Hưng
Yên là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, phía bắc giáp
Bắc Ninh, phía đông giáp Hải Dương, phía đông nam giáp Thái
B́nh, phía tây và tây bắc giáp Hà Tây và Hà Nội, phía nam và
tây nam giáp Nam Hà được thành lập dưới thời vua Minh Mạng
1831. Với diện tích 923,1 km² , dân số khoảng 1.068.705
người (1.04.1999) thủ phủ là thị xă Hưng Yên, tỉnh được tách
ra từ tỉnh Hải Hưng năm 1995. Hưng Yên có khí hậu nhiệt đới
gió mùa, chi làm hai mùa: mùa nóng và mùa lạnh. Nhiệt độ
trung b́nh năm khoảng 23 độ. Địa h́nh của tỉnh tương đối
bằng phẳng, với nhiều sông hồ v́ vậy giao thông đường bộ,
đường sông, đường sắt đều rất thuận lợi.
Hưng Yên có di tích Phố Hiến, một thương cảng sầm uất từ thế
kỷ 17 “Nhất Kinh Kỳ, Nh́ Phố Hiến”. Nhiều di tích lịch sử
văn hoá độc đáo như chùa Kim Chung, đ́nh Nam Hiến… đặc biệt
có nhăn lồng là loại trái cây đặc sản nổi tiếng, từng là
loại quả quư hiếm để tiến vua.
Hưng Yên cũng là một trong những địa bàn cư trú của người
Việt Cổ. Các nhà khảo cổ học đă phát hiện ra mộ thuyền ở Từ
Lạc, ŕu đồng, trống đồng của người Lạc Việt.
Hưng Yên là quê hương của nhiều danh nhân văn hoá, anh hùng
dân tộc và đây cũng là vùng đất phát sinh và bảo tồn vốn văn
hoá dân gian đặc sắc của Việt Nam như hát xẩm, hát ả đào,
hát chèo…
--------------------------------------------------------------------------------
KHU DI TÍCH HẢI THƯỢNG LĂN ÔNG
HƯNG YÊN:
Khu
di tích nằm tại thôn Liêu Xá, xă Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, có
quan hệ tới Hải Thượng Lăn ông Lê Hữu Trác - Đại y tôn Việt
Nam. Ông sinh năm 1720 mất năm 1791, quê tại Liêu Xá. Ông là
nhà y học vĩ đại, nhà thơ, nhà văn xuất sắc, một nhà tư
tưởng tiến bộ thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo. Sau khi
ông mất, nhân dân và giới y học cả nước suy tôn là bậc Y
Thánh của Việt Nam.
Qua hơn hai thế kỷ, tại Liêu Xá c̣n lưu giữ nhiều di tích
quan hệ tới Đại danh y Hải Thượng Lăn Ông:
Đền thờ tiến sĩ Lê Hữu Mưu: thân phụ Lê Hữu Trác. Tại đây
c̣n sắc phong, câu đối, bia kư thế kỷ 18.
Nhà thờ Đại tôn: Nhà thờ ḍng họ Lê tại Liêu Xá.
Chùa Văn hay chùa Bà Sinh: Xây dựng từ thế kỷ thứ 17, trùng
tu năm 1782, năm Hải Thượng Lăn Ông từ quê ngoại về thăm quê
nội. Tương truyền chùa do cụ Lê Hữu Kiều, anh ruột Lê Hữu
Trác hưng công xây dựng. Đây cũng là cơ sở của Xứ ủy Bắc Kỳ
thời kỳ 1942 - 1945 và là nơi in báo của Đảng.
Khu lăng mộ họ Lê: xây dựng từ thế kỷ 18.
Nhà lưu niệm Hải Thượng Lăn Ông: xây dựng trên nền đất cũ
của gia đ́nh năm 1990.
Đ́nh thôn Liêu Xá: xây dựng đầu thế kỷ 20.
Lễ hội truyền thống tưởng niệm Đại danh y hàng năm được tổ
chức vào ngày 15/1 âm lịch, ngày mất của Đại danh y. Từ năm
2000 ngày lễ tưởng niệm này được chọn làm ngày truyền thống
của những người làm công tác y dược học cổ truyền Việt Nam.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA HIẾN HƯNG YÊN:
“Cửa ngọc, ṭa vàng, Phật đă đắp cao nền bảo hiện,
Thôn Hoa, chùa Hiến, sư càng mến cảnh luyện tâm kinh.”
Chùa
Hiến có tên chữ Hán là “Thiên Ứng tự”, thuộc địa phận Phố
Hiến Hạ, nay là đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thị xă
Hưng Yên. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Trần, niên
hiệu Thiên Ứng của vua Trần Thái Tông (1232-1250), do Tô
Hiến Thành, quan đại thần nhà Lư hưng công xây dựng. Đến năm
1625, 1709 chùa được trùng tu lại.
