Bắc 
					Ninh là một tỉnh nằm trong vùng đồng bằng và trung du bắc bộ. 
					Phía bắc giáp bắc giang, phía đông và đông nam giáp hải 
					dương, phía tây giáp hà nội, phái nam giáp hưng yên. Đây là 
					tỉnh có diện tích nhỏ nhất nước 807,6 km² với dân số 941.389 
					người (1/4/1999). Tỉnh lỵ bắc ninh cách hà nội hơn 30 km, có 
					quốc lộ 1a chạy qua, có nhiều sông lớn, v́ vậy hệ thống giao 
					thông đường bộ, đường sắt và đường sông đều thuận lợi. Địa 
					h́nh chủ yếu là đồng bằng, có một số ngọn núi đă đi vào thơ 
					ca (núi Thiên Thai). Nhiệt độ trung b́nh năm khoảng 23,40C, 
					rất thích hợp cho du lịch. 
					Kinh bắc là vùng đất đạo phật sớm thâm nhập ngay từ những 
					thế kỷ đầu công nguyên. Đến đời nhà lư, phật giáo đă đạt đến 
					độ cực thịnh. Nhiều chùa, tháo đă được xây dựng ở đất kinh 
					bắc và đă trở thành danh thắng, di tích lịch sử văn hoá, là 
					nơi tham quan văn cảnh của khách thập phương. 
					Bắc ninh là một vùng đất cổ đồng thời là một trong những 
					chiếc nôi của nền văn minh Việt Nam. Chính vùng đất này đă 
					sinh ra những điệu hát dân ca quan họ đặc sắc, tiêu biểu cho 
					loại h́nh dân ca trữ t́nh bắc bộ, đậm đà bản sắc dân tộc.
					
					Bắc ninh c̣n là một trong những địa phương có nhiều lễ hội. 
					Mỗi lễ hội đều gắn với nét đẹp văn hoá truyền thống và những 
					trang sử hào hùng của dân tộc. Mỗi độ xuân về, người kinh 
					bắc lại rộn ràng trẩy hội. 
					Dưới các triều đại phong kiến trước đây, tỉnh Bắc Ninh được 
					gọi là Kinh Bắc mà lịch sử đă để lại những di sản văn hoá 
					truyền thống phong phú về mặt vật thể và phi vật thể với hệ 
					thống thành quách ở thị xă Bắc Ninh, pḥng tuyến sông Cầu (sông 
					Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lư chống lại các thế lực ngoại 
					bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng 
					Từ Sơn, Bắc Ninh - Thị Cầu, Dâu Keo ... và đặc biệt là hát 
					dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc 
					dân tộc như hội Lim, Đ́nh Bảng ... 
					- Từ năm 1822 xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên gọi thành 
					tỉnh Bắc Ninh, sau 2 năm trấn thành Bắc Ninh, thuộc thị xă 
					Bắc Ninh ngày nay, được xây dựng lại bằng đá ong và hiện 
					diện vị thế của ḿnh bằng cột cờ cao 17m. 
					- Dưới thời Pháp thuộc vào năm 1931 thị trấn Bắc Ninh được 
					đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Thị xă Bắc Ninh được tổ chức 
					thành một cứ điểm trọng yếu về quân sự của Bắc Kỳ và là một 
					trung tâm chính trị, kinh tế vùng. 
					- Năm 1938 thị xă Bắc Ninh được xếp vào thành phố thứ 5 của 
					xứ Bắc Kỳ sau các đô thị: thành phố Hà Nội, thành phố Hải 
					Pḥng, thành phố Nam Định và thị xă Hải Dương. 
					- Sau hoà b́nh lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung và 
					thị xă Bắc Ninh nói riêng tiếp tục duy tŕ sự phát triển 
					kinh tế suốt quá tŕnh xây dựng chính quyền nhân dân và chủ 
					nghĩa xă hội ở miền Bắc 
					- Vào năm 1963 tỉnh Bắc Ninh được sát nhập với tỉnh Bắc 
					Giang thành tỉnh Hà Bắc. Mặc dù không c̣n vị trí tỉnh lỵ như 
					trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới 
					sát nhập), nhưng thị xă Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh 
					tế - xă hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ 
					giao lưu với thủ đô Hà Nội. 
					- Đến năm 1996 tỉnh Hà Bắc lại được chia lại thành hai tỉnh 
					Bắc Ninh và Bắc Giang theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, 
					kỳ họp thứ 10 (ngày 15 - 11 - 1996). Từ đó thị xă Bắc Ninh 
					lại trở thành thị xă của tỉnh Bắc Ninh mới. 
					Từ đó đến nay Bắc Ninh đă phát triển không ngừng bộ mặt đô 
					thị hoá của tỉnh mà tiêu biểu là việc xây dựng mới: 
					Khu vực hành chính và các khu dân cư mới ở thị xă Bắc Ninh.
					
					Cải tạo và phát triển mạnh bộ mặt trung tâm của các thị trấn 
					huyện lỵ, nhất là thị trấn Từ Sơn. 
					Đang h́nh thành và phát triển một số khu công nghiệp tập 
					trung quan trọng như khu công nghiệp Từ Sơn, Quế Vơ. 
					Hệ thống kỹ thuật hạ tầng được cải tạo và nâng cấp đáng kể 
					nhất là QL 1A, QL 1B, QL 18, QL 38, và 11 tuyến tỉnh lộ với 
					tổng chiều dải trên 350 km. Các hệ thống hạ tầng kỹ thuật 
					cấp nước, cấp điện cũng được đầu tư đáng kể. 
