Ninh 
					Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc và khu vực 
					đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam. Theo quy hoạch xây dựng phát 
					triển kinh tế thì Ninh Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Mặc 
					dù được xếp vào khu vực đồng bằng Bắc Bộ nhưng Ninh Bình chỉ 
					có 2 huyện duyên hải là Yên Khánh và Kim Sơn không thuộc 
					miền núi. Chính nhờ vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình 
					và lịch sử văn hóa mà Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du lịch 
					phong phú và vượt trội so với các tỉnh phía Bắc khác. 
					
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					TAM CỐC - BÍCH ĐỘNG NINH BÌNH: 
					
					
Tam 
					Cốc — Bích Động là một quần thể di tích-danh thắng nằm trên 
					địa phận xã Ninh Hải (huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) có diện 
					tích 350,3 ha. Từ trung tâm thành phố Ninh Bình du khách đi 
					theo quốc lộ 1A hướng đi Ninh Bình — Thanh Hoá khoảng 4 km 
					tới ngã tư Cầu Vòm, rẽ phải 2 km là tới trung tâm khu du 
					lịch này. 
					Ngồi trên những chiếc thuyền nan, lướt nhẹ trên dòng sông 
					Ngô Đồng trong không gian tĩnh lặng, du khách có thể cảm 
					nhận rõ cái trong trẻo của không gian nơi đây, không tiếng 
					còi xe, tiếng máy nổ, không có những chùm âm thanh tạp nham 
					nơi phố thị, chỉ có tiếng mái chèo nhè nhẹ, ràn rạt, tiếng 
					gió vi vu vuốt qua những cung đàn đá, tiếng chim lảnh lót 
					buông từng nốt nhạc trong không gian và tiếng những giọt 
					nước tong tong nhỏ như cách giữ nhịp thời gian của đá núi.
					
					Các điểm du lịch có trong khu: 
					1.Tam cốc. 
					2.Xuyên Thủy Động. 
					3.Hành cung Vũ Lâm - Đền Thái Vi. 
					4.Linh Cốc Hải Nham. 
					5.Động Thiên Hương. 
					6.Động Tiên. 
					7.Chùa Bích Động. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					TƯỢNG PHẬT TỔ LỚN NHẤT VIỆT NAM - NINH BÌNH: 
					
