|   | 
		
		
			
				| ĐỊA DANH DU LỊCH 
				YÊN BÁI - 
				ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH YÊN BÁI | 
			 
			 
		
			
				| 
				SUỐI GIÀNG - YÊN BÁI | 
			 
			
				
				
					
					 Suối 
					Giàng Yên Bái: Suối Giàng (Văn Chấn - Yên Bái) nằm trên độ 
					cao 1.371m so với mực nước biển, nằm sâu trên dăy núi Phan 
					Xi Phăng hùng vĩ thuộc huyện Văn Chấn - Nghĩa Lộ (Yên Bái). 
					Đây là quê hương của thủy tổ loài chè trên thế giới, của hơn 
					300 gia đ́nh đồng bào dân tộc Mông  
					Khí hậu ở đây bốn mùa se lạnh, tựa như Sapa, Đà Lạt. Du 
					khách chỉ mất khoảng chút ít thời gian thả hồn cùng những 
					dải lúa cong cong theo vạt núi, từng nương ngô, nương cải 
					xanh non trong sương bay bảng lảng là thấy ḿnh như đứng 
					trên mây.  
					Phóng tầm mắt xuống biển lúa rộng mênh mông vàng óng Mường 
					Ḷ - vựa lúa lớn thứ hai của Miền Tây Bắc - Việt Nam và thị 
					xă thanh b́nh cùng nhịp sống của 13 dân tộc anh em. Du khách 
					có thể lên những cây chè cổ thụ trên trăm tuổi, hái những 
					búp chè xanh non cùng thiếu nữ Hmông mến khách, hay đi dạo 
					dưới rừng Pơ mu hoặc phiêu du cùng thác Tập Lang ŕ rầm nước 
					chảy.  
					Suối Giàng nổi tiếng với cây chè tuyết, có cây cổ thụ hàng 
					trăm năm tuổi, đường kính lên tới 100cm. Chè tuyết nơi đây 
					phát triển tự nhiên trong tiểu vùng khí hậu quanh năm mát mẻ, 
					chẳng cần phân bón mà vẫn đâm chồi nảy lộc xanh biếc. Lộc 
					non sao lên, pha nước sôi, hương vị bốc lên thơm ngây ngất, 
					uống vào thấy đượm vị ngọt lâu, dù là "chè Thái, gái Tuyên" 
					cũng chẳng sánh bằng. Bởi thế mà khách trong nước hay khách 
					quốc tế đă từng đến nơi đây, dù giá chè đắt gấp 3-4 lần các 
					loại chè khác cũng cố t́m mua đôi ba lạng chè tuyết Suối 
					Giàng về làm quà cho bạn bè, gia đ́nh.  
					Nhiều gia đ́nh dân tộc Mông ở đây cũng nhờ những gốc chè này 
					mà làm nên cơ nghiệp, cải thiện sinh hoạt trong cuộc sống. 
					Họ coi đó là cây chè của đất trời ban tặng cho người Mông, 
					người Thái và xứ sở này.  
					Ở Hà Nội, giữa trưa hè nóng bức nhưng chỉ mất 260km đường ô 
					tô đến với Suối Giàng là khách đến với một vùng trời mây non 
					nước. Nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Suginô, Giám đốc hăng ảnh 
					Miraica (Nhật Bản) từng đi nhiều nước trên thế giới, chụp 
					hàng ngh́n bức ảnh về cây chè và các dân tộc thiểu số, nhưng 
					khi đến đây cũng phải ngạc nhiên thốt lên: "Rừng chè thiên 
					nhiên kỳ diệu này có thể là một trong những cái nôi của loài 
					chè trên thế giới".  
					Ngành du lịch Yên Bái đă quy hoạch khu du lịch sinh thái 
					Suối Giàng, xây dựng trở thành khu du lịch với nhiều sản 
					phẩm hấp dẫn: sinh thái nghỉ dưỡng, t́m hiểu văn hoá bản địa. 
					Khu du lịch sinh thái Suối Giàng bốn mùa bồng bềnh trong mây, 
					hấp dẫn du khách bởi khí hậu, vị ngọt của chè tuyết cổ thụ, 
					của mật ong tinh khiết và tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn 
					môi cùng lời hát trao t́nh của các chàng trai, cô gái Hmông 
					réo rắt gọi mời.  
				
				 | 
			 
			
				
  | 
			 
			
				| 
				RUỘNG BẬC THANG MÙ CĂNG CHẢI - YÊN BÁI | 
			 
			
				
				
					
