LỊCH SỬ
Vài nét về lịch sử
tỉnh Bắc Ninh
Trích từ:
bacninh.gov.vn
Dưới các
triều đại
phong kiến
trước đây,
tỉnh Bắc
Ninh được
gọi là Kinh
Bắc mà lịch
sử đă để lại
những di sản
văn hoá
truyền thống
phong phú về
mặt vật thể
và phi vật
thể với hệ
thống thành
quách ở thị
xă Bắc Ninh,
pḥng tuyến
sông Cầu (sông
Như Nguyệt)
nổi tiếng
thời Lư
chống lại
các thế lực
ngoại bang
phương Bắc,
hệ thống các
đền chùa,
miếu mạo ở
các vùng Từ
Sơn, Bắc
Ninh - Thị
Cầu, Dâu Keo
... và đặc
biệt là hát
dân ca quan
họ nổi tiếng
cùng các lễ
hội mang đậm
bản sắc dân
tộc như hội
Lim, Đ́nh
Bảng ...
|
|
- Từ năm 1822 xứ
Kinh Bắc được nhà
Nguyễn đổi tên gọi
thành tỉnh Bắc Ninh,
sau 2 năm trấn thành
Bắc Ninh, thuộc thị
xă Bắc Ninh ngày
nay, được xây dựng
lại bằng đá ong và
hiện diện vị thế của
ḿnh bằng cột cờ cao
17m.
|
- Dưới thời
Pháp thuộc
vào năm 1931
thị trấn Bắc
Ninh được
đổi tên
thành tỉnh
Bắc Ninh.
Thị xă Bắc
Ninh được tổ
chức thành
một cứ điểm
trọng yếu về
quân sự của
Bắc Kỳ và là
một trung
tâm chính
trị, kinh tế
vùng.
- Năm 1938
thị xă Bắc
Ninh được
xếp vào
thành phố
thứ 5 của xứ
Bắc Kỳ sau
các đô thị:
thành phố Hà
Nội, thành
phố Hải
Pḥng, thành
phố Nam Định
và thị xă
Hải Dương.
|
- Sau hoà b́nh lập
lại năm 1954, tỉnh
Bắc Ninh nói chung
và thị xă Bắc Ninh
nói riêng tiếp tục
duy tŕ sự phát
triển kinh tế suốt
quá tŕnh xây dựng
chính quyền nhân dân
và chủ nghĩa xă hội
ở miền Bắc
- Vào năm 1963 tỉnh
Bắc Ninh được sát
nhập với tỉnh Bắc
Giang thành tỉnh Hà
Bắc. Mặc dù không
c̣n vị trí tỉnh lỵ
như trước đây (lúc
đó Bắc Giang trở
thành tỉnh lỵ của
tỉnh mới sát nhập),
nhưng thị xă Bắc
Ninh vẫn là một
trung tâm kinh tế -
xă hội quan trọng
của Hà Bắc, nhất là
trong mối quan hệ
giao lưu với thủ đô
Hà Nội.
- Đến năm 1996 tỉnh
Hà Bắc lại được chia
lại thành hai tỉnh
Bắc Ninh và Bắc
Giang theo Nghị
quyết của Quốc hội
khoá IX, kỳ họp thứ
10 (ngày 15 - 11 -
1996). Từ đó thị xă
Bắc Ninh lại trở
thành thị xă của
tỉnh Bắc Ninh mới.
Từ đó đến nay Bắc
Ninh đă phát triển
không ngừng bộ mặt
đô thị hoá của tỉnh
mà tiêu biểu là việc
xây dựng mới:
-
Khu vực hành
chính và các khu
dân cư mới ở thị
xă Bắc Ninh.
-
Cải tạo và phát
triển mạnh bộ
mặt trung tâm
của các thị trấn
huyện lỵ, nhất
là thị trấn Từ
Sơn.
-
Đang h́nh thành
và phát triển
một số khu công
nghiệp tập trung
quan trọng như
khu công nghiệp
Từ Sơn, Quế Vơ.
