| |
|
ĐỊA DANH DU LỊCH HẢI DƯƠNG
- ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH HẢI DƯƠNG |
Hải
Dương là một tỉnh nổi tiếng về sản xuất nông nghiệp ở trung
tâm đồng bằng bắc bộ với hai hệ thống sông chính là sông
Hồng và sông Thái B́nh. Năm giữa hai thành phố lớn là Hà Nội
và Hải Pḥng có đường quốc lộ 5 là đường huyết mạch xuyên
suốt qua tỉnh. Ngày nay, Hải Dương đang phát huy thế mạnh
của ḿnh để từng bước đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
lấy ngành nông nghiệp làm nền tảng cho sự phát triển. Hải
Dương không ngừng đầu tư nâng cấp các trang thiết bị kỹ
thuật để đạt được một ngành nông nghiệp tiên tiến tạo tiền
đề vững chắc cho công nghiệp.
Thành phố Hải Dương là thành phố cấp ba trực thuộc tỉnh Hải
Dương được nhà nước quyết định thành lập vào ngày 1.11.1997.
Đến nay cả nước ta có 4 thành phố cấp I trực thuộc trung
ương là Hà Nội- trung tâm văn hoá chính trị; Hải Pḥng-
thành phố cảng, thành phố hoa phượng đỏ; Đà Nẵng- trước 1997
thuộc tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, sau tách thành tỉnh Quảng Nam
với thủ phủ là thị xă Tam Kỳ và thành phố Đà Nẵng; và cuối
cùng là thành phố Hồ Chí Minh trung tâm tài chính, kinh tế,
thương mại.
Hải Dương nổi tiếng với các nhà máy như:
- Nhà máy gốm sứ Hải Dương với công suất đạt 11 triệu sản
phẩm/ năm.
- Nhiệt điện Phả Lai công suất đạt 737.300.000KWH.
- Ciment Hoàng Thạch công suất đạt 1,5 triệu tấn/năm.
Nói đến Hải Dương là nói đến các đặc sản nổi tiếng như: bánh
đậu xanh nhăn hiệu Bảo Hiên Rồng Vàng, Bánh Cáy (Bánh Mè
Gừng), bánh Khảo (bánh in), vải thiều… vải thiều là một
trong những đặc sản của miền Bắc nói chung và Hải Dương nói
riêng. Vải chín rộ vào tháng 5 âm lịch.
Với diện tích 1.650,27 km², dân số 1.723.319 người (2008).
Hải Dương là một trong những cái nôi văn hoá lâu đời của dân
tộc Việt Nam. Lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc đă để lại
cho vùng đất này một tài sản vô giá về du lịch với trên 50
di tích lịch sử văn hoá. Hải Dương c̣n là vùng đất linh địa
gắn liền với các tên tuổi như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trăi,
Mạc Đỉnh Chi… và là nơi sinh ra và lớn lên của các đại danh
y như Lê Hữu Trác, Hải Thượng Lăn Ông. Chắc chắn chúng ta
không thể quên trong lịch sử Việt Nam có một vụ án mang tên
Lệ Chi Viên vào năm 1442 có liên quan đến danh nhân văn hoá
thế giới Nguyễn Trăi.
Về Hải Dương chúng ta được trở về với những lễ hội truyền
thống tiêu biểu của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, tiêu
biểu như :lễ hội Côn Sơn, Hội đền Kiếp Bạc…
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỀN KIẾP BẠC HẢI DƯƠNG:
Kiếp
Bạc thuộc huyện Chí Linh (Hải Dương) là mảnh đất thiêng nơi
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn sống từ sau kháng chiến
chống quân Nguyên lần thứ nhất (đền thờ sống Trần Hưng Đạo)
và sau năm 1300 khi ông mất đền Kiếp Bạc được xây dựng khang
trang to đẹp hơn để thờ vị anh hùng dân tộc.