					 Ruộng 
					Bậc Thang Mù Căng Chải: Ruộng bậc thang tại ba xă La Pán Tẩn, 
					Chế Cu Nha và Dế Xu Ph́nh huyện Mù Căng Chải, Yên Bái vừa 
					được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp bằng xếp hạng di 
					tích quốc gia vào ngày 18-10-2007, một danh thắng có lẽ là 
					độc đáo vào bậc nhất của đât nước Việt Nam. Mù Căng Chải 
					cách Hà nội chừng 300km về phía Tây Bắc. Những năm gần đây, 
					địa danh Mù Căng Chải đă trở nên gần gũi và nổi tiếng hơn 
					với khách du lịch "bụi" trong và ngoài nước. Các "Tây ba lô" 
					và các nhà nhiếp ảnh từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Việt 
					Kiều từ nước ngoài về nước thường lặn lội lên Yên Bái chỉ để 
					ngắm ruộng bậc thang, hít thở không khí trong lành, ghi lại 
					nhữg h́nh ảnh đẹp, hoành tráng. Tháng 
					10 là tháng đẹp nhất ở Mù Căng Chải và cũng là tháng thu hút 
					khách du lịch nhiều nhất. Quốc lộ 32 chạy dọc theo những 
					sườn núi hun hút gió, con suối đỏ ngầu cuộn chảy, chạy qua 
					nhưng đồi thông và nhưng thửa ruộng bậc thang tầng tầng lớp 
					lớp, ngút ngàn lên tận lưng chừng trời.Thị trấn Mù Căng Chải 
					nhỏ xinh nằm gọn giữa hai sườn núi, c̣n khá nghèo. Đến Mù 
					Căng Chải, du khách đừng quên thưởng thức món gà đồi cũng 
					như những bát cơm lúa mới nấu từ loại nếp Tú Lệ dẻo thơm.  
				
					
					
					   
				
					
					
					  
					
					Tại Mù Cang Chải, những cung ruộng bậc 
					thang ở các xă La Pá Tẩn, Chế Cu Nhai, Dế Su Ph́nh đă được 
					xếp hạng danh thắng quốc gia - Ảnh: Đan Hạ  
				
				
				 | 
			 
			
				
  | 
			 
			
				| 
				
				Khu di tích Nguyễn Thái 
				Học | 
			 
			
				
				
					
						
						
						Sơ Lược 
						
					 Khu 
						di tích lịch sử Nguyễn Thái Học nằm trong khuôn viên của 
						công viên Yên Hoà, phường Hồng Hà,
						
						
						thành phố Yên Bái.  
					
					Đặc Điểm 
					
						
						
						Ban đầu, khu mộ nằm ở khu vực trong cùng của nghĩa trang 
						thị xă Nghĩa Lộ (trước kia thuộc tổng Bách Lẫm, phủ Trấn 
						Yên, 
						
						tỉnh Yên Bái). Sau năm 1954, địa phương tập 
						trung tất cả hài cốt của dân công, bộ đội hy sinh trong 
						cuộc kháng chiến chống Pháp vào khu vực này để xây đài, 
						bia mộ. Khu di tích Nguyễn Thái Học được khởi công xây 
						dựng vào dịp kỷ niệm 70 ngày các anh hùng hi sinh 
						(17/6/2000). 
						
						
						Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái có diện tích khoảng 
						10.391m2 bao gồm khu lăng mộ, khu tượng đài, 
						bia tưởng niệm, khu nhà đón khách và khuôn viên cây cảnh. 
						
							
								
									
									
									  | 
								 
								
									| 
									Tượng đài khu 
									di tích Nguyễn thái Học. Ảnh: yenbaigov. | 
								 
							 
						 
						
						
						Phần chính của khu di tích là khu mộ có diện tích 300m2 
						bao quanh là 17 cột trụ, mỗi cột có chiều cao 5m. Các 
						cột trụ được nối bằng một ṿng tṛn khuyết tượng trưng 
						cho 17 liệt sỹ bị thực dân Pháp xử chém trong cuộc khởi 
						nghĩa Yên Bái. 
						
						
						Khu mộ có 2 ngôi mộ được xây bằng gạch ốp lát, nhà bia 
						tưởng niệm được làm từ đá cẩm thạch khắc tên 17 liệt sỹ, 
						phủ nhũ vàng. Mái nhà bia được gắn ngói mũi hài trên bê 
						tông nghiêng. Phần tượng đài có diện tích chính là 56m2 
						gồm 5 nhân vật: Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó 
						Đức Chính, Nguyễn Thị Giang và Ngô Hải Hoàng. Nhóm tượng 
						đài có chiều cao khoảng 6m với chất liệu bê tông phủ kẽm. 
						
						
						Di tích khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong 
						cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 nằm trong khuôn viên 
						công viên Yên Hoà (rộng 30 ha), bên cạnh đại lộ Nguyễn 
						Thái Học. 
						
						
						Du khách có thể đi đến khu di tích bằng 3 loại h́nh giao 
						thông là đường bộ, đường sắt và đường thuỷ. 
						
						
						Ngày 5/3/1990, khu di tích Nguyễn Thái Học được Bộ văn 
						hoá đă công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia theo 
						quyết định số 177 VH/QĐ. 
						  
						
						
						
						Lịch Sử 
						   
					
						
						
						5 nhân vật của tượng đài gồm: 
						
						
						Lănh tụ Việt Nam Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học, sinh năm 
						1903 tại làng Thổ Tang, Phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Yên). Ông 
						là người thứ 17 bước lên máy chém của Pháp. 
						