					Hệ thống di tích lịch sử văn hoá lâu đời của xứ Kinh Bắc xưa 
					nhất loạt đă được khôi phục, bảo tồn và phát triển có hiệu 
					quả thu hút khách du lịch thập phương. 
					Ngoài ra với hàng trăm ngành nghề khác nhau của tỉnh Bắc 
					Ninh cũng được khuyến khích phát triển tạo điều kiện cho sự 
					h́nh thành và phát triển nhiều thi tứ trên sông Dân, ở Đông 
					Hồ, Đ́nh Bảng, Đa Hội, Tương Giang, Phù Khê, Nội Duệ... 
					Nơi sinh thành dân tộc và nên tảng văn hiến Việt Nam 
					Bắc Ninh ? Kinh Bắc xưa là vùng đất phía bắc của kinh thành 
					Thăng Long ? Đông Đô ? Hà Nội ngày nay, là vùng đất trung 
					tâm của châu thố sông Hồng. Bắc Ninh c̣n là nơi gặp gỡ, giao 
					hội của các mạch giao thông thuỷ, bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở 
					thành trung tâm kinh tế - văn hoá với một vị trí đặc biệt 
					trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt Nam. 
					Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ 
					học ở Bắc Ninh cho thấy, đây là địa bàn cư trú của người 
					Việt cổ, đồng thời là bộ phận cốt lơi của quốc gia Văn Lang 
					? Âu Lạc. 
					Từ mấy ngh́n năm trước người Việt cổ đă cư trú và lập làng ở 
					ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông 
					Tiêu Vương,... sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết 
					hợp làm nghệ thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao 
					găm, ŕu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp,... bằng đồng với 
					những hoa văn độc đáo được t́m thấy ở các di tích Lăng Ngâm, 
					Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai,... mảnh khuôn đúc trống đồng 
					trong thành cổ Luy Lâu đă chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo 
					trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm,...
					
					Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng 
					được phản ánh qua các huyền thoại ?ông Đùng, bà Đùng?, ?ông 
					khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ?, về Kinh 
					Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương 
					Vương, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ và thành cổ Loa,... Cùng với 
					huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu 
					như lăng mộ Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long Quân ? Âu 
					Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên 
					Du,...đều được lưu giữ trong ḷng đất ḷng người vùng quê xứ 
					Bắc - Bắc Ninh. Đây chính là sự minh chứng hùng hồn cho sự 
					phong phú đa dạng và tiêu biểu hơn bất cứ đị a phương nào 
					trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến. 
					Trung tâm chống xâm lược và chống đồng hoá, bảo tồn phát 
					triển văn hoá dân tộc. 
					Khu di tích Luy Lâu rộng hàng trăm hécta với hệ thống các 
					công tŕnh thành luỹ, đền chùa, phố xá, chợ, bến, kho tàng, 
					dinh thự, các khu sản xuất gạch ngói, các làng nông nghiệp, 
					làng thợ, làng buôn, khu môn địa,... c̣n là khu di tích thời 
					Bắc thuộc lớn nhất Việt Nam hiện nay. 
					Thủ phủ Luy Lâu (tức Long Biên) là nơi ghi dấu những chiến 
					tích hào hùng chống quân xâm lược phương Bắc. Cho đến ngày 
					nay, hệ thống các đền thờ tướng lĩnh ở đây và những lễ hội 
					mừng chiến thắng mùa xuân vẫn được duy tŕ và tổ chức hàng 
					năm ở trung tâm Luy Lâu càng khẳng định Bắc Ninh xưa là 
					trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. 
					Không những thế, qua các tài liệu thư tịch và di khảo cổ c̣n 
					cho thấy Luy Lâu đă từng là đô thị lớn, là trung tâm thương 
					mại mang tính quốc tế: ?Trên đất Giao Chỉ, trong suốt thời 
					kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X, Luy Lâu không 
					nhường vai tṛ đô thị lớn nhất cho bất cứ nơi nào?. Xung 
					quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng 
					buôn bán phát triển mạnh mẽ. Luy Lâu là một đô thị mang tính 
					buôn bán quốc tế, các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá ở 
					Luy Lâu thời Bắc thuộc rất nhộn nhịp và sầm uất. 
					Cùng với quá tŕnh giao lưu, hội nhập và trao đổi kinh tế là 
					quá tŕnh tiếp xúc, hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo 
					giữa Việt Nam và các nước trong khu vực mà trung tâm cũng 
					vẫn là Luy Lâu. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán 
					Đường đă được truyền bá liên tục vào nước ta. Bắc Ninh với 
					trung tân Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn 
					hoá Hán ở Việt Nam. 
					Ngoài ra Luy Lâu c̣n là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa 
					nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm 
					đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, 
					tài liệu như tượng pháp , bia kư, bản khắc ?Cổ Châu Pháp Vân 
					vật bán hanh? và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất 
					trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ 
					Pháp, rước nước đă chứng tỏ Luy Lâu là tổ đ́nh của Phật giáo 
					Việt Nam. 
					Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đă nhận xét: ?Xứ Bắc với đô 
					thị cổ Long Biên ? Luy Lâu là không gian điển h́nh đan xen, 
					hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt 
					Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho 
					Lăo (Trung Hoa ? Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá 
					Kinh Việt. 
					Vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến và nhân cách Việt Nam.