Chùa Hiến có bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”,
gồm tiền đường, thiên hương, thượng điện và ba mặt là hành
lang. Giữa thượng điện là tượng Quan Âm Nam Hải ở thế ngồi,
có tám đôi tay, bố trí đăng đối. Đầu tượng đội mũ chạm hoa
cúc, sen, phù dung. Phía trước là tượng tứ vị bồ tát ngồi
trên ṭa sen, khuôn mặt đầy đặn, trang nghiêm. Các pho tượng
này đều có niên đại thế kỷ 19. Việc thượng điện đặt ban thờ
nổi bật tượng Quan âm cùng tứ vị bồ tát thể hiện tâm lư sùng
bái vị thần có nhiều phép cứu giúp chúng sinh trên sông,
biển. Đây là đặc điểm khác biệt trong bố cục thờ tự của chùa
Hiến so với các nơi khác, nơi nhiều thương nhân trong và
ngoài nước đến sinh sống, buôn bán.
Phía trước sân chùa Hiến có hai tấm bia đá lưu giữ nhiều tư
liệu lịch sử nói lên quá tŕnh tụ cư của thương cảng Phố
Hiến. Tấm bia “Thiên ứng tự - Tân tự trùng tu thạch bi kư”
niên đại Vĩnh Tộ thứ 7 (1625) ghi việc hưng công tu sửa
chùa, có thể xếp chùa vào hàng thứ năm sau bộ “tứ đại khí”
thời Lư. Bia ghi nhận “Phố Hiến Nam nổi tiếng là nơi đô hội
tiểu Tràng An của bốn phương” và trụ sở Ty Hiến sát Trấn Sơn
Nam đóng ở đất Hoa Dương. Tấm bia “Thiên ứng tự - bia kư
công đức trùng hưng” dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709) ghi
việc góp công tu sửa chùa, có 481 người có quê quán nhiều
vùng khác nhau, trong đó có 56 người Trung Quốc. Qua đó
chúng ta có thể h́nh dung được khung cảnh của đô thị Phố
Hiến, nơi hội tụ của nhiều cư dân đến buôn bán.
Chùa Hiến c̣n nổi tiếng có cây nhăn Tổ, chính xác ra tên gọi
là cây nhăn tiến, nằm phía trước cửa chùa. Đây là cây nhăn
đường phèn có dáng h́nh đẹp, mă lụa, quả to, cùi dày, hương
vị thơm ngon đặc sắc nhất. Mỗi mùa nhăn chín, nhăn thường
được chọn hái để dâng đức phật, cúng thần thành hoàng và để
quan lại địa phương tiến vua. Thân cây chính đă già cỗi, bọ
ruỗng, đổ chỉ c̣n một nhánh, được đắp vun gốc, chăm sóc phát
triển thành cây “hậu duệ”, hiện diện như một biểu tượng của
giống nhăn đặc sản Phố Hiến - Hưng Yên.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA HƯƠNG LĂNG HUNG YÊN:
Chùa Hương Lăng
có
tên chữ là Thạch Quang Tự hay c̣n gọi là chùa Lạng thuộc
thôn Hương Lăng, xă Minh Hải, huyện Văn Lâm. Tương truyền
chùa do Thái hậu Ỷ Lan xây dựng từ thế kỷ XI. Chùa có quy mô
lớn, gồm nhiều ṭa, bố cục kiến trúc kiểu "nội công ngoại
quốc". Từ ngoài vào là Tam quan, có ba lối vào, rồi bậc tam
cấp dẫn lên một nền phẳng. Từ cấp này lên cấp thứ hai cũng
có ba lối lên. Cấp thứ ba là khu chính, bao gồm nhà tăng,
nhà hội đồng, phật điện
Chùa Hương Lăng hiện c̣n lưu giữ nhiều di vật thời Lư, rất
đặc sắc và độc đáo. Giá trị nổi bật là tượng sư tử, c̣n gọi
là ông Sấm. Tượng được tạo bằng phiến đá lớn, dài 2m80, rộng
1m50, cao 0m90 dùng làm bệ cho một pho tượng nào đó nay
không c̣n nữa. Hai đầu của phiến đá chạm khắc thành h́nh đầu
và phía sau của con sư tử. Mặt sư tử tạo tác dũng mănh, mũi
to căng tṛn, cặp mắt lồi như hai quả trứng, vầng trán cao.