Đền Kiếp Bạc sau nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được dáng
vẻ ban đầu. Hiện trong đền c̣n lưu giữ được pho tượng đồng
Trần Hưng Đạo, nhiều pho tượng cổ và đồ thờ từ đầu thế kỷ
XIV. Lễ hội đền Kiếp Bạc được tổ chức hằng năm từ ngày 15
đến 20/8 Âm lịch.
Đền Kiếp Bạc không những là một di tích văn hoá mà c̣n là
một điểm tham quan du lịch hấp dẫn du khách thập phương.
--------------------------------------------------------------------------------
AN SƠN MIẾU HẢI DƯƠNG:
An
Sơn miếu là một ngôi miếu cổ trên đảo Côn Sơn. Miếu được xây
từ năm 1785, (sau đó được xây dựng lại vào năm 1958) để thờ
bà Phi Yến, vợ của chúa Nguyễn Ánh (sau này trở thành vua
Gia Long).
Ngôi miếu này rất linh thiêng đối với những người dân trên
đảo và nó gắn liền với một câu chuyện bi thương của người
phụ nữ tài sắc, giàu ḷng yêu nước. Năm 1783, sau khi thua
quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh mang theo vợ, con và khoảng 100 gia
đ́nh thuộc hạ chạy ra đảo Côn Sơn. Cùng với những người dân
chài đang sinh sống ở Côn Sơn, Nguyễn Ánh đă lập nên 3 làng
là An Hải, An Hội và Cỏ Ống. Để đánh lại quân Tây Sơn,
Nguyễn Ánh dự định gửi con cả là Hoàng tử Cảnh đi theo cố
đạo Pháp (Bá Đa Lộc) sang Pháp cầu viện. Bà Phi Yến (Lê Thị
Răm là vợ thứ của Nguyễn Ánh đă can ngăn chồng, đừng làm
việc "cơng rắn cắn gà nhà" để người đời chê trách.
Nguyễn Ánh không những không nghe lời khuyên của bà mà c̣n
tức giận, nghi bà thông đồng với quân Tây Sơn, nên định giết
bà. Nhờ quân thần can xin, Nguyễn Ánh đă tống giam bà vào
một hang đá trên đảo Côn Lôn nhỏ. Khi quân Tây Sơn đánh ra
đảo, Nguyễn Ánh bỏ chạy ra biển. Hoàng tử Cải (c̣n gọi là
Hoàng tử Hội An), con bà Phi Yến lúc đó mới 4 tuổi đ̣i mẹ đi
cùng. Trong cơn tức giận Nguyễn Ánh đă ném con xuống biển.
Xác hoàng tử Cải đă trôi vào bải biển Cỏ ống. Dân làng đă
chôn cất hoàng tử. Bà Phi Yến, theo truyền thuyết được một
con vượn và một con hổ cứu ra khỏi hang và về sống với dân
làng Cỏ Ống để trông nom mộ hoàng tử Cải. Một lần, sau khi
bị một kẻ xấu xúc phạm, bà đă tự tử để thủ tiết với chồng.
Nhân dân trên đảo vô cùng thương tiếc bà, đă lập nên ngôi
miếu to đẹp để thờ bà. Năm 1861, Pháp sau khi chiếm đảo đă
quyết định di toàn bộ dân vào đất liền để xây nhà tù. Ngôi
miếu bị đổ nát dần. Năm 1958, nhân dân trên đảo đă xây dựng
lại ngôi miếu trên nền cũ.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA CÔN SƠN HẢI DƯƠNG:
Chùa
Côn Sơn (hay c̣n gọi là Thiên Tư Phúc tự hay chùa Hun) là
một ngôi chùa ở trên ngọn núi Côn Sơn (hay c̣n gọi là núi
Hun) ở xă Cộng Hoà, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Chùa này
được Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam xếp hạng quốc gia đợt
I năm 1962 và xếp hạng đặc biệt quan trọng vào năm 1994.
Năm Hưng Long thứ 12(1304) nhà sư Pháp Loa cho xây dựng một
liêu (chùa nhỏ) gọi là Kỳ Lân. Đến năm Khai Hựu thứ nhất
(1329) chùa được xây dựng mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư
Phúc tự, giao cho Huyền Quang chủ tŕ.
Ngay từ thời nhà Trần, chùa Côn Sơn là một trong ba trung
tâm của thiền phái Trúc Lâm cùng với chùa Yên Tử và chùa
Quỳnh Lâm, Quảng Ninh. Nơi đây đă gắn bó với tên tuổi và sự
nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán,
Huyền Quang và người anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá
thế giới Nguyễn Trăi.
Chùa là nơi tu hành của Quốc sư Huyền Quang - vị tổ thứ 3
của Thiền phái Trúc Lâm. Sau khi Huyền Quang mất, vua Trần
Minh Tông đă cho xây Đăng Minh bảo tháp và từ đó đến nay,
ngày mất của Huyền Quang dần trở thành Hội Xuân Côn Sơn.
Vào đời nhà Lê, lúc Thiền sư Mai Trí Bản hiệu Pháp Nhăn trụ
tŕ, chùa được trùng tu và mở rộng. Khi đó chùa có đến 83
gian, bao gồm các công tŕnh như : tam quan, thượng hạ điện,
tả hữu vu, lầu chuông, gác trống. Nhưng do bị chiến tranh
tàn phá, ngày nay chùa Côn Sơn chỉ c̣n là một ngôi chùa nép
ḿnh dưới tàn lá xanh của những cây cổ thụ.
Trước sân tiền đường chùa Côn Sơn có những cây đại cổ, làm
tăng cảnh đẹp và tôn nghiêm của chùa.
Chùa Côn Sơn xưa là một công tŕnh kiến trúc hoàn thiện, có
385 pho tượng. Tương truyền ở ban thờ đầu hồi phía Đông nhà
Tổ có 2 pho tượng nhỏ ngồi xếp bằng, một đàn ông, một đàn bà
hướng về bàn thờ Phật. Tăng ni tu ở chùa Côn sơn không biết
hai pho tượng đó là ai và có tự bao giờ. Trong thời gian
kháng chiến chống Pháp, sợ giặc đến chùa tàn phá, các tăng
ni Phật tử dă đem đồ thờ và các pho tượng nhỏ cất giấu ở
trong núi. Vào một đêm mưa gió sấm sét to, sư ông trụ tŕ
chùa ngủ không yên, đợi sáng hôm sau trời tạnh vào thăm lại
bức tượng. Sư ông vào xem và thấy hai pho tượng trên đắp
bằng đất bị mưa làm vỡ, lộ hai dải yểm tâm mới biết đó là
tượng Nguyễn Trăi và Nguyễn Thị Lộ.
Phía sau chùa Côn Sơn là khu mộ tháp. Đăng Minh bảo tháp
được dựng bằng đá xanh, cao 3 tầng, trong đặt xá lợi và
tượng Thiền sư Huyền Quang.
Nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, dưới
chân Đăng Minh bảo tháp là Giếng Ngọc. Người xưa cho rằng
Giếng Ngọc chính là mắt của con Kỳ Lân. Giếng Ngọc cũng có
thời gian bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, ban Quản lư di tích
Côn Sơn - Kiếp Bạc đă cho khơi lại, kè đá, xây bờ, lát sân
để phục vụ cho du khách về tham quan Côn Sơn lại được tận
hưởng nước giếng thiêng.
Tại Bàn Cờ Tiên trên đỉnh núi Côn Sơn, nơi đây ngày xưa có
một am nhỏ h́nh chữ Công (I), tám mái chảy, có lan can xung
quanh. Am này có tên là Am Bạch Vân.
Chùa Côn Sơn đă chứng kiến một chặng đường đời và bi kịch
của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trăi.