-
Hệ thống kỹ
thuật hạ tầng
được cải tạo và
nâng cấp đáng kể
nhất là QL 1A,
QL 1B, QL 18, QL
38, và 11 tuyến
tỉnh lộ với tổng
chiều dải trên
350 km. Các hệ
thống hạ tầng kỹ
thuật cấp nước,
cấp điện cũng
được đầu tư đáng
kể.
-
Hệ thống di tích
lịch sử văn hoá
lâu đời của xứ
Kinh Bắc xưa
nhất loạt đă
được khôi phục,
bảo tồn và phát
triển có hiệu
quả thu hút
khách du lịch
thập phương.
Ngoài ra với hàng
trăm ngành nghề khác
nhau của tỉnh Bắc
Ninh cũng được
khuyến khích phát
triển tạo điều kiện
cho sự h́nh thành và
phát triển nhiều thi
tứ trên sông Dân, ở
Đông Hồ, Đ́nh Bảng,
Đa Hội, Tương Giang,
Phù Khê, Nội Duệ...
Nơi sinh thành dân
tộc và nên tảng văn
hiến Việt Nam
Bắc Ninh ?
Kinh Bắc xưa là vùng
đất phía bắc của
kinh thành Thăng
Long ? Đông Đô ? Hà
Nội ngày nay, là
vùng đất trung tâm
của châu thố sông
Hồng. Bắc Ninh c̣n
là nơi gặp gỡ, giao
hội của các mạch
giao thông thuỷ, bộ
tạo cho xứ Bắc sớm
trở thành trung tâm
kinh tế - văn hoá
với một vị trí đặc
biệt trong lịch sử
dân tộc và văn hoá
Việt Nam.
Qua
các kết quả
nghiên cứu,
đặc biệt là
nghiên cứu
khảo cổ học
ở Bắc Ninh
cho thấy,
đây là địa
bàn cư trú
của người
Việt cổ,
đồng thời là
bộ phận cốt
lơi của quốc
gia Văn Lang
? Âu Lạc. |
|
Từ mấy ngh́n năm
trước người Việt cổ
đă cư trú và lập
làng ở ven sông Cầu,
sông Dâu, sông
Đuống, sông Ngũ
Huyện Khê, sông Tiêu
Vương,... sống chủ
yếu bằng canh tác
nông nghiệp kết hợp
làm nghệ thủ công.
Hàng loạt di vật như
trống đồng, dao găm,
ŕu, giáo, tấm che
ngực, mảnh giáp,...
bằng đồng với những
hoa văn độc đáo được
t́m thấy ở các di
tích Lăng Ngâm, Đại
Trạch, Quả Cảm, Đại
Lai,... mảnh khuôn
đúc trống đồng trong
thành cổ Luy Lâu đă
chứng tỏ người xứ
Bắc rất tinh xảo
trong nghề đúc đồng,
chế tác các đồ trang
sức, làm gốm,...
Cũng
trên mảnh đất này,
những giá trị tinh
thần, tư tưởng được
phản ánh qua các
huyền thoại ?ông
Đùng, bà Đùng?, ?ông
khổng lồ cắn nát
núi, hút sạch rừng,
băng ngang lũ?, về
Kinh Dương Vương,
Lạc Long Quân, Âu
Cơ, Thánh Gióng, An
Dương Vương, Mỵ Châu
- Trọng Thuỷ và
thành cổ Loa,...
Cùng với huyền thoại
truyền thuyết là đậm
đặc các di tích tiêu
biểu như lăng mộ
Kinh Dương Vương,
các đền thờ Lạc Long
Quân ? Âu Cơ, đền
thờ Phù Đổng Thiên
Vương ở Thuận Thành,
Từ Sơn, Tiên
Du,...đều được lưu
giữ trong ḷng đất
ḷng người vùng quê
xứ Bắc - Bắc Ninh.
Đây chính là sự minh
chứng hùng hồn cho
sự phong phú đa dạng
và tiêu biểu hơn bất
cứ đị a phương nào
trên mảnh đất Việt
ngàn năm văn hiến.