Mông sư tử căng tṛn, trang trí dày đặc hoa văn xoắn ốc và
hoa cúc dây. Chùa có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng
và chồn, hoa cúc dây; bốn cột đá vuông bốn góc đỡ các xà
bằng đá của công tŕnh trước đây, mười con chồn đá đặt ở các
bậc thềm. Cạnh đó có nhiều hoạ tiết trang trí như phượng vũ
cánh, hoa cúc dây mang nghệ thuật đời Lư cùng một tấm bia đá
ghi lại việc trùng tu chùa vào thế kỷ 16.
Tượng sư tử, các bức tay vịn bằng đá tại chùa là những tác
phẩm điêu khắc đá vô giá của thời Lư hiện c̣n lại ở Việt
Nam.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA NỄ CHÂU HƯNG YÊN:
Chùa Nễ Châu
c̣n
có tên gọi là Thụy Ứng Tự, nằm ở thôn Nễ Châu, xă Hồng Nam,
huyện Tiên Lữ. Phía trước cửa chùa là đường phố Hiến, trước
kia vốn là khu vực chợ Nễ Châu, địa danh cuối của phố Hiến
hạ - Trung tâm thương cảng phố Hiến thời phồn thịnh.
Chùa được xây dựng từ cuối thế kỷ thứ 10, gắn với truyền
thuyết về bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh, vợ vua Lê Hoàn. Khi Lê
Hoàn về đóng quân trấn ải ở đây chống quân xâm lược nhà
Tống, đă lấy bà làm vợ. Bà giúp nghĩa quân cất giấu lương
thảo, chăm lo hậu cần. Giặc tan, bà xin ở lại phụng dưỡng
cha mẹ và đi tu tại chùa làng. Lê Hoàn cử Giới Quốc Công về
xây dựng chùa. Khi bà mất, nhà vua cho lập đền thờ ngay phía
trước cổng chùa.
Trải qua 10 thế kỷ, chùa đă được tu sửa nhiều lần. Khoảng
thế kỷ 17, chùa được tu sửa lớn, năm 1926 có tu sửa lại,
nhưng mẫu dạng kiến trúc của thế kỷ 17 vẫn c̣n giữ được tới
nay.
Nổi bật về giá trị nghệ thuật điêu khắc chùa Nễ Châu là bộ
tượng Tam Thế và tượng Tuyết Sơn có niên đại thế kỷ 18.
Tượng được tạo tác cân đối, đường nét sống động thể hiện
tŕnh độ nghệ thuật tạo h́nh khá cao.
--------------------------------------------------------------------------------
CHÙA THÁI LẠC HƯNG YÊN:
Chùa tọa
lạc
tại thôn Thái Lạc, xă Lạc Hồng, huyện Văn Lâm. Chùa thờ Phật
và thần Pháp Vân nên có tên gọi là Pháp Vân tự. Chùa được
xây dựng từ thời Trần (1225-1400). Kiến trúc kiểu "nội công
ngoại quốc", gồm tiền đường năm gian, ba gian thượng điện,
hai dăy hành lang mỗi bên chín gian, nhà tổ bảy gian. Chùa
Thái Lạc c̣n giữ được bộ v́ gỗ ở gian giữa ṭa thượng điện,
kiến trúc thời Trần, c̣n khá nguyên vẹn. Bộ v́ kiến trúc
kiểu giá chiêng, dựa trên kết cấu bốn hàng chân cột. Trên bộ
v́ được kết hợp hài ḥa giữa kiến trúc và trang trí. Trên
các cốn, các đố của bộ v́ và trên các cột, đấu có nhiều mảng
chạm khắc lớn. Hiện tại chùa c̣n lưu giữ được 16 bức. Mỗi
bức chạm thể hiện nội dung khác nhau như tiên cưỡi phượng
dâng hương, tiên đánh đàn, thổi sáo, tiên ngủ trong mây,
tiên nữ dâng hoa, đường nét rất tinh xảo. Các hoạ tiết này
phản ánh khá rơ nét xă hội Việt thời Trần với hào khí Đông
Á. Độc đáo hơn c̣n có cảnh chạm dàn nhạc ba người đang sử
dụng những nhạc cụ dân tộc. Chùa Thái Lạc c̣n giữ được tượng
Pháp Vân, ba bệ thờ và ba tấm bia đá ghi quá tŕnh trùng tu
tôn tạo chùa. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16-17. Năm 1964,
chùa Thái Lạc được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích
kiến trúc nghệ thuật đặc biệt quan trọng.
--------------------------------------------------------------------------------
CỔ KÍNH LÀNG NÔM HƯNG YÊN:
Làng c̣n có tên là
Đại Đồng thuộc xă Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, là
một trong số những làng hiếm hoi c̣n lưu giữ nhiều giá trị
đậm nét về di tích lịch sử văn hóa, cảnh quan kiến trúc,
cảnh quan thiên nhiên, phong tục tập quán )... của nông thôn
vùng ven châu thổ sông Hồng, sông Đ́nh Dù chảy qua cầu đá
cổ, một bên là làng Nôm, một bên là ngôi chùa Nôm cổ bảo tồn
gần như nguyên vẹn hơn 100 pho tượng cổ.