					
Ở 
					chùa Bái Đính, xã Gia Sinh, (Gia Viễn-Ninh Bình), trong điện 
					thờ Pháp chủ xây dựng toàn bằng bê tông cốt thép giả gỗ rất 
					đồ sộ, hoành tráng, cao đến nóc gần 30 m, dài 44,7 m, rộng 
					43,3 m, có diện tích 1.945 m2 đặt một pho tượng lớn bằng 
					đồng nguyên khối dát vàng, cao 10 m, nặng 100 tấn trên bệ 
					cao 1,5 m ốp đá thước chạm hoa văn trông rất bề thế. 
					Đó là pho tượng Thích Ca Mâu Ni ngồi trên toà sen và niệm 
					hoa sen, ở gian giữa. Mặt Ngài mang dáng vẻ hiền từ, miệng 
					thoáng nụ cười cứu độ, tai to dài (sự cao quý), mũi thẳng 
					đều đặn (tướng chính nhân quân tử), tóc xoắn ốc bướu nổi 
					trên đầu (đề cao trí tuệ và nội tâm), mặc áo ca sa (“ca” là 
					nhiều, “sa” là cát, có nghĩa là áo khoác từ nhiều mụn vải 
					quyên góp mà thành), biểu tượng tạo cho tâm thanh lòng tĩnh 
					để trí tuệ phát sinh nhằm diệt trừ: Tham, sân, si, ái, ố, 
					hỷ, nộ. 
					Đặc biệt là mắt bao giờ cũng nhìn xuống soi rọi nội tâm. Mọi 
					biểu hiện về trí tuệ, lòng từ bi quảng đại, sức mạnh Phật 
					pháp đã thể hiện qua hình hài của tượng. Giữa ngực Ngài có 
					chữ “vạn”, biểu thị công đức, lòng từ bi và trí tuệ vô lượng 
					của Phật (là phù hiệu, không phải là chữ viết). Tay phải cầm 
					búp sen cao gần ngang đầu. Tư thế này gọi là tượng Hoa Niêm. 
					Chân khoanh chỉ lộ một bần chân phải để chống tà ma. Tay 
					trái để ngang trước bụng. 
					Toà sen là 3 lớp cánh sen. Hai lớp trên chồng lên nhau: Lớp 
					trên cánh sen nhỏ, lớp dưới so le nổi rõ cánh sen to. Lớp 
					thứ 3, gần như đối xứng với cánh sen to ở trên là một làn 
					cánh sen rủ xuống, hình dung như lòng từ bi của Phật đang 
					che chở cho muôn loài đã biết quy y hối cải. 
					Phía sau tượng là một phù điêu rộng lớn hình lá đề được làm 
					bằng đồng (thúc đồng) gồm nhiều mảnh ghép lại, có gắn hàng 
					trăm pho tượng Phật nhỏ đúc bằng đồng theo kích cỡ khác 
					nhau. Nhìn pho tượng đồng lớn, đồ sộ, du khách sẽ sửng sốt, 
					bàng hoàng, thán phục trước tài nghệ của các nghệ nhân đúc 
					đồng đã làm nên tuyệt tác vĩ đại này. 
					Chỉ riêng công việc vận chuyển pho tượng đồng nặng 100 tấn 
					lên đồi núi cao và đặt trong điện đã là một kỳ công. Pho 
					tượng này đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam cấp bằng 
					“Xác nhận kỷ lục”: “Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng cao và 
					nặng nhất Việt Nam”, ngày 4-5-2006. Pho tượng này do các 
					nghệ nhân đúc đồng thôn Thượng Đồng, xã Yên Tiến, huyện Ý 
					Yên, tỉnh Nam Định đúc. 
					Đức tượng Thích Ca Mâu Ni, trước tiên phải có mẫu. Mẫu tượng 
					làm bằng thạch cao với sơ đay dựng bằng khung tre. Có mẫu 
					tượng rồi phải làm khuôn. Công việc khó khăn, vất vả và lâu 
					nhất là làm khuôn nguội mới đúc được đồng đỏ. 
					Khâu đầu tiên của việc làm khuôn là dùng đất sét đen cho vào 
					máy xay nghiền nhỏ với trấu và giấy bồi để cho đất chịu 
					nhiệt và dễ thoát hơi. Dùng đất đó cùng với khung sắt theo 
					từng ô đắp phủ lên mẫu thạch cao theo tỷ lệ 1/1, tức là làm 
					khuôn ngoài, gọi là bìa, khuôn trong nhỏ hơn mẫu tượng cũng 
					làm bằng đất, gọi là thao. Làm thao rất khó, cũng dựng bằng 
					khung sắt nhưng phải nhỏ hơn mẫu để tạo ra khoảng cách giữa 
					bìa và thao từ 3 đến 5 cm. 
					Công đoạn lắp ghép hai khuôn có khoảng trống ở giữa để đổ 
					đồng vào là vô cùng quan trọng, phải chính xác theo đúng độ 
					dày của mẫu tượng ở tất cả các bộ phận. Nếu lệch một chút là 
					đồng sẽ có chỗ dày, chỗ mỏng. Làm khuôn tượng phải mất 5 
					tháng mới xong. Khuôn tượng có thể để trên mặt đất hoặc lật 
					ngược đặt sâu xuống lòng đất tuỳ theo địa hình của xưởng 
					đúc. 
					Khi đã hoàn chỉnh khuôn tượng mới đến khâu nấu đồng, rót 
					đồng đổ vào khuôn. Dĩ nhiên khi nấu đồng đều có cho một số 
					vàng vào. Thời gian của công đoạn này rất ngắn, chỉ khoảng 1 
					giờ đồng hồ. Sau cùng, khi đồng đã nguội, tiến hành gọt 
					giũa, mài nhẵn, đánh bóng tượng, tức là hoàn thiện kỹ thuật, 
					cũng phải mất từ 5 đến 6 tháng. 
					Đúc pho tượng này, chỉ tính riêng nguyên liệu phụ gia, đã 
					phải dùng đến 60 m3 đất sét, 70 tấn thép các loại để làm 
					khuôn; 35 tấn than đá, 120 tấn củi để nung chảy đồng. 
					Trong thời gian ghép mẫu, làm khuôn và khi đúc tượng, rót 
					đồng vào khuôn phải sử dụng cẩu loại 25 tấn và 100 tấn. Khi 
					tượng đúc xong, vận chuyển tượng đến chùa Bái Đính còn phải 
					sử dụng cẩu loại 25 tấn và loại 100 tấn nữa. Ngày đưa tượng 
					Phật tổ về chùa Bái Đính là ngày 24-3 năm Bính Tuất, tức là 
					ngày 21-4-2006. 
					Khi vận chuyển tượng phải dùng đến loại xe đặc chủng. Đường 
					từ xưởng đúc ở thôn Thượng Đồng ra đường cái lại hẹp, nên 
					phải kè thêm đá ở bên ngoài và chặt cây cho đường thoáng 
					rộng. Bắt đầu chuyển tượng từ 3 giờ sáng từ xã Yên Tiến, mãi 
					đến 14 giờ mới tới chùa Bái Đính. Như thế, đoạn đường chuyển 
					tượng chỉ dài có hơn 30 km nhưng phải đi mất 9 giờ. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					HOÀNG HẬU DƯƠNG VĂN NGA - NINH BÌNH: 
					Trên thế giới đã có rất nhiều hoàng hậu nổi tiếng tài ba 
					nhưng chỉ làm vợ một ông vua. Còn bà Nga đã làm vợ hai vua 
					Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Điều đó khẳng định bà rất 
					xinh đẹp, có sức quyến rũ, thông minh nên mới được vinh dự 
					ấy. Công lao lớn nhất của bà là lượng sức mình không đảm 
					đương việc nước. Bà đã quyết định trao ngôi báu lại cho Lê 
					Hoàn tức là truất cơ nghiệp của nhà Đinh, xây dựng nhà Tiền 
					Lê. Đây là việc làm phù hợp với lòng trời, lòng dân. Bà là 
					người phụ nữ thức thời yêu nước, nghĩ đến vận mệnh đất nước 
					là trên hết, bỏ ngoài tai lời bàn tán, phản đối thậm chí cả 
					những dư luận rất xấu của triều đình lúc bấy giờ. Và một lần 
					nữa, vượt trên những người phụ nữ đương thời dám tự quyết 
					đoán tình cảm riêng tư theo tiếng gọi của con tim bà chia sẽ 
					hạnh phúc với Lê Hoàn, góp phần xây dựng đất nước sau chiến 
					thắng. Bà qua đời vào năm 1000. Nga chính là người phụ nữ 
					nổi tiếng, vô tiền khoáng hậu trong lịch sử dân tộc việt 
					nam. Trong lịch sử nước ta cũng có hoàng hậu hai vua đó là 
					công chúa Lê Ngọc Bình- em của công chúa Lê Ngọc Hân nhưng 
					về tài đức thì không thể nào so sánh với Dương Vân Nga. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					NHÀ THỜ ĐÁ PHÁT DIỆM NINH BÌNH: 
					