					
					Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh trở thành phên dậu 
					phía Bắc của kinh thành Đông Đô ? Thăng Long ? Hà Nội. Nơi 
					đây tiếp tục giữ vai tṛ quan trọng đặc biệt trong công cuộc 
					bảo vệ đất nước và phát triển văn hoá Việt Nam. 
					Miền quê ?địa linh? này là đất phatsb tích nhà Lư - triều 
					đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi 
					của những nhân vật lịc sử - văn hoá kiệt xuất như: Lư Công 
					Uẩn, Lư Nhân Tông, Nguyên Phi Ỷ Lan, Lê Văn Thịnh. Đây là 
					nơi vang vọng bài thơ ?Nam quốc sơn hà? - bản tuyên ngôn độc 
					lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. 
					Ngoài ra nơi đây cũng là vùng quê trù phú, kinh tế phát 
					triển, là vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Ít nơi nào có nhiều 
					làng nghề nổi tiếng như tỉnh Bắc Ninh: gốm sứ (Phù Lăng, Thổ 
					Hà), g̣ đúc đồng (Đại Bái), rèn sắt (Đa Hội), chạm khắc (Phù 
					Khê, Kim Thiều), sơn mài (Đ́nh Bảng), ?mộc Choă, ngoă 
					Viềng?, cày bừa (Đông Xuất), giấy dó (Đống Cao), tranh điệp 
					(Đông Hồ), dệt lụa (Tam Sơn, Cẩm Giàng),... 
					Người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà c̣n khéo tay, 
					tinh xảo, hoạt bát trong giao thương, buôn bán và nhất là 
					lại thông minh hiếu học. Ngoa truyền dân gian về đất này quả 
					là có cơ sở: ?Một giỏ sinh đồ, một bồ tiến sỹ, một bị trạng 
					nguyên, một thuyền bảng nhăn?. Đây là quê hương của vị Trạng 
					nguyên Lê Văn Thịnh - vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho 
					lịch sử khoa cử Việt Nam. Có vùng như huyện Đông Ngàn thông 
					minh hơn người (dốt Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ), có 
					làng như Tam Sơn - địa phương duy nhất cả nước có đủ tam 
					khôi với 22 vị đại khoa (tiến sỹ) trong đó có hai trạng 
					nguyên. 
					Nơi đây c̣n nổi tiếng với trung tâm phật giáo và những ngôi 
					chùa có quy mô to lớn, cổ kính, kiến trusc tạo tác rất công 
					phu, tài nghệ như chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm, chùa 
					Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp,... Đây là những danh lam 
					cổ tự nổi tiếng, ngày nay đă trở thành những di sản kiến 
					trúc tiêu biểu của dân tộc ta. 
					Nơi đây c̣n được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, chủ yếu 
					là hội chùa, hội đền. Trong đó có những lễ hội lớn, nổi 
					tiếng cả vùng và cả nước như hội Gióng (9-4), hội Dâu (8-4), 
					hội đền Đô, hội Lim, hội Chùa Phật Tích... 
					Về ăn mặc dân Kinh Bắc ưa sang trọng nhưng nền nă: nam khăn 
					xếp, áo the, ô lục soạn; nữ áo mớ ba, mớ bảy, nón quai thao. 
					Xứ bắc có nhiều làng nghề nghệ thuật như làng tranh Đông Hồ, 
					làng hát ca trù Thanh Tương, làng rối nước Đồng Kỵ, Bùi Xá, 
					Đa Hội, Tam Lư, Tấn Bảo,...và đặc biệt hơn cả là hệ thống 49 
					làng chơi quan họ, một lối chơi, một sin hoạt văn hoá tinh 
					tường, độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc mà 
					chỉ người Bắc Ninh mới có. 
					Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đấu tranh v́ độc lập tự do 
					và chủ nghĩa xă hội, những giá trị của nền văn hoá Kinh Bắc 
					vẫn được giữ ǵn và phát huy. Bắc Ninh nổi tiếng là vùng quê 
					sớm có phong trào cách mạng, nơi sớm ra đời các tổ chức tiền 
					thân của Đảng, mảnh đất sinh thành và nuôi dưỡng các vị tiền 
					bối xuất sắc của Đảng như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng 
					Quốc Việt. Nơi đây cũng là quê hương của nhiều bậc tài danh 
					trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật. V́ từ xưa 
					đến nay Bắc Ninh vẫn luôn xứng danh là miền đất trù phú, 
					kinh tế phát triển, là quê hương của thi ca, mảnh đất mà văn 
					hoá nghệ thuật phát triển đến đỉnh cao của dân tộc Việt Nam.
					
					
					 
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					KINH BẮC BẮC 
					NINH: 
					
					
Về 
					mặt văn hoá, có thể nói vùng kinh bắc là tượng trưng cả dân 
					tộc. Cả vùng bên kia sông hồng ôm lấy sông Đuống, sông 
					thương, sông cầu, sông tiêu thương, núi thiên thai, rừng 
					báng che rợp tám ngôi mộ các đời vua nhà Lư, những cánh đồng 
					xanh biếc ngô khoai. Hàng năm ngôi đ́nh, chùa, miếu, am rêu 
					phong thấp thoáng. Ở vùng đất thiêng này, những địa chỉ như 
					thổ hà, đồng ky, yên phong, tiên sơn, việt yên, bắc ninh, 
					đ́nh bảng, phù lưu… cứ vang lên những nốt nhạc tuyệt vời qua 
					nhiều thế kỷ. Gắn liền với những di tích văn hoá lịch sử là 
					những hội làng, hội xuân , hội mùa, hội mùa, hội chợ, hội 
					bắt chạch trong chum và những cuộc thi bắt chim, thi cờ 
					tướng, thi hát chèo, thi nấu cơm, thi đánh đu, đánh vật, 
					chọi gà…Ở đây, người ta ra một tuyên ngôn từ rất lâu “ có 
					nam có nữ mới nên xuân”. 
					Kinh bắc là xuất xứ của nhiều huyền thoại, chuyện kể: Trương 
					Chi – Mỵ Nương , tự uyên, bà chúa kè, bà chúa kho, bà Nguyễn 
					Thị Huyền có hai con gái là Ngọc Hân và Ngọc B́nh, Ỷ Lan phu 
					nhân , mẹ Hồ Xuân Hương, mẹ thi hào Nguyễn Du, hàn thuyên, 
					nguyễn gia thiều, ca bá quát… là những người con của vùng 
					đất này. Nơi đây cung cấp nhiều cung phi, mỹ nữ nhất cho 
					vương triều phong kiến. Là mảnh đất văn học, kinh bắc chiếm 
					nhiều bia tiến sĩ nhất so với bất ḱ nơi nào trong cả nước. 
					Cũng là mảnh đất văn học, kinh bắc có 49 làng quan họ nổi 
					tiếng, ôm ấp trong ḿnh hơn 200 lan điệu chính thức làm 
					nguồn sống vô tận về tinh thần cho cảm hứng âm nhạc dân tộc 
					qua những cánh hoa, hương bướm và dáng vẻ của ḿnh. Những 
					bài ca Quan Họ đă và đang được hoan nghênh nhiệt nhiệt ở 
					trong nước cũng như ở nước ngoài. Người ta bảo làn gió ở 
					Kinh Bắc ngọt ngào, đầy gợi cảm đă làm say ḷng người qua 
					nhiều thế hệ. Ngay cả khi cuộc sống khó khăn, nó luôn luôn 
					vút cao những nhịp điệu cao cả, yêu đời vẫn được đảm bảo 
					trọn vẹn chất uy nghi và trang nhă. Nhiều lớp người ra đi, 
					những nốt nhạc lại bám trụ và trú ngụ vào những lớp người kế 
					tiếp để ngân nga và phát triển thành những điều vĩnh cửu 
					ngay trong đời sống phù du. Chúng làm cho những hối ức xa 
					xưa hàng thế kỷ và những nghi thức thấn điệu được thức dậy 
					trong ḷng người. Nhạc ngân lên, ngực căng phồng tâm hồn đâm 
					hồn kết trái như cây cối, làm cho thể xác và tâm hồn quyện 
					vào nhau. 
					Nổi bật trong tranh khắc gỗ Việt Nam, kếp nạp đậm đặc màu 
					sắc giá trị dân tộc, làm đại biểu cho tranh dân gian Việt 
					Nam để tham gia kho tàng tranh thế giới là loại tranh Đông 
					Hồ Kinh Bắc. Đông Hồ c̣n làm hàng mă, làm những đồ nghệ 
					thuật bằng giấy, làm pháo. Đó là cả một làng nghệ thuật. 
					Người làng Đông Hồ vẽ tranh có đề thơ kèm. Họ hiếu học, giao 
					du rộng, lịch sự, rất sành về ẩm thực, tranh Đông Hồ có mặt 
					khắp nước, lại c̣n ra nước ngoài, góp vào các sưu tập tranh 
					quốc tế và có mặt trong nhiều bảo tàng quan trọng trên thế 
					giới. Kinh Bắc, mảnh đất huy hoàng đầy văn hoá. Có nhà học 
					giả đă nói “văn hoá Kinh Bắc được coi gần như một thứ tôn 
					giáo, một thứ văn hoá của sinh tồn cao cấp…”Kinh Bắc là quê 
					hương của tiếng hát Quan Họ, của tranh Đông Hồ, của trầu têm 
					cánh phượng, của bánh phu thê… là cái nôi của nghệ thuật ẩm 
					thực cổ truyền, của hội làng đ́nh, đám, của kiến trúc hoành 
					tráng… v́ vậy cũng có những người nước ngoài đến khảo sát 
					Kinh Bắc, vội vàng mua hương đốt lên để tỏ ḷng ngưỡng mộ 
					quê hương của trai thanh gái lịch, của áo mớ ba mớ bảy, của 
					nón quai thao, của khát vọng trai gái yêu nhau cởi áo trao 
					nhau… mảnh đất Kinh Bắc là mảnh đất đời thường mà huyền 
					thoại. Nó là lá Diêu Bông, t́m măi không thấy hết vẻ đẹp dạt 
					dào vô tận của nó. Nó cũng là vẻ đẹp chỉ có trong lư tưởng 
					mà người ta không nh́n thấy hết. Người Kinh Bắc có đi đầu 
					non cuối biển th́ trong họ vẫn vang vọng măi câu: 
					“Quê hương vi vút gọi 
					Diêu Bông hời Diêu Bông” 
					Quê hương của 8 triều Vua Lư - Tỉnh Bắc Ninh 
					Đ́nh Bảng, Tiên Sơn, Bắc Ninh - vùng kinh bắc (xưa là Hương 
					Diên Uẩn- Châu Cổ Pháp) mới thực sự là vùng đất được coi là 
					"địa linh nhân kiệt" đích thực. Lư Công Uẩn - một ông vua 
					anh minh, văn vơ song toàn, đă dựng nghiệp nhà Lư, trị v́ 
					đất nước qua 8 triều vua với gần 216 năm (1009- 1225), đặt 
					tên nước là Đại Việt, lập nên kinh đô Thăng Long. Qua gần 
					100 năm Thăng Long xưa và Hà Nội hôm nay đă trở thành một 
					thủ đô anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và 
					chống Mỹ, "thành phố v́ hoà b́nh" duy nhất ở vùng Đông Nam 
					châu á, do tổ chức UNESCO thế giới phong tặng. 