Sau những năm tham gia triều chính, Nguyễn Trăi lui về Côn
Sơn và sống cuộc dời ẩn dật. Cảnh đẹp Côn Sơn đă gợi nên cảm
hứng để Nguyễn Trăi sáng tác nhiều bài thơ trong Quốc Âm thi
tập :
Côn Sơn có suối ŕ rầm
Ta nghe tiếng suối như cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Lễ hội chùa Côn Sơn chính thức bắt đầu từ ngày 15 tháng
giêng tới hết ngày 22 tháng giêng, tuy nhiên hiện nay lễ hội
này thường bắt đầu từ ngày 10 đến hết tháng giêng.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỘNG KÍNH CHỦ HẢI DƯƠNG:
Động
Kính
Chủ hay c̣n gọi là động Dương Nhan, thuộc làng Dương Nham,
Xă An Sinh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Kính Chủ được
xếp vào hàng Nam thiên đệ lục động (động thứ 6 của trời
Nam).
Từ đỉnh núi An Phụ nh́n về hướng bắc, dẫy núi Dương Nhan như
ḥn non bộ khổng lồ giữa mênh mông lúa của thung lũng Kinh
Thầy. Phía bắc Dương Nhan, ḍng sông lượn sát chân núi, tạo
nên cảnh sơn thuỷ hữu t́nh và giao thông thuận tiện.
Phía tây nam giáp đường lên huyện và một làng quê cổ kính có
tên là Kính Chủ (Kinh Môn), quê hương của những người thợ đá
xứ Đông. Dăy núi Dương Nhan và ḍng sông Kinh Thầy là cảnh
đẹp tự nhiên, th́ làng Kính Chủ là một công tŕnh nhân tạo
làm cho phong cảnh ở đây hoàn thiện.
Núi Dương Nhan c̣n có tên là Bồ Đà, Xuyến Châu, Thạch Môn.
Thời kỳ kháng chiến chống Nguyên vua Trần Nhân Tông đă đóng
quân trên núi, ngăn chặn mũi tiến công đường thuỷ của giặc.
Sườn núi phía nam có một động lớn, gọi là động Kính Chủ hay
động Dương Nhan, đă được xếp vào hàng Nam thiên đệ lục động
( động thứ 6 của trời Nam).
Cửa động hướng nam. Động có độ cao 20 mét so với triền ruộng
chân núi, ánh sáng tốt, thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa
đông, nơi cư trú thuận lợi của những con người tiền sử.
Ngoài Kính Chủ, núi Dương Nhan c̣n có nhiều hang động kỳ thú
như hang Vang, hang Luồn, hang Trâu, hang Tiên Sư...
Ở đây c̣n thấy h́nh động vật được khắc trên vách đá và công
cụ lao động của người xưa. Trong động Kính Chủ có chùa thờ
Phật, thờ Minh Không thiền sư, Lư Thần Tông, Huyền Quang tôn
giả và có nhiều tượng tạc bằng đá mô tả những sự kiện điển
h́nh trong kinh Phật. Động Kính Chủ sớm được con người tôn
tạo, bảo vệ và cùng với những cảnh quan của dăy Dương Nhan
trở thành một thắng cảnh ở cửa ngơ miền Đông Bắc đất nước,
liền kề miền châu thổ sông Hồng. Danh nhân nhiều thời đại đă
đến đây.
Nhiều vua, chúa, trí giả, sư săi, quan lại cũng đến thăm
động và đều cảm xúc trước cảnh kỳ vĩ và tươi đẹp của núi
sông, để lại ḍng suy nghĩ riêng tư, biểu hiện niềm ưu ái
với đất nước và thời cuộc. Những cảm xúc đó đă được những
người thợ đá ở đây ghi lại trên 40 tấm bia trên vách động .
Động Kính Chủ luôn là một cảnh đẹp, một bảo tàng nhỏ lưu giữ
các văn bia và các tác phẩm điêu khắc của thợ đá ở đây đă 7
thế kỷ qua. Đây là một di sản không phải hang động nào cũng
có.
Sau ngày đất nước được thống nhất, đặc biệt là những năm gần
đây đời sống, dân trí được nâng lên, động Kính Chủ được tu
tạo lại . T́nh trạng khai thác đá bừa băi ở đây đă được ngăn
chặn để bảo tồn vĩnh viễn khu di tích lịch sử - văn hóa quốc
gia này.