					
Theo 
					quốc lộ 1A từ Thanh Hoá ra 60 km, hay từ Hà Nội xuống 93 km 
					đến thành phố Ninh Bình, du khách rẽ phía Đông-Nam đi theo 
					đường số 10, khoảng 28 km là tới thị trấn Phát Diệm, ở bên 
					trái đường số 10 thấy cây Cầu Ngói cổ, du khách đi chừng 100 
					m, rẽ phải theo một con đường trải nhựa dài khoảng 250 m là 
					tới khu quần thể nhà thờ đá Phát Diệm. 
					Khu quần thể nhà thờ đá này có chiều dài 200 m, rộng 110 m, 
					có tường xây bao bọc, với nhiều công trình xây dựng như Ao 
					Hồ, Phương Đình, Nhà thờ lớn, Bốn nhà thờ cạnh, Nhà thờ đá,… 
					được linh mục Phê rô Trần Lục (chính tên là Trần Triêm) tuần 
					tự xây dựng từ năm 1876 đến 1899. Đây là một công trình kiến 
					trúc mang phong cách phương Đông hết sức độc đáo. 
					Các điểm du lịch trong khu: 
					1.Nhà thờ đá Phát Diệm. 
					2.Chùa Đồng Đắc. 
					3.Đền Nguyễn Công Trứ. 
					
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					ĐỀN VUA ĐINH TIÊN HOÀNG NINH BÌNH: 
					
					
Đền 
					quay hướng Tây toạ lạc trên một khu đất rộng, thuộc thôn Vân 
					Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn. Đền có 3 toà, kiến trúc 
					theo kiểu "tiền nhất, hậu đinh liền nhau". Tiền Đường 5 
					gian, kiến trúc theo kiểu đình làng. 
					Điều đặc biệt là trong Hậu Cung chỉ đặt một tượng vua Đinh 
					Tiên Hoàng làm bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, cao gần 2 
					mét. Phía trước đền có hồ bán nguyệt là nơi tụ thuỷ, giữa 
					sân đền là một sập Long Sàng bằng đá, tượng trưng cho vua 
					ngự triều. 
					Đến thăm đền vua Đinh Tiên Hoàng ở xã Gia Phương du khách 
					như được về thăm quê hương của người anh hùng thế kỷ thứ X, 
					với nhiều huyền thoại về một thời thơ ấu của Đinh Bộ Lĩnh - 
					nơi mà xưa kia Đinh Bộ Lĩnh và các bạn cùng làng đã từng 
					chăn trâu cắt cỏ như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ 
					... đã nuôi trí lớn dẹp loạn mười hai sứ quân thống nhất đất 
					nước. 
 
					
					--------------------------------------------------------------------------------
					
					
					ĐỀN VUA LÊ ĐẠI HÀNH NINH BÌNH: 
					
					
Cách 
					đền vua Đinh Tiên Hoàng về phía Bắc 300m là đền thờ vua Lê 
					Đại Hành, cũng xây dựng trên nền cung điện xưa của kinh đô 
					Hoa Lư. Đền ở làng Trường Yên Hạ nên gọi là đền Hạ. Đền lấy 
					núi Đèn làm án. Kiến trúc của đền cũng xây dựng theo kiểu 
					"nội công ngoại quốc", có thêm Từ Vũ, không có ngưỡng cửa đá 
					và những tảng đá cổ bồng tôn cao như đền vua Đinh Tiên 
					Hoàng. 
					Đền vua Lê Đại Hành còn giữ nguyên được lối kiến trúc và 
					điêu khắc ở thời kỳ Hậu Lê. Đền vua Lê Đại Hành có ba toà: 
					Bái Đường, Thiêu Hương, Chính Cung. Đền thấp hơn đền vua 
					Đinh, lại có nhiều bức đại tự sơn son thếp vàng, nên tạo cảm 
					giác tráng lệ, mang tính chất huyền ảo hơn. Bái Đường đền Lê 
					Đại Hành có nhiều mảng chạm khắc gỗ rất điêu luyện và tinh 
					xảo. Qua Bái Đường là đến Thiêu Hương thờ tứ trụ triều Tiền 
					- Lê. 
					Nối với Thiêu Hương là Chính Cung, gian giữa của Chính Cung, 
					trên bệ đá đặt tượng vua Lê Đại Hành. Gian bên trái tượng 
					vua Lê Đại Hành là tượng Hoàng hậu Dương Vân Nga, quay mặt 
					về phía đền Đinh. Gian bên phải tượng Lê Đại Hành, đặt trên 
					bệ đá tượng Lê Long Đĩnh (Lê Ngoạ Triều) là con thứ năm của 
					vua Lê Đại Hành và là đời vua thứ ba của nhà Tiền Lê. Điều 
					đặc biệt của đền Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm khắc gỗ ở 
					thế kỷ thứ XVII đã đạt đến trình độ điêu luyện và tinh xảo