thần tự nhiên là lẽ tất 
								nhiên. Về sau vào thời phong kiến độc lập tự chủ, 
								khoảng thế kỉ XIII-XIV, với ư thức “ uống nước 
								nhớ nguồn”, nhớ ơn tổ tiên dựng nước, ngườ việt 
								xây dựng các ngôi đến thờ hùng vương trên núi 
								nghĩa lĩnh. Ba ngôi đền : đền thượng, đền trung, 
								đền hạ đều thờ 18 đời vua Hùng cùng các vị thần 
								núi. Trong ba ngôi đền đều gồm 4 cỗ long ngai, 3 
								cỗ ngai chính diện bài vị thờ :  
								Đột ngột cao sơn cổ việt hùng, thị thập bát thế 
								thánh vương thánh vị (thần núi cao, 18 đời hùng 
								vương thánh vương thánh vị).  
								- Ất sơn thánh vương thánh vị (thần núi gần 
								thánh vương thánh vị).  
								- Viễn sơn thánh vương thánh vị (thần núi xa 
								thánh vương thánh vị ).  
								Đó là tục thờ thần núi (tam sơn cấm địa – 3 ngọn 
								núi cấm) của cư dân vùng cao và cả 18 đời Hùng 
								Vương. Như vậy vào khoảng thế kỷ VIII-XIV trên 
								núi Nghĩa Lĩnh đă có tín ngưỡng thờ nhân thần (vua 
								Hùng tổ tiên người Việt) bên cạnh các thiên thần.
								 
								- Cỗ long ngai thứ 4 lùi xuống phía bên trái của 
								đền không bài vị thờ con gái vua Hùng. Trong 
								truyền thuyết và văn tế đền hùng ngày xưa là thờ 
								hai nàng Tiên Dung – Ngọc Hoa.  
								- Ngôi chùa thiền quang thờ phật  
								- Đền giếng thờ hai nàng công chúa tiên dung – 
								ngọc hoa. Như vậy không kể một chùa và đền giếng 
								th́ các ngôi đền trên núi hùng ở ban cấp khác 
								nhau, thờ giống nhau. Nguyên do là sự phát triển 
								phân chia làng xă ở khu vực. Trước thế kỷ XIV, 
								làng trẹo là cư dân duy nhất ở vùng này, làm đền 
								giữa núi hùng để thờ tổ tiên (bây giờ là đền 
								trung). Làng Trẹo về sau đông con cháu, mới tách 
								làm hai làng. Làng mới đi vào Lũng Cỏ lập làng 
								Cả là tiền thân của làng Cổ Tích sau này. Thế kỷ 
								XV giặc ngoại xâm đă tàn phá Đền Trung và Làng 
								Cả. Hoà b́nh trở lại, những người c̣n sống sót 
								của cư dân làng Cả và một vài nơi khác đến ngụ 
								cư tại chân núi Hùng, làng Cô Tích có từ đó. 
								Làng Cổ Tích dựng đền Thượng, Chùa và Gác Chuông. 
								Cùng thời gian đó làng Trẹo dựng lại Đền Trung 
								trên nền đền cũ ở lưng chừng núi, kiến thiết cột 
								gỗ lớn có thớt đá kê, mái lợp ngói.  
								Thế kỷ XVII làng Trẹo tách một dân nữa, làng mới 
								này là làng Vi (nay thuộc xă Chu Hoá- huyện 
								Phong Châu), làng Vi dựng Đền Hạ c̣n làng Trẹo 
								và Cổ Tích thuộc xă Hy Cương- huyện Phong Châu. 
								Vốn nguồn gốc cùng một cư dân, cùng thờ một vị 
								thần nên khi tách làng xă các thần vẫn thờ giống 
								nhau ở các đền khác nhau trên núi Nghĩa Lĩnh. 
								Dân làng Cổ Tích quản lư và trông coi Đền Thượng, 
								Chùa và Gác Chuông, Đền Giếng, làng Trẹo trông 
								coi Đền Trung, Làng Vi trông coi Đền Hạ.  
								Thường ngày xưa có hai ngày cầu chính vào tháng 
								giêng và tháng tám. Tháng ba cùng nhau mở cửa 
								đền làm hội. Cư dân xă Hy Cương vào thời nhà Lê 
								được nhận làm “con trưởng tạo lệ”, trong cuốn 
								“Ngọc Phả” do trực hoạ Nguyễn Cố soạn năm 1470 
								có đoạn viết: “Phụng ban hương Trung Nghĩa (Cổ 
								Tích) làm dân trưởng tạo lễ, cấp 500 mẫu ruộng 
								tại xă Hy Cương, lại cho thu thuế ruộng của một 
								vùng trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới Việt 
								Tŕ làm hương hoả phụng thờ”.  
								 Hàng 
								năm con trưởng chỉ có nghĩa vụ đi lính, c̣n được 
								miễn thuế khoá, tiền thuết và ruộng chỉ làm đèn 
								nhang cúng lễ Đền Hùng. Thời xưa việc cúng Tổ 
								vào ngày 12 tháng 3 âm lịch hàng năm, thường khi 
								con cháu ở những miền xa về làm giỗ trước một 
								ngày vào ngày 11 tháng 3 âm lịch. Cuốn Ngọc Phả 
								Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê c̣n có đoạn 
								“Từ đời nhà Đinh, nhà Lê, Nhà Lư, nhà Trần rồi 
								đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn 
								cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung 
								Nghĩa (Cổ Tích). Ở đây nhân dân toàn quốc đều 
								đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của đấng thánh 
								tổ xưa…”  
								Đền thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một 
								lần (vào các năm thứ 5 và 10 của thập kỷ) có 
								quan triều đ́nh về cúng tế cùng quan hàng tỉnh 
								và ông chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 
								3 âm lịch, để những ngày sau cho nhân dân mọi 
								miền về làm lễ hội. Do đó ngày giỗ tổ sau này 
								mới là ngày 10/3 âm lịch hàng năm:  
								 
								“ Dù ai đi ngược về xuôi  
								Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3  
								Khắp miền truyền măi câu ca  
								Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”. 
								 