					Đ́nh Bảng - Tiên Sơn - Bắc Ninh, vùng văn hoá đă nổi tiếng 
					là nơi có phong cảnh đẹp từ xưa, cách thủ đô Hà Nội và thị 
					xă Bắc Ninh chừng gần 20km, trên đường quốc lộ 1A. Khu vực 
					đền Đô được xây dựng từ thời Lư Công Uẩn (thế kỷ XI). Đền Đô 
					thờ 8 vị vua nhà Lư. Ông vua đầu tiên là Lư Công Uẩn (tức Lư 
					Thái Tổ 1009 - 1028). Sau đó là các triều vua tiếp theo: Lư 
					Thái Tông (1028- 1054); Lư Thánh Tông (1054 - 1072); Lư Nhân 
					Tông (1072 - 1128); Lư Thần Tông (1128 - 1138); Lư Anh Tông 
					(1138 - 1175); Lư Cao Tông (1175 - 1210); Lư Huệ Tông (1210 
					- 1224). 
					Lư Thái Tổ lập ra triều Lư, quyết định rời kinh đô từ Hoa Lư 
					ra Thăng Long vào mùa thu năm Tuất- 1010. Lư Thánh Tông (đời 
					vua thứ ba của triều Lư) - đặt ra quốc hiệu Việt Nam là Đại 
					Việt (có ư ngang hàng với nhà nước Đại Tống - Trung Quốc). 
					Năm 1070 lập ra Văn Miếu Quốc Tử Giám - trường Đại học đầu 
					tiên ở Việt Nam, một trong số ít quốc gia có trường Đại học 
					sớm nhất thế giới. Lư Nhân Tông (đời vua thứ tư) của nhà Lư, 
					một vị vua xuất chúng. Đặc biệt là cả 8 triều vua đều mất và 
					mai táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức, hương Cổ Pháp, cách đền Đô 
					không xa. 
					Khu di tích đền Đô có diện tích 31.250 m2, với trên 20 hạng 
					mục công tŕnh gồm: đền thờ, nhà tiền tế, phương đ́nh, nhà 
					bia, nhà để kiệu, nhà để ngựa thờ, cửa rồng, thuỷ đ́nh, văn 
					chỉ, vơ chỉ... Nhà thuỷ đ́nh đền Đô xưa đă được ngân hàng 
					Đông Dương thời thuộc Pháp chọn làm h́nh ảnh tiêu biểu in 
					trên tờ giấy bạc 5 đồng, nhưng cũng chính nhà thuỷ đinh ấy 
					lại bị thực dân Pháp phá huỷ hoàn toàn cùng với quần thể 
					kiến trúc đền Đô vào năm 1952 trong một trận càn quét "đốt 
					sạch, phá sạch"! 
					Đến thăm quê hương nhà Lư ta c̣n được chiêm ngưỡng phong 
					cảnh đồng quê tiêu biểu vùng kinh Bắc, thăm các di tích lịch 
					sử- văn hoá như Chùa Cổ Pháp, chùa Kim Đài là một trung tâm 
					Phật giáo cực thịnh vào thế kỷ VIII và đ́nh làng Đ́nh Bảng- 
					một tác phẩm kiến trúc độc đáo được xây dựng đầu thế kỷ 
					XVIII; tháp Lư Khánh Văn tưởng niệm người cha nuôi của vua 
					Lư Thái Tổ; thăm Thọ lăng Thiên Đức, một khu lăng khiêm tốn 
					giản dị- nơi yên nghỉ của các đời vua nhà Lư... 
					Lễ hội đền Đô được tổ chức rất trọng thể vào ngày 15 tháng 3 
					âm lịch hàng năm, đúng ngày Lư Công Uẩn đăng quang (15/3) 
					năm Tuất- 1010). Lễ hội đền Đô là một lễ hội truyền thống có 
					từ lâu đời và trở thành phong tục đẹp được nhân dân Đ́nh 
					Bảng ǵn giữ. Lễ hội đền Đô được nhân dân cả nước hưởng ứng, 
					nhiều khách nước ngoài cũng đến dự và để lại những ấn tượng 
					tốt đẹp. 
					Đ́nh Bảng c̣n là quê hương của truyền thống Cách mạng. Hội 
					nghị Trung ương, Hội nghị Thường vụ Ban chấp hành Trung ương 
					cũng từng họp tại làng Đ́nh Bảng- một trong những nơi họp bí 
					mật, cận kề với cơ quan đầu năo của thực dân Pháp để quyết 
					định vận mệnh của đất nước vào năm 1945. Sau khi nhà nước 
					Việt Nam độc lập (9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đă 4 lần về 
					thăm quê hương nhà Lư. 