Bao bọc quanh làng Nôm vẫn c̣n nguyên những rặng tre xanh
kĩu kịt gió đưa. Những con đường gạch đỏ son và những bờ rào
duối hiếm hoi c̣n lại xen lẫn với dẫy bờ tường xây dẫn du
khách vào các ngơ ngách của làng.
Cùng với những ngôi nhà cổ, khu di tích đ́nh chùa của làng
Nôm càng tôn thêm vẻ đẹp cổ kính của làng quê. Chùa Nôm, tên
tự là "Linh thông cổ tự" .. Chùa trước đây là ngôi đại tự
hoành tráng thuộc miền Kinh Bắc, nay là Hưng Yên. Theo
truyền thuyết th́ xưa kia Chùa Nôm được xây giữa rừng thông
cổ thụ nằm trong quần thể di tích lịch sử gắn liền với quá
tŕnh thành lập làng Nôm. Đó là đ́nh Tam Giang thờ vị tướng
thời Hai Bà Trưng. Đó là cây cầu đá gồm 9 nhịp đầu rồng đă
mấy trăm năm nay soi bóng xuống ḍng sông Nguyệt Đức, nâng
bước chân thiện nam tín nữ đến với chùa. Đó là làng nghề đúc
đồng truyền thống nên trước cổng chùa từ xưa đă trở thành
nơi họp chợ mua bán các nguyên liệu phục vụ làng nghề.
Cây cầu đá chín nhịp dẫn lối vào làng
Chùa Nôm được xây dựng từ bao giờ không ai c̣n nhớ.Theo 2
tấm bia lớn c̣n lưu lại tại đây th́ chùa đă được xây dựng
lại vào thời Hậu Lê, năm 1680 và được trùng tu nhiều lần sau
đó, lần trùng tu mới nhất là vào năm 1998.
Nét đẹp của làng Nôm c̣n thể hiện ở đời sống văn hóa của
người trong làng. Ngoài ngày hội làng, những ngày đi lễ
chùa, người dân làng, nhất là các cụ già cũng thường hôm sớm
đến đ́nh chùa làm công quả để tô điểm cho cảnh quan đ́nh
chùa, cảnh làng ngày càng đẹp hơn trong mắt du khách thập
phương khi dừng chân ghé đến.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐẬU TRÀ BỒ HƯNG YÊN:
Trà Bồ, một trong bảy di tích có tên gọi là Đậu, một đặc
trưng của văn hóa di tích Hưng Yên. Đậu Trà Bồ có tên nôm là
Đậu Chè Nhang, tên tự là Sùng Hưng Điện, thuộc tổng Ba Đông,
huyện Phù Hoa, phủ Khoái Châu xưa, nay là thôn Trà Bồ, xă
Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ.
Theo "Ngọc phả Đậu Trà Bồ" do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ
Nguyễn Bính phụng soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), sau
đó được Quản giáp Bách thần Tri điện Hưng thiếu khanh Nguyễn
Hiền sao lại năm Vĩnh Hựu tam niên (1737) th́ Đậu Trà Bồ thờ
ba vị thần Quư Minh Hiển Đức Đại Vương, Tĩnh Minh Bảo Hựu
Đại vương và Đức Đông Hải Đoàn Thượng Đại vương.
Ngọc phả có thể tóm tắt như sau: Vào thời Hùng Duệ vương, có
người họ Cao là Nguyễn Công, quê huyện Thanh Xuân phủ Gia
Hưng, đạo Hưng Hóa (tỉnh Hà Tây ngày nay). Ông có tài kiêm
văn vơ, dũng lược hơn người, được vua Hùng tin dùng và khen
là người có tài, đức. Qua hai đời vợ không có con, Huyền
Công rất buồn, sau ông chọn được thế đất "phượng hàm thư"
trên núi Tựu Lĩnh để đặt mộ phần cha mẹ. Từ đó, vợ ông có
mang sinh được ba người con: con cả là Sùng Công, hiệu Cao
Sơn; con thứ hai là Hiển Công, hiệu Quư Minh và con thứ ba
là Tĩnh, hiệu Minh Công. Khi trưởng thành, các con ông đều
thông tuệ, khỏe mạnh, được vua Hùng gia phong làm tướng, cai
quản vùng Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ.