								 
								Như vậy trong thời đại phong kiến, các vương 
								triều luôn luôn coi trọng việc tế lễ Vua Hùng và 
								xem đó như một việc hệ trọng của cả nước. Từ khi 
								có Cách Mạng Tháng Tám thành công đến nay. Chính 
								phủ nước Việt Nam đều tổ chức dâng hương tưởng 
								niệm các Vua Hùng vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm 
								theo nghi thức nhà nước.  
								Vào ngày lễ hội, lá cờ thần được treo trên đỉnh 
								núi Hùng, có 41 làng xă thuộc đất Vĩnh Phú (riêng 
								huyện Phong Châu là 38 làng xă) rước kiệu dâng 
								lễ về lễ tổ. Trên các cỗ kiệu có bày lễ vật, đi 
								kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt bát bửu, 
								lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa 
								thường phải rước 2-3 ngày mới tới. Lại có những 
								hoạt động văn hoá mang đậm sắc thái dân gian 
								truyền thống, trí thông minh và tinh thần thượng 
								vơ của người Việt như: Đu quay, đấu vật, chọi gà, 
								kéo co, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng, hát 
								xoan, hát ví ghẹo… cờ tướng ở hội Hùng xưa không 
								thể thiếu được, thường các năm tướng bà bao giờ 
								cũng là người đẹp của đất Phong Châu, c̣n tướng 
								ông có thể từ các vùng khác đến: hội xưa thường 
								mở từ mùng 7 đến mùng 10/3 âm lịch, các cuộc cờ 
								tướng cũng được tổ chức suốt mấy ngày hội. Đă 
								không ít hội xưa, sau ba ngày hội, tướng bà theo 
								tướng ông về xuôi, bất chấp cả luật lệ phong 
								kiến hà khắc khi chưa cưới hỏi.  
								Hội Hùng là một lễ hội đặc biệt của dân tộc Việt 
								Nam, người Việt về giỗ tổ tỏ ḷng kính hiếu tôn 
								trọng tổ tiên, nhưng cũng là để nhân thêm t́nh 
								yêu thương con người, xứ sở, niềm tin vào cộng 
								đồng của dân tộc Việt Nam.  
								Đền Hùng cùng ngày giỗ tổ giành cho tất cả mọi 
								người Việt Nam, từ các Nguyên thủ quốc gia đến 
								người dân nước Việt, tất cả các số phận, các 
								cuộc đời, các ngành giới không kể tông giáo, 
								miền ngược hay miền xuôi, trải qua bao thế kỷ 
								người Việt vẫn về kính viếng tổ tiên. Tín ngưỡng 
								cả nước thờ chung một ông tổ có lẽ trên thế giới 
								này chỉ có ở Việt Nam, điều đó đă trở thành 
								truyền thống, lẽ tự nhiên của dân tộc Việt.  
							
							 | 
						 
						
							
  | 
						 
						
							| 
							LĂNG TỔ - PHÚ THỌ | 
						 
						
							
							
								
								 Lăng 
								Tổ Phú Thọ: Lăng Tổ Được xây dựng vào thời gian 
								nào không ai nhớ rơ. Xưa có thể là mộ đất có mái 
								che, sau tới năm 1874, được xây dựng kiểu dáng 
								như ngày nay.  
								Tương truyền phần mộ là của Vua Hùng thứ 6, theo 
								lời dặn của Người: hăy chôn ta trên núi Cả, để 
								đứng trên núi cao ta c̣n trông nom bờ cơi cho 
								con cháu.  
								Cạnh Đền Thượng c̣n có một cột đá, người xưa 
								truyền lại khi Thục Phán được Vua Hùng nhường 
								ngôi, đă dựng cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh 
								thề nguyện muôn đời bảo vệ giang sơn gấm vóc mà 
								Vua Hùng trao lại và đời đời hương khói tại miều 
								Vua Hùng. Đứng ở đỉnh cao Nghĩa Lĩnh nh́n quay 
								lên hướng bắc, những quả đồi lớn nhấp nhô nối 
								nhau thấp dần về Nam giống như đàn voi phục. 
								Truyền thuyết kể rằng: đă có một trăm voi khi 
								nghe tin Hùng Vương chọn đất đóng đô đă chầu về 
								đất Tổ. Trong đàn voi có 99 con cùng quay đầu 
								một hướng, có một con quay ngược lại hướng đàn, 
								đă bị nàng Bầu (con gái cả của Hùng Vương thứ 
								nhất) vâng lệnh cha chém chết con voi bất nghĩa. 
								Ngày nay vẫn thấy cách đền Hùng Vương khảong 
								10km về phía Bắc (thuộc xă Phú Lộc) vẫn c̣n một 
								quả đồi giống con voi quay ngược bị trừng trị v́ 
								tội phản phúc.  
								Ngày 19.9.1954 chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đền 
								Thượng, xem bài minh chuông của quả chuông đền 
								Thượng treo trên cây đại cổ thụ trước đền. Ngày 
								19.8.1962 Bác Hồ về thăm Đền Hùng lần thứ hai và 
								nghỉ lại tại cửa ngách đông nam của Đền Thượng.   
							 | 
						 
					 
				 
				 | 
			 
		 
		 
		Nguồn: saigontoserco
  | 
	 
 
 |