					Đ́nh Bảng- Tiên Sơn- Bắc Ninh, quê hương của các vị vua 
					triều Lư lại là một vùng quê trù phú, có truyền thống cách 
					mạng sẽ là một điểm đến lư tưởng cho du khách mỗi khi tới 
					Thủ đô. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					HÁT QUAN HỌ BẮC 
					NINH: 
					Hát Quan H
ọ 
					trong dịp hội chùa Lim là nét độc đáo không riêng của Bắc 
					Ninh. Đó là những tốp ca hát chuyên về làn điệu dân ca. Tốp 
					nam kết nghĩa với tốp nữ, cư ngụ ở những địa phương gần hoặc 
					xa. Đây là việc trao dồi tài năng, phát triển văn hoá. Muốn 
					kết nghĩa họ dùng trầu cau, mời ăn trước để bàn bạc về phong 
					cách hát. Sau đó tŕnh diện với vị trưởng lăo của làng, làm 
					lễ kết nghĩa trước sân đ́nh, ăn uống rồi hát đối đáp. 
					Buổi hát giữa địa phương này với địa phương kia diễn ra ở 
					quanh chùa đ́nh, có thể chọn bối cảnh thơ mộng của băi cỏ, 
					sườn đồi, bờ ruộng, khu vực có cây cổ thụ…. Vào đầu tháng 
					Giêng âm lịch, tiết trời thuận lợi, rănh việc đồng áng chào 
					đón dịp tái sinh của vạn vật muôn loài, vận hội tốt cho năm 
					mới. 
					Những đoạn kết nghĩa để thi tài về dân ca vẫn tuân hành quy 
					tắc: Trước tiên, phần hát nghi lễ để hỏi thăm t́nh h́nh sinh 
					kế, hoàn cảnh cha mẹ, chúc mừng họ hàng, làng xóm…. Kế đến 
					là hát giao duyên, với nội dung trêu chọc thân mật nhưng 
					không dung tục trong lời lẽ. Thêm nguyên tắc “ Nam ṭng nữ”, 
					trai t́m nơi kết nghĩa trước nhưng khi bắt đầu hát, th́ bên 
					gái cất tiếng trước để bên trai trả lời sau. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					HỘI LIM BẮC NINH:
					
					Lim là tên
					
một 
					quả đồi ở xă Tân Tương, huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh. Nơi 
					đây khi xưa là một cánh rừng Lim. Rừng Lim bây giờ không c̣n 
					nữa, nhưng tên Lim đă biến thành tên riêng th́ vẫn c̣n gắn 
					liền với lời ca Quan họ, điệu hát dân gian. Nh́n từ xa, đồi 
					Lim giống như một cái yên ngựa nằm dọc theo hướng Đông Bắc. 
					Xa hơn về phương Nam là đỉnh núi chè cao ngất, những nương 
					chè bát ngát xanh ngắt một màu. Sông Tiêu Thương — con sông 
					đă lắng nghe tiếng sáo tuyệt vời của chàng Trương Chi năm 
					xưa, nay đă bị lấp dần, chỉ c̣n như một cái hồ dài uốn ḿnh 
					ôm lấy đồi ở phía Tây. Mặt sông như mặt gương soi bóng đồi 
					Lim thơ mộng. Trên đỉnh đồi có một ngôi chùa cổ kính cũng 
					mang tên gọi chùa Lim. 
					Từ xưa, cứ đến ngày 13 tháng giêng là người ta mở hội Quan 
					họ của hơn 50 làng nằm rải rác trong các huyện Yên Phong, 
					Tiên Sơn, Việt Yên, thị xă Bắc Ninh… đồi Lim là trung tâm 
					của hội. Hội Lim có sức hấp dẫn đặc biệt đối với người dân 
					Kinh Bắc. Những ngày hội Lim mở thật vui, khách tứ phương 
					với quần áo đầy đủ màu sắc đổ về như nước chảy. Đồi Lim chật 
					ních người đi trẩy hội mùa xuân. Đủ mọi tṛ chơi vui tươi 
					hấp dẫn như : đấu vật, chọi gà, đánh đu, rước kiệu…. Đặc 
					biệt là những đám hát quan họ đối đáp nhau một cách rộn ră, 
					nên thơ. Lim chính là quê hương của Quan Họ những bài hát “ 
					Cây trúc xinh…”, “Trèo lên quán dốc…”. “ T́nh bằng có cái 
					trống cơm…”, “ Người ơi, người ở đừng về…”…cho đến nay vẫn 
					chiếm được cảm t́nh của mọi người bởi âm điệu du dương, đằm 
					thắm của nó. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					TRẬN QUYẾT CHIẾN TRÊN SÔNG NHƯ NGUYỆT 
					(3-1077) BẮC NINH: 
					Cánh th
ủy 
					binh bị giam chân ở Vĩnh An, đại quân của Quách Quỳ và Triệu 
					Tiết v́ thế mà không có phương tiện để vượt sông Cầu. Chúng 
					chia quân ra làm hai khối, đóng ở hai vị trí khách nhau trên 
					bờ Bắc sông. Quân Quách Quỳ đóng ở Việt Yên, đối diện với 
					Thị Cầu, c̣n quân của Triệu Tiết đóng ở Hiệp Hoà. Tuy một 
					mảng trong kế hoạch hợp đồng tác chiến giữa thủy binh và bộ 
					binh đă bị bẻ găy, nhưng nh́n chung lực lượng giặc chưa bị 
					tiêu hao và xét về tinh thần chiến đấu, chúng vẫn c̣n rất 
					hung hăng. Quách Quỳ ra lệnh Vương Tiến bắc cầu phao và chỉ 
					định Miêu Lư làm tướng tiên phong, dẫn khoảng vài ngàn quân 
					tiến sang bờ Nam. Đây là đợt tấn công lần thứ nhất. Quân 