--------------------------------------------------------------------------------
KHU DI TÍCH CÔN SƠN HẢI DƯƠNG:
Khu di tích
danh thắng Côn Sơn thuộc xă Cộng Ḥa, huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương, cách Hà Nội khoảng 70km. Khu di tích này gắn liền
với cuộc đời của nhiều danh nhân trong lịch sử; là một trong
ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm vào thời Trần.
Khu di tích nằm giữa hai dăy núi Phượng Hoàng - Kỳ Lân. Khu
di tích, danh thắng này gồm có núi non, chùa, tháp, rừng
thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc
đời của nhiều danh nhân trong lịch sử. Ngay từ thời Trần,
chùa Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc
Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm). Mảnh đất này đă gắn bó
với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như
Trần Nguyên Đán, Huyền Quang và đặc biệt là anh hùng dân tộc
- danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trăi. Côn Sơn đă được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và đọc bia về Nguyễn Trăi.
Ngày nay, Côn Sơn c̣n lưu giữ được những dấu tích văn hoá
thời Trần và các giai đoạn lịch sử kế tiếp. Tiêu biểu là:
CHÙA CÔN SƠN
Chùa có tên chữ là Thiên Tư Phúc tự, hay c̣n gọi là chùa
Hun, toạ lạc ở ngay dưới chân núi Côn Sơn, có từ trước thời
Trần. Vào đời Lê, chùa được trùng tu và mở rộng rất nguy nga
đồ sộ. Trải qua biến thiên về lịch sử và thời gian, chùa Côn
Sơn ngày nay chỉ c̣n là một ngôi chùa nhỏ ẩn ḿnh dưới tán
lá xanh của các cây cổ thụ. Chùa được kiến trúc theo kiểu
chữ công gồm Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện. Thượng
điện thờ Phật, có những tượng Phật từ thời Lê cao 3m. Phía
sau chùa là nhà Tổ, có tượng Trúc Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông
- Pháp Loa - Huyền Quang), tượng ông bà Trần Nguyên Đán, hai
pho tượng Nguyễn Trăi và Nguyễn Thị Lộ.
Sân chùa có cây đại 600 tuổi, 4 nhà bia, đặc biệt là bia
"Thanh Hư động" tạo từ thời Long Khánh (1373 - 1377) với nét
chữ của vua Trần Duệ Tông và bia h́nh lục lăng, "Côn Sơn
thiện tư bi phúc tự" đă được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc khi
Người về thăm di tích này(15/2/1965).
GIẾNG NGỌC:
Giếng nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ
Tiên, phía dưới chân Đăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là
giếng nước do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng
ban cho chùa nguồn nước quí. Nước giếng trong vắt, xanh mát
quanh năm, uống vào thấy khoan khoái dễ chịu. Từ đó có tên
là Giếng Ngọc và nước ở giếng được các sư dùng làm nước cúng
lễ của chùa.
BÀN CỜ TIÊN:
Từ chùa Côn Sơn leo khoảng 600 bậc đá là đến đỉnh núi Côn
Sơn (cao 200m). Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tại
đây có một phiến đá khá rộng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện
nay Bàn Cờ Tiên có dựng nhà bia theo kiểu Vọng Lâu đ́nh, hai
tầng cổ các tám mái. Đứng từ đây, du khách có thể nh́n bao
quát cả một vùng rộng lớn.
THẠCH BÀN:
Bên suối Côn Sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ
tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ khi Người tới thăm di tích
này. Từ chân núi đi theo lối ṃn có kê đá xuống phía chân
núi có một tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm kề ven suối
gọi là Thạch Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyễn Trăi lấy
làm "chiếu thảm" nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư
việc nước.