Trong một buổi du ngoạn, Quư Minh và Tĩnh Minh đă dừng chân
tại địa phận Trà Bồ, huyện Phù Hoa (sau này đôi thành Phù
Cừ). Thấy h́nh thế đất đẹp liền chọn hướng cho làm hành cung
và hai ông ở lại để giáo huấn nhân dân, chăm lo việc nông
tang cày cấy, khuyến thiện, trừ ác. Trong lúc vua Hùng Duệ
Vương muốn nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh),
nhưng Sơn Thánh từ chối. Quân Thục từ Ai Lao tiến vào xâm
lược, Quư Minh và Tĩnh Minh về Trà Bồ và các địa phương xung
quanh chiêu mộ quân sĩ, rồi hợp cùng các tướng đánh quân
Thục. Trải qua 36 trận giao tranh lớn nhỏ, quân Thục bị
thua.
Ba năm sau, quân Thục phục thù và Quư Minh, Tĩnh Minh lại
lập được công lớn. Đất nước thanh b́nh, Hùng Duệ Vương vẫn
có nhă ư nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh, ông vẫn từ chối
và tâu rằng: "Vua cho hạ thần gọi chúa Thục đến người ngôi
để giữ bề yên ổn lâu dài..." Chúa Thục lên ngôi, hiệu là
Thục An Dương Vương, chuyển kinh đô từ Phong Châu về Cổ Loa,
đổi tên nước là Âu Lạc. Được tin Quư Minh và Tĩnh Minh đă
than rằng: "Quốc gia đă thuộc về người khác!" bèn cùng một
số cận thần xa giá đi du ngoạn. Một hôm Lưỡng Công đến sách
Tự Pháp (miền ngược gọi là sách tương đương ấp, làng ở miền
xuôi), huyện Bất Bạt, phủ Gia Lương, đạo Hưng Hóa ngắm cảnh
và trèo lên ngọn núi Thu Tinh rồi tự hóa thân. Hôm đó là
ngày 12 tháng Ba năm Bính Thân. Nghe tin, dân làng Trà Bồ đă
giết tam sinh (trâu, ḅ, lợn) hành lễ, cúng tế và lập miếu
thờ tại Hành cung của Lưỡng Công. Trải qua các triều đại,
hai vị đều được phong mỹ tự "Thượng đẳng phúc thần".
Cũng theo ngọc phả th́ vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII,
có người tên Đoàn Thượng, con của Đoàn Trung và bà Hoàng Thị
Mỹ ở chợ Hồng Thị, phủ Thượng Hồng, đạo Hải Dương (thuộc
huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay) thông minh xuất
chúng, yêu thích cung nỏ, ham đọc binh thư... thực là một
người tài giỏi. Đời Lư Huệ Tông (1211- 1224) đă phong Đoàn
Thượng làm Tổng đốc đạo Sơn Nam kiêm vùng Hưng Tuyên. Khi
nhà Trần thay thế nhà Lư đă suy vi, ông rất tức giận, vung
kiếm phi ngựa về Hồng Châu chiêu tập binh mă, xây thành luỹ
tại xă An Nhân và tự xưng là "Đông Hải Đại Vương". Một hôm,
Thượng Công đi qua xă Trà Bồ, nghe tin đồn miếu Lưỡng công
nổi tiếng linh ứng nên lập Tả đồn, Hữu đồn ở đây làm căn cứ
chống lại nhà Trần và đă thu được nhiều thắng lợi. Do mưu kế
"giả cách hoà hoăn", Đoàn Thượng đă bị Nguyễn Nộn (cũng là
một công thần nhà Lư chống Trần, song bị nhà Trần mua chuộc)
phản bội vào ngày 04 tháng 12 năm ất Mùi (1235). Thượng Công
bất lực mà than rằng "Xuất quân chưa thắng ḿnh đă chết, măi
măi khiến cho nước mắt anh hùng thấm ướt vạt áo". Nói xong,
ông vung cao tay kiếm tự hoá.
Ngay hôm đó, dân làng Trà Bồ, Đoàn Đào... làm lễ tế phụng và
viết thần hiệu "Đông Hải Đoàn Thượng đại vương" cùng thờ với
Lưỡng Công tại miếu Trà Bồ. V́ thế Trà Bồ là một trong 71
nơi thờ đức Đông Hải Đại Vương.