					Miêu Lư không đông, nhưng đây là đội tiên phong và rất thiện 
					chiến. Lực lượng tinh nhuệ ấy của Miêu Lư tấn công quyết 
					liệt vào chiến tuyến sông Cầu, thậm chí đă vượt được chiến 
					tuyến và t́m được đường đánh thẳng về Thăng Long. T́nh thế 
					trở nên rất khó khăn và ác liệt. Trong hoàn cảnh vô cùng khó 
					khăn ấy, Lư Thường Kiệt đă động viên quân sĩ một cách thiên 
					tài bằng bài thơ “ Nam Quốc Sơn Hà” bất diệt, có giá trị như 
					một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà: 
					
					Nam quốc sơn hà Nam đế cư 
					Tuyệt nhiên định phận tai thiên thư 
					Như hà nghịch lỗ tai xâm phạm 
					Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư 
					
					Tương truyền, nhân đêm tối trời, Lư Thường Kiệt đă cho người 
					vào đền thờ Trương Hát ở gần chiến tuyến để đọc to bài thơ 
					ấy lên. Lời thơ hùng hồn lại được đọc lên dơng dạc ở chốn 
					tôn nghiêm, khiến cho quân sĩ nghe cứ tưởng là lời thần linh 
					của núi sông. Bài thơ tuyệt vời ấy đă có tác dụng động viên 
					mạnh mẽ tinh thần của quân sĩ Đại Việt. Chớp lấy cơ hội đó, 
					Lư Thường Kiệt liền chấn chỉnh đội ngũ và cho quân tiến công 
					rất quyết liệt vào lực lượng của Miêu Lư. Miêu Lư bị đánh 
					đại bại tại Yên Phụ, đội quân tiên phong do y chỉ huy bị 
					tiêu diệt gần hết. Miêu Lư buộc phải dẫn tan quân chạy về 
					nhưng đến bến Như Nguyệt th́ cầu phao đă bị quân ta chặt 
					đứt. Cùng đường y liều chết bơi qua sông. Đám tàn binh ấy 
					lại bị nước sông Cầu nhận ch́m thêm một ít nữa. Kế hoạch bắt 
					cầu phao vượt sông bị thất bại thảm hại. 
					Quách Quỳ và Triệu Tiết t́m cách vượt sông lần thứ 2 để 
					quyết chiến với đại binh Lư Thường Kiệt. Lần này chúng huy 
					động lực lượng lớn hơn và vượt sông bằng bè. Mỗi chuyến bè 
					chở được 500 quân. Quách Quỳ và Triệu Tiết hy vọng rằng, nếu 
					dồn dập đưa nhiều chuyến bè sang th́ chúng có thể phá vỡ 
					pḥng tuyến sông Như Nguyệt. 
					Bè không phải là một phương tiện chiến đấu tốt. Dùng bè để 
					chở lính trong trường hợp này chẳng qua chỉ là biện pháp tạm 
					thời, nhằm khắc phục khó khăn do các thủy quân không đến 
					được như kế hoạch đă định mà thôi. Bè sang chậm đă thế mỗi 
					chuyến chỉ chở được 500 quân, nên ở trận giáp chiến thứ 2 
					này, quân đội của Lư Thường Kiệt cứ thế lần lượt tiêu diệt 
					địch một cách ung dung. Cuộc tấn công lần thứ 2 của quân 
					tống bị đập tan. Chủ lực địch hoàn toàn bị bất lực trước 
					chiến tuyến sông Như Nguyệt. Trong lúc đó, các cánh quân 
					thuỷ bộ của Lư Thường Kiệt chẳng những được bảo toàn mà c̣n 
					đang đứng rất vững ở vị trí chiến đấu của ḿnh. Hy vọng vượt 
					sông cuối cùng của Quách Quỳ và Triệu Tiết là chờ đợi các 
					thủy quân. Nhưng các thủy quân không thể nào đến được, thậm 
					chí măi cho đến triều đ́nh nhà Tống gọi về chúng mới hay là 
					quân Tống đă bị đại bại. 
					Quách Quỳ và Triệu Tiết nhận định rất đúng rằng, trong hoàn 
					cảnh cụ thể đó, mọi cố gắng vượt sông để đánh phá pḥng 
					tuyến sông Như Nguyệt đều chỉ là phiêu lưu. Và đă cho ra 
					lệnh “ Ai bàn đến đánh sẽ bị chém đầu”. 
					Giặc từ thế công chuyển sang thế chủ, ư đồ đánh nhanh thắng 
					nhanh bị phá sản hoàn toàn. Trong lúc đó nhân dân ta ở các 
					vùng bị tạm chiếm lại nổi dậy tiêu hao dần sinh lực của 
					chúng. Thời cơ đánh trận quyết định đă xuất hiện. Tuy trong 
					t́nh thế túng quẫn, tiến thoái lưỡng nan nhưng Quách Quỳ và 
					Triệu Tiết vẫn t́m cách nhử cho quân ta sang bờ bắc để dễ bề 
					tiêu diệt. Lần thứ 2, Quách Quỳ và Triệu Tiết đă nhận định 
					rất đúng rằng: thế nào quân đội Lư Thường Kiệt cũng sẽ tổ 
					chức vượt sông để tấn công. Điều mà Quách Quỳ và Triệu Tiết 
					không thể biết được chỉ là thời điểm, địa điểm và phương 
					thức tổ chức vượt sông như thế nào mà thôi. Sau 2 tháng chờ 
					đợi cuộc tấn công của quâ đội ta, giặc bị dồn vào một t́nh 
					thế hết sức khốn quẫn và căng thẳng. Đánh th́ sẽ thất bại, 
					rút th́ nhục, thủy binh không tới, bộ binh, kị binh và phu 
					dịch th́ ră rời… Quách Quỳ và Triệu Tiết hoàn toàn ở vào thế 
					bị động. 