Trung tâm chống xâm
lược và chống đồng
hoá, bảo tồn phát
triển văn hoá dân
tộc.
|
Khu di tích
Luy Lâu rộng
hàng trăm
hécta với hệ
thống các
công tŕnh
thành luỹ,
đền chùa,
phố xá, chợ,
bến, kho
tàng, dinh
thự, các khu
sản xuất
gạch ngói,
các làng
nông nghiệp,
làng thợ,
làng buôn,
khu môn
địa,... c̣n
là khu di
tích thời
Bắc thuộc
lớn nhất
Việt Nam
hiện nay. |
Thủ phủ
Luy Lâu (tức Long
Biên) là nơi ghi dấu
những chiến tích hào
hùng chống quân xâm
lược phương Bắc. Cho
đến ngày nay, hệ
thống các đền thờ
tướng lĩnh ở đây và
những lễ hội mừng
chiến thắng mùa xuân
vẫn được duy tŕ và
tổ chức hàng năm ở
trung tâm Luy Lâu
càng khẳng định Bắc
Ninh xưa là trung
tâm của cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng.
Không
những thế, qua các
tài liệu thư tịch và
di khảo cổ c̣n cho
thấy Luy Lâu đă từng
là đô thị lớn, là
trung tâm thương mại
mang tính quốc tế:
?Trên đất Giao Chỉ,
trong suốt thời kỳ
dài từ cuối thế kỷ
thứ II đến thế kỷ
IX-X, Luy Lâu không
nhường vai tṛ đô
thị lớn nhất cho bất
cứ nơi nào?. Xung
quanh Luy Lâu là các
làng nông nghiệp,
làng thủ công, làng
buôn bán phát triển
mạnh mẽ. Luy Lâu là
một đô thị mang tính
buôn bán quốc tế,
các hoạt động buôn
bán trao đổi hàng
hoá ở Luy Lâu thời
Bắc thuộc rất nhộn
nhịp và sầm uất.
Cùng với
quá tŕnh giao lưu,
hội nhập và trao đổi
kinh tế là quá tŕnh
tiếp xúc, hội nhập
văn hoá, tín ngưỡng,
tôn giáo giữa Việt
Nam và các nước
trong khu vực mà
trung tâm cũng vẫn
là Luy Lâu. Tại đây,
tư tưởng Nho giáo và
văn hoá Hán Đường đă
được truyền bá liên
tục vào nước ta. Bắc
Ninh với trung tân
Luy Lâu là nơi đầu
tiên có trường dạy
chữ và văn hoá Hán ở
Việt Nam.
Ngoài ra
Luy Lâu c̣n là trung
tâm Phật giáo lớn và
cổ xưa nhất của
người Việt. Hệ thống
di tích, chùa tháp
quần tụ đậm đặc ở
đây với trung tâm là
chùa Dâu cùng nhiều
nguồn di vật, tài
liệu như tượng pháp
, bia kư, bản khắc
?Cổ Châu Pháp Vân
vật bán hanh? và lễ
hội chùa Dâu - lễ
hội Phật giáo lớn
nhất trong đồng bằng
Bắc Bộ với các nghi
lễ Tân Phật, rước Tứ
Pháp, rước nước đă
chứng tỏ Luy Lâu là
tổ đ́nh của Phật
giáo Việt Nam.
Giáo sư
sử học Trần Quốc
Vượng đă nhận xét:
?Xứ Bắc với đô thị
cổ Long Biên ? Luy
Lâu là không gian
điển h́nh đan xen,
hỗn dung tiếp xúc,
biến đổi hội tụ và
kết tinh văn hoá
Việt Nam cổ với văn
hoá Phật - Ấn, Nam Á
và Trung Á, văn hoá
Nho Lăo (Trung Hoa ?
Đông Á) để rồi sinh
thành bản sắc văn
hoá Kinh Việt.
Vùng đất tiêu biểu
của nền văn hiến và
nhân cách Việt Nam.
Bước vào
kỷ nguyên Đại Việt,
Bắc Ninh trở thành
phên dậu phía Bắc
của kinh thành Đông
Đô ? Thăng Long ? Hà
Nội. Nơi đây tiếp
tục giữ vai tṛ quan
trọng đặc biệt trong
công cuộc bảo vệ đất
nước và phát triển
văn hoá Việt Nam.
Miền quê ?địa
linh? này là
đất phatsb
tích nhà Lư
- triều đại
khai mở ra
nền văn minh
Đại Việt gắn
liền với tên
tuổi của
những nhân
vật lịc sử -
văn hoá kiệt
xuất như: Lư
Công Uẩn, Lư
Nhân Tông,
Nguyên Phi Ỷ
Lan, Lê Văn
Thịnh. Đây
là nơi vang
vọng bài thơ
?Nam quốc
sơn hà? -
bản tuyên
ngôn độc lập
đầu tiên của
dân tộc Việt
Nam. |
|
Ngoài ra
nơi đây cũng là vùng
quê trù phú, kinh tế
phát triển, là vựa
lúa của đồng bằng
Bắc Bộ. Ít nơi nào
có nhiều làng nghề
nổi tiếng như tỉnh
Bắc Ninh: gốm sứ (Phù
Lăng, Thổ Hà), g̣
đúc đồng (Đại Bái),
rèn sắt (Đa Hội),
chạm khắc (Phù Khê,
Kim Thiều), sơn mài
(Đ́nh Bảng), ?mộc
Choă, ngoă Viềng?,
cày bừa (Đông Xuất),
giấy dó (Đống Cao),
tranh điệp (Đông Hồ),
dệt lụa (Tam Sơn,
Cẩm Giàng),...
Người
Bắc Ninh không chỉ
giỏi làm ruộng mà
c̣n khéo tay, tinh
xảo, hoạt bát trong
giao thương, buôn
bán và nhất là lại
thông minh hiếu học.
Ngoa truyền dân gian
về đất này quả là có
cơ sở: ?Một giỏ sinh
đồ, một bồ tiến sỹ,
một bị trạng nguyên,
một thuyền bảng
nhăn?. Đây là quê
hương của vị Trạng
nguyên Lê Văn Thịnh
- vị trạng nguyên
khai khoa mở đầu cho
lịch sử khoa cử Việt
Nam. Có vùng như
huyện Đông Ngàn
thông minh hơn người
(dốt Đông Ngàn hơn
người ngoan thiên
hạ), có làng như Tam
Sơn - địa phương duy
nhất cả nước có đủ
tam khôi với 22 vị
đại khoa (tiến sỹ)
trong đó có hai
trạng nguyên.
Nơi đây
c̣n nổi tiếng với
trung tâm phật giáo
và những ngôi chùa
có quy mô to lớn, cổ
kính, kiến trusc tạo
tác rất công phu,
tài nghệ như chùa
Dâu, chùa Phật Tích,
chùa Dạm, chùa Bút
Tháp, chùa Tiêu Sơn,
Cổ Pháp,... Đây là
những danh lam cổ tự
nổi tiếng, ngày nay
đă trở thành những
di sản kiến trúc
tiêu biểu của dân
tộc ta.
Nơi đây
c̣n được mệnh danh
là vương quốc của lễ
hội, chủ yếu là hội
chùa, hội đền. Trong
đó có những lễ hội
lớn, nổi tiếng cả
vùng và cả nước như
hội Gióng (9-4), hội
Dâu (8-4), hội đền
Đô, hội Lim, hội
Chùa Phật Tích...
Về ăn
mặc dân Kinh Bắc ưa
sang trọng nhưng nền
nă: nam khăn xếp, áo
the, ô lục soạn; nữ
áo mớ ba, mớ bảy,
nón quai thao. Xứ
bắc có nhiều làng
nghề nghệ thuật như
làng tranh Đông Hồ,
làng hát ca trù
Thanh Tương, làng
rối nước Đồng Kỵ,
Bùi Xá, Đa Hội, Tam
Lư, Tấn Bảo,...và
đặc biệt hơn cả là
hệ thống 49 làng
chơi quan họ, một
lối chơi, một sin
hoạt văn hoá tinh
tường, độc đáo, đạt
tới đỉnh cao của thi
ca và âm nhạc mà chỉ
người Bắc Ninh mới
có.
|