Nằm cách thành phố Hải Dương 16km về phía Tây, Văn miếu Mao
Điền thuộc xă Cẩm Điền, huyện Cẩm Giảng, tỉnh Hải Dương,
được khởi dựng vào thời Lê Sơ (Thế Kỷ XV). Đây là di tích
lịch sử thờ Khổng Tử và tôn vinh các bậc Đại khoa Nho học
tiêu biểu cho truyền thống văn hiến, đồng thời với Văn miếu
là trường thi Hương của người dân tỉnh Đông- trấn Hải Dương.
Đầu thế kỷ XVI, do Thăng Long bất ổn về chính trị nên nhà
Mạc đă tổ chức 4 khoa thi Hội tại trường thi Mao Điền. Trong
đó có khoa thi Ất Mùi năm Đại Chính thứ 6 (1535), trấn Hải
Dương có Nguyễn Bỉnh Khiêm, người nổi tiếng Thủ khoa cả ba
kỳ thi: Hương, Hội, Đ́nh, được triều đ́nh phong tặng Trạng
nguyên. Hàng năm vào ngày “Đinh” đầu tháng “Trọng xuân”
(tháng Hai) và “Trọng thu” (tháng Tám), trấn Hải Dương tổ
chức lễ tế Khổng Tử, các quan đầu trấn, đầu phủ cùng cử
nhân, tiến sĩ về làm lễ trọng thể, nêu cao truyền thống
“Hiếu học và tôn sư, trọng đạo” của người dân tỉnh Đông.
Nơi đây đă đào tạo hàng ngàn cử nhân, tiến sỹ Nho học đứng
vào hàng đầu cả nước. Nếu chỉ tính số người đỗ Đại khoa
trong 185 kỳ thi (từ 1075 - 1919), cả nước có 2.898 tiến sĩ
th́ trấn Hải Dương có 637 vị, trong số 46 Trạng Nguyên, Hải
Dương có 12 người. Đặc biệt là Hải Dương c̣n có “Ḷ tiến sỹ
xứ Đông” thuộc thôn Mộ Trạch, xă Tân Hồng, huyện B́nh Giang.
Tại đây có 39 vị tiến sỹ Nho học qua các thời kỳ lịch sử.
Sau khi đỗ đạt, hầu hết các vị Đại khoa đều mang hết tài
năng của ḿnh để xây dựng đất nước.
Với ư nghĩa đó, năm 1992, Bộ VHTT đă ra Quyết định số
97/QĐ-VH xếp hạng Văn miếu Mao Điền là di tích lịch sử Quốc
gia. Ngày nay, Văn miếu không chỉ thờ Khổng Tử mà c̣n phối
thờ thêm 8 vị Đại khoa tiêu biểu cho các lĩnh vực và thời
đại (trong đó có 7 vị là người Hải Dương): Nhà giáo Chu Văn
An, Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi (thời Trần, thế kỷ
XIII-XIV), Danh nhân văn hoá thế giới, Anh hùng dân tộc
Nguyễn Trăi (thời Lê Sơ, thế kỷ XV), Tŕnh quốc công Nguyễn
Bỉnh Khiêm (thời Mạc, Thế kỷ XVI), Đại danh y, Thiền sư Tuệ
Tĩnh, Nhập nội hành khiển Phạm Sư Mệnh (thời Trần, thế kỷ
XIII- XIV), Thần toán Vũ Hữu (thời Lê Sơ, thế kỷ XV) và Nghi
Ái quan, tiến sỹ Nguyễn Thị Duệ (thời Mạc, thế kỷ XVI).
Đây là một việc làm sáng tạo thể hiện tinh thần tự tôn dân
tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Để đẩy mạnh “khuyến học, khuyến tài”, UBND tỉnh Hải Dương đă
giao cho Sở Giáo dục - Đào tạo kết hợp với Bảo tàng Hải
Dương xây dựng nhà truyền thống tại di tích nhằm tôn vinh sự
nghiệp Giáo dục đào tạo trong thời kỳ đổi mới. Văn miếu Mao
Điền chắc chắn sẽ là địa chỉ du lịch hấp dẫn cho du khách
trong và ngoài nước về thăm tỉnh Hải Dương
|
Nguồn: saigontoserco |
|