					Vào một ngày cuối tháng 3/1077, cuộc tổng phản công chiến 
					lược của Lư Thường Kiệt bắt đầu. Mở đầu, đạo quân thủy quân 
					ở Vạn Xuân do 2 hoàng tử Hoàng Châu và Chiêu Văn chỉ huy đă 
					bất ngờ vượt sông, đánh quyết liệt vào khu vực đóng quân của 
					Quách Quỳ. Cuộc tấn công này nhằm hai mục đích. Một là góp 
					phần tiêu diệt sinh lực địch. Hai là thu hút toàn bộ sự chú 
					ư của địch tạo điều kiện dễ dàng cho đại binh của Lư Thường 
					Kiệt vượt sông, đánh trận quyết định với quân Tống. Trong 
					trận ác chiến này hai vị hoàng tử Hoàng Châu và Chiêu Văn đă 
					anh dũng hy sinh, nhưng cả 2 mục tiêu đề ra cho trận đánh 
					th́ đều đạt. 
					Trong đêm tối khi mà quân Tống tập trung lực lượng đối phó 
					đạo thủy binh, Lư Thường Kiệt đă bí mật cho đại binh vượt 
					sông Như Nguyệt và ồ ạt tấn công vào khu vực bến đ̣ Như 
					Nguyệt. Nơi đây, lực lượng quân Tống rất hùng hậu, nhưng lại 
					do đánh bất ngờ trong đêm nên đă bị đại bại. Quân Tống tháo 
					chạy trong hoản loạn, nhưng đúng vào lúc đó Lư Thường Kiệt 
					lại viết thư đề nghị giảng hoà! Ong nói: “dùng biện sĩ bàn 
					hoà, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo tồn được 
					tôn miếu”. Nếu trước đó chúng tiến sang hùng hổ bao nhiêu 
					th́ lúc này chúng rút về trong lo sợ và hỗn loạn bấy nhiêu. 
					Ngay đến sử của Trung Quốc đời nhà Tống cũng phải viết rằng 
					“ Qùy muốn rút quân về, sợ giặc tập kích, bèn bắt quân khởi 
					hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, t́nh h́nh hỗn 
					loạn, giẫm xéo lên nhau”. 
					Giặc rút tới đâu, Lư Thường Kiệt cho quân đuổi theo thu hồi 
					đất đai đến đấy. Với trận Như Nguyệt, ư chí xâm lăng của 
					quân Tống bị đè bẹp. Như Nguyệt là một trong những trận 
					quyết chiến tuyệt vời của lịch sử dân tộc. Là vị tổng chỉ 
					huy trong trận đánh lịch sử này, Lư Thường Kiệt xứng đáng 
					được nhân dân cả nước ta đời đời ghi nhớ và kính trọng. Ong 
					là một trong những vị anh hùng kiệt xuất nhất của dân tộc 
					ta. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					TRANH ĐÔNG HỒ BẮC NINH: 
					Đây là
					
một 
					làng nghề vẽ tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam ở làng 
					Đông Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Nghề vẽ tranh dân gian 
					của làng Đông Hồ đă có từ rất lâu đời. Trước đây họ vẽ tranh 
					phục vụ Tết Nguyên Đán. Ngày nay, họ vẽ tranh c̣n để bán cho 
					khách hàng có nhu cầu bất cứ lúc nào. Nguyên liệu vẽ tranh 
					là giấy dó (giấy được làm bằng cây dó giă nhỏ, lọc và cán 
					mỏng), màu vẽ lấy từ chất liệu thiên nhiên như gạch non, lá 
					cây, đốt thành than mài ra. Để tạo ra màu nền lấp lánh, họ 
					phải dùng vỏ con ṣ, nghêu (c̣n gọi là điệp) nung lên thành 
					vôi, giă nhỏ, trộn với nhựa cây, phết đều lên giấy dó để tạo 
					ra màu nền. Hầu hết tranh Đông Hồ đều phản ánh ước nguyện 
					hoà b́nh, hạnh phúc, ấm no. có một số tranh về động vật như 
					ḅ, lợn, chó, mèo là những con vật gần gũi với người nông 
					dân. Đặc biệt một số tranh với mảng đề tài “ hứng dửa”, “đám 
					cưới chuột”, “ đánh ghen” rất hấp dẫn khách trong và ngoài 
					nước. Hiện nay, làng tranh Đông Hồ c̣n làm thêm đồ hàng mă 
					để phục vụ cho việc tế, lễ. 
					Hàng năm, chợ tranh được họp vào dịp Tết Nguyên Đán tại đ́nh 
					Đông Hồ. Khách ở quanh vùng và ở các tỉnh xa nô nức về chợ 
					để mua tranh. Hội thi đồ mă cũng được tổ chức tại đ́nh từ 
					chiều 14/3 đến 18/3 âm lịch hàng năm. Chợ tranh và hội thi 
					đồ mă được tổ chức hàng năm phần nào phản ánh được nét đặc 
					thù trong hoạt đông kinh tế — văn hoá của người dân làng 
					Đông Hồ.