Theo thường lệ, lễ hội Đậu Trà Bồ xưa được tổ chức từ ngày
12 đến ngày 18 tháng 3 âm lịch. Trong ngày khai hội, ngoài
lễ "khai quang tẩy uế" có lễ rước kiệu tam vi đại vương từ
miếu Phú (nơi thờ vọng) và rước Mẫu Liễu Hạnh từ chùa về Đậu
chính. Từ ngày 13 đến 17 lần lượt bốn giáp (nhất, nh́, tam,
hanh) và khách thập phương vào tế lễ làm cỗ chay. Ngày 18
tháng 3 tiến hành rước kiệu thánh từ Đậu chính về miếu Phú
an vị.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỀN ĐA H̉A HƯNG YÊN:
Đền Đa Ḥa
nằm ngay bên sông Hồng, thuộc địa phận thôn Đa Ḥa, xă B́nh
Minh, huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng
Vân công chúa. Đền nh́n ra sông Hồng và băi Tự Nhiên, tương
truyền là nơi tác thành mối t́nh Chử Đồng Tử - Tiên Dung.
Đền Đa Ḥa được xây dựng từ lâu, công tŕnh hiện nay được
hưng công cuối thế kỷ 19, từ 1884 đến 1886 do Chu Mạnh
Trinh, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, quan Án sát tỉnh Hưng
Yên đảm trách. Công tŕnh nổi tiếng với quy mô đồ sộ, ư
tưởng kiến trúc độc đáo, hài ḥa với cảnh quan thiên nhiên.
Khu đền bao gồm 18 công tŕnh lớn nhỏ: nhà bia, gác chuông,
gác khánh, ngọ môn, nhà tiền tế, ṭa thiêu hương, đệ nhị
cung, đệ tam cung, hậu cung và các nhà thảo xá, thảo bạt,
nhà ngựa, nhà pháo. Các mái đền tạo dáng h́nh thuyền rồng
cách điệu. Nếu từ trên cao nh́n xuống sẽ thấy các nóc đền,
tổ hợp lại trông giống như một đoàn thuyền đang dập d́u trên
sông nước. Chu Mạnh Trinh có ư tạo h́nh khu đền giống như
đoàn du thuyền của nàng Tiên Dung mười tám tuổi con gái vua
Hùng thứ 18 đang du ngoạn trên sông.
Đền Đa Ḥa c̣n giữ được nhiều di vật quư giá. Tượng đức
thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân đúc bằng đồng, tầm vóc
cỡ như người thật. Ba cỗ ngai thờ Chử Đồng Tử và hai vị phu
nhân, làm bằng gỗ, bố cục cân đối, đầu ngai chạm rồng trong
tư thế quay đầu vào. Ngai có niên đại cuối thế kỷ 16 đầu thế
kỷ 17, được coi là cổ nhất của loại h́nh này hiện c̣n t́m
thấy ở nước ta.
Hội đền Đa Ḥa tổ chức từ ngày 10-12/2 âm lịch. Ngày chính
hội được mở đầu bằng đám rước thần thành hoàng 8 làng thuộc
tổng Mễ xưa về đền chính (gồm làng Mễ Sở, Đa Ḥa, Bằng Nha,
Phú Thị, Phú Trạch, Thiết Trụ, Nhạn Tháp). Mỗi đám rước đều
có cờ, chiêng trống, bát bửu, lộ bộ, phường bát âm, kiệu bát
cống, múa sinh tiền, rồng, sư tử. Đám rước của 8 làng gặp
nhau chiêng trống vang rền, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến
cuối đám rước.
Ngày hôm sau là cuộc rước nước. Đám rước gồm kiệu nước, kiệu
thành hoàng của 8 làng tổng Mễ xưa lên thuyền ra giữa ḍng
sông Hồng làm lễ lấy nước về đền tế lễ. Cả khúc sông tưng
bừng tiếng trống chiêng rộn ră, nhạc bát âm rộn ràng.
Múa rồng, có từ 6-8 con rồng. Động tác múa của rồng theo sự
điều khiển của người cầm quả cầu và tiếng trống khẩu. Rồng
múa ṿng quanh, uốn lượn nhịp nhàng. Khi trống đánh chậm th́
múa chậm, khi trống đánh nhanh th́ múa nhanh, sôi nổi. Rồng
múa đơn, múa từng đôi hoặc tất cả rồng các làng đều múa,
tŕnh diễn những động tác điêu nghệ của rồng làng ḿnh.
Tham gia vật lăo là các cụ già 70-80 tuổi, trong trang phục
ngày hội, đầu chít khăn điều, mặc áo xanh, áo vàng, thắt
lưng đỏ, vàng biểu diễn các động tác vật tượng trưng. Cuộc
biểu diễn này gợi mọi người tưởng nhớ tới công ơn của Chử
Đồng Tử - Tiên Dung đă cứu nhiều người khỏi bệnh tật và để
chứng tỏ ḿnh hoàn toàn khoẻ mạnh, họ kéo nhau ra sân vật
nhau, làm tṛ cho ông bà xem.
Cờ người, được tổ chức tại sân đền. Có 32 quân chia làm 2
phe, một phe nam, một phe nữ. Người đóng vai tướng sĩ, quân
cờ đều là trai chưa vợ, gái chưa chồng. Đẹp nhất là vai
tướng ông, tướng bà. Kỳ thủ các nơi về đọ tài cao thấp.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỀN HÓA DẠ TRẠCH HƯNG YÊN:
Đền Hóa
Dạ Trạch c̣n có tên gọi là đền Dạ Trạch, thuộc thôn Yên
Vĩnh, xă Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên
Dung - Hồng Vân Công chúa. Tương truyền, đền Hóa Dạ Trạch
được xây dựng trên nền cao của lâu đài thành quách xưa, ngay
sau khi Chử Đồng Tử - Tiên Dung hóa về trời.
Vào cuối thế kỷ 19, đền được trùng tu tôn tạo, do công sức
đóng góp của nhân dân tổng Vĩnh và người chỉ huy xây dựng là
tiến sĩ Chu Mạnh Trinh.
Đền Hóa Dạ Trạch lưu giữ nhiều cổ vật như sắc phong, hoành
phi câu đối, đại tự. Đặc biệt là chiếc nón và cây gậy - phép
biến hóa của Chử Đồng Tử dùng để cứu nhân độ thế. Tượng cá
chép, gọi là ông “Bế”, “Bế ngư thần quan”, tạo h́nh cá chép
đang hóa rồng. Chuông “Dạ Trạch Từ chung” (Chuông đền Dạ
Trạch), đúc năm Thành Thái thứ 14 (1902) ghi lại quá tŕnh
trùng tu di tích.
Tương truyền, khi quân Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ thất
thế, Nguyễn Trăi đến đền Hóa Dạ Trạch cầu đảo được thần báo
mộng vào Lam Sơn, pḥ Lê Lợi chống giặc Minh xâm lược.
Trong quần thể di tích c̣n có đầm Dạ Trạch. Đây là dấu tích
của khu đầm Dạ Trạch rộng lớn trước đây, nơi Dạ Trạch Vương
Triệu Quang Phục đóng quân doanh chống quân Lương xâm lược
(thế kỷ 6) thắng lợi.
Hàng năm, đền Hóa Dạ Trạch có bốn tiết chính: ngày 4/1 (âm
lịch), ngày sinh của Tiên Dung công chúa; 10/2 ngày sinh của
Hồng Vân công chúa; 12/8 ngày sinh Chử Đồng Tử; 17/11 ngày
kỵ thánh. Lễ hội chính diễn ra từ ngày mùng 10 đến 12 tháng
2 (âm lịch), kỷ niệm ngày sinh Hồng Vân công chúa.
Mở đầu là nghi thức rước nước từ sông Hồng về lễ thánh. Đám
rước uy nghi, rồng vàng dẫn đầu, hội rước cờ, trống, phường
bát âm, múa sinh tiền, bát bửu, kiệu long đ́nh, kiệu chóe
nước, kiệu đặt nón, gậy, kiệu “Bế ngư thần quan”, ba kiệu
rước Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Hồng Vân công chúa. Đám rước
tới sông Hồng cũng là lúc thuyền rồng bên băi Tự Nhiên (xă
Tự Nhiên - Thường Tín - Hà Tây) ra chào đón, cùng tham gia
hội. Trên sông cờ xí rợp trời, rồng vàng uốn lượn, tiếng
hát, tiếng đàn, tiếng trống rộn ràng thúc. Một bô lăo cao
tuổi trong làng thận trọng múc từng gáo nước đổ vào chóe.
Theo định kỳ cứ ba năm Dạ Trạch rước giao hiếu với Từ Hồ vào
ngày 11. Đoàn rước ở lại tế lễ một đêm, sau đó rước về. Nếu
khóa hội này Từ Hồ rước kiệu xuống tham gia tế lễ th́ khóa
sau Dạ Trạch rước kiệu lên. Đám rước tế tại khu vực đền Yến
(khu vực đ́nh, chùa Từ Hồ, tương truyền là nơi ông bà ăn yến
tiệc trước khi về hóa tại Dạ Trạch). Năm hội nào Từ Hồ rước
giao hiếu xuống Dạ Trạch, th́ Dạ Trạch tổ chức rước du vào
buổi sáng ngày 11. Đám rước qua thôn Đức Nhuận, Đông Kim,
qua vườn ngô, băi mía, thăm đầm Dạ Trạch để tưởng nhớ tới
làng quê trù phú, lâu đài thành quách khi xưa.
Trong ngày hội tổ chức hát trống quân, quan họ, ca trù và
nhiều tṛ chơi dân gian như đập niêu đất, đi cầu kiều, bắt
vịt trong ao, bịt mắt bắt dê…
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỀN MẪU HƯNG YÊN:
Đền Mẫu nằm
trên địa bàn phường Quang Trung, thị xă Hưng Yên. Đây là một
trong những danh lam thắng cảnh đẹp nhất của Phố Hiến. Bên
phải đền là hồ Bán Nguyệt, phía trước là sông Hồng, Bến Đá -
nơi thuyền cập bến buôn bán tại Phố Hiến xưa.
Đền Mẫu thờ bà Quư Phi họ Dương nhà Tống (Trung Quốc), được
người đời tán xưng là Dương Thiên Hậu, Mẫu Nghi Thiên Hạ.
Theo truyền thuyết, vào thế kỷ XIII khi quân Nguyên xâm lược
nhà Tống, vua và hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam.
V́ không chịu khuất phục trước sự truy bức của quân Nguyên,
vua Tống và một số người trong hoàng cung nhảy xuống biển tự
tận. Thi thể của Dương Quư Phi trôi dạt về vùng cửa sông Phố
Hiến, được nhân dân chôn cất chu đáo. Người nội thị của
triều đ́nh Bắc quốc là quan thái giám họ Du trong cơn loạn
lạc tới Phố Hiến, được nhân dân địa phương giúp đỡ đă tập
hợp những người Hoa lánh nạn hưng công xây dựng đền thờ, lập
làng Hoa Dương. Khi thái giám mất, dân làng tôn làm thành
hoàng làng, ngôi mộ được giữ ǵn trong khuôn viên của đ́nh
Hiến.
Qua nhiều lần trùng tu, quy mô đền như hiện nay là lần tu
sửa năm Thành Thái thứ 8 (1897), kiến trúc hoàn chỉnh gồm:
tam quan, thiên hương, tiền tế, trung từ, hậu cung. Ṭa tiền
tế, trung từ có nhiều bức cốn chạm khắc đề tài tứ linh, tứ
quư. Hậu cung có tượng Dương Quư Phi cùng hai người hầu là
Kim Thị và Liễu Thị, niên đại thế kỷ 17-18. Tượng Quư Phi
được tạo tác sống động, nét mặt trang nghiêm, đôn hậu. Dưới
ban thờ có dấu tích một cái giếng nhỏ. Tương truyền giếng
vốn là “rốn biển”, khi biển lùi xa để lại dấu tích cùng với
hồ Bán Nguyệt cho nên nước giếng luôn đầy vơi theo nước hồ.
Trong đền lưu giữ nhiều di vật quư như kiệu vơng, long đ́nh,
long sàng, long kỷ có niên đại thế kỷ 18-19 và 15 đạo sắc
phong từ triều Lê đến Nguyễn, cùng nhiều bức hoành phi, câu
đối, đại tự ca ngợi tấm gương trung trinh tiết liệt của Quư
Phi.
Đền Mẫu cũng nổi tiếng bởi có cây sanh, si, đa cổ thụ ngót
tám trăm năm ở phía trước cửa đền. Ba thân cây quấn lấy như
ḥa vào làm một, thân rễ quấn quưt làm thành thế kiềng ba
chân vững chăi, cành lá vươn cao xum xuê che phủ cho toàn bộ
ngôi đền, tạo ra cảnh trí thâm nghiêm huyền bí.
Lễ hội truyền thống đền Mẫu tổ chức từ ngày 10 đến 13 tháng
3 âm lịch. Mở đầu là buổi tế long trọng do các quan viên
làng Mậu Dương thực hiện. Hôm sau tổ chức rước nước từ sông
Hồng về làm lễ mục dục. Buổi rước sôi động nhất là rước liềm
và rước du.
Rước liềm tổ chức vào ngày 12/3, đám rước xuống đ́nh Hiến và
trở về đền chính. Đi đầu là cờ, trống chiêng, long đ́nh, bát
bửu, lộ bộ, có đội múa lân, múa rồng. Đám rước đi một đoạn
th́ dừng lại để biểu diễn múa cờ. Bốn thanh niên cầm 4 cờ,
múa theo nhịp trống, lúc nhanh, lúc chậm. Sau mỗi tiếng
trống, người múa cờ “hứ” một tiếng to và dài (nên được gọi
là tṛ “tùng hứ”).
Đám rước du được tổ chức vào ngày hôm sau. Đám rước đi quanh
phố. Đi trong đám rước cũng như hôm rước liềm. Trong đám
rước, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước, có múa
“Con đi đánh bồng”. Đám rước đi đến đâu hai bên đường các
gia đ́nh đốt pháo nổ không dứt.
Trong ngày hội, sân đền tổ chức thi đấu cờ, quân cờ là nam
thanh nữ tú. Tổ chức thi đấu tổ tôm điếm, chọi gà; buổi tối
hát chầu văn.