						
						Ông Nguyễn Khắc Nhu (cụ xứ Nhu), sinh năm 1882, người 
						làng Song Khê, tổng Yên Dũng (Bắc 
						Giang). Tuy không có tên trong những người bị 
						hành quyết tại Yên Bái nhưng ông Nguyễn Khắc Nhu có vai 
						tṛ quan trọng trong Việt Nam Quốc dân đảng, ông là 
						người chỉ huy cuộc bạo động vũ trang ở các tỉnh miền 
						ngược, trong đó có Yên Bái. Ông Nguyễn Khắc Nhu bị 
						thương nặng trong trận đánh ở Hưng Hoá và Lâm Thao, sau 
						khi bị Pháp bắt giam tại đồn Hưng Hoá, ông đă tự tử. 
						
						
						Ông Phó Đức Chính, lănh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng, 
						sinh năm 1910 tại làng Đa Ngưu, tổng Văn Giang (Hưng 
						Yên). Phó Đức Chính là người thứ 12 bước lên 
						máy chém. 
						
						
						Ông Ngô Hải Hoằng (cai Hoằng), gia nhập
						
						
						Việt Nam Quốc dân đảng năm 1928 ở
						
						
						Tuyên Quang. Ông là một hạ sĩ quan trong đội 
						lính khố đỏ của Pháp, đóng quân tại Yên Bái và giữ chức 
						cai đội. Ông là một trong 4 người bị tử h́nh ngày 
						8/5/1930. 
						
						
						Bà Nguyễn Thị Giang, người vừa là đồng chí vừa là vợ của 
						nhà chí sĩ Nguyễn Thái Học, sau khi Nguyễn Thái Học bị 
						xử chém, bà đă tự vẫn theo chồng. 
						
						
						Năm 1930, Pháp đă tổ chức 2 đợt xử chém 17 nhân vật quan 
						trọng của Việt Nam Quốc dân đảng tại khu lính tập (hiện 
						nay là khu vực nhà máy chè Yên Bái). Đợt 1 ngày 8/5/1930 
						có 4 người gồm: Đặng Văn Tiệp, Đặng Văn Lương, Nguyễn 
						Thanh Thuyết, Ngô Hải Hoằng. Đợt 2 vào ngày 17/6/1930 có 
						13 người gồm các ông: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, 
						Bùi Tư Toàn, Bùi Văn Chuân, Đào Văn Nhít, Nguyễn Như 
						Liên, Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Tiềm, Ngô Văn Du, Hà Văn 
						Lao, Đỗ Văn Tư, Nguyễn Văn Cửu, Nguyễn Văn Thịnh. 
						
						
						Sau khi xử tử những nghĩa sĩ, Pháp đă đào hố chôn tập 
						thể trong nghĩa địa và canh gác cẩn mật.  
				 
				
				 | 
			 
			
				
  | 
			 
			
				| 
				HỒ THÁC BÀ | 
			 
			
				
				
					
					 Hồ 
					Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam 
					cách Hà Nội 140 km theo quốc lộ 2 về phía tây. Hồ Thác Bà 
					được h́nh thành khi đập thủy điện Thác Bà hoàn tất năm 1970 
					chặn ḍng sông Chảy. 
					
					
					Hồ Thác Bà có diện tích 23400 ha, trong đó, diện tích mặt 
					nước là 19050 ha, chiều dài 80 km, chiều rộng lớn nhất 30 
					km, mực nước dao động từ 46 m đến 58 m, chứa được 3 đến 3,9 
					tỉ mét khối nước. Ngoài ḍng sông Chảy là nơi cung cấp nước 
					chủ yếu, hồ Thác Bà c̣n có một hệ thống ng̣i lớn như: ng̣i 
					Hành, ng̣i Cát,... đổ về, làm tăng lượng phù sa và các loài 
					sinh vật phong phú cho hồ. Hồ Thác Bà có hơn 1.300 đảo lớn 
					nhỏ tạo nên nhiều hang động và cảnh đẹp sơn thủy hữu t́nh.
					 
					
					
					Nằm trong địa phận hai huyện Yên B́nh và Lục Yên tỉnh Yên 
					Bái, Hồ Thác Bà được ví như “Hạ Long trên núi” với những đảo 
					xanh lớn nhỏ soi bóng dưới mặt nước cùng hệ thống hang động 
					đẹp ẩn sâu trong ḷng những dăy núi đá vôi. Chính sự kỳ bí 
					ấy tạo cho Thác Bà một vẻ đẹp lung linh huyền hoặc nhưng lại 
					rất thân thiện, hữu t́nh.  
					
					
					Đi thuyền trên hồ Thác Bà, du khách không chỉ cảm nhận được 
					bầu không khí mát lành từ nước, từ gió hồ Thác mà c̣n được 
					hoà ḿnh cùng thiên nhiên hào phóng, thả hồn ḿnh vào mênh 
					mông trời nước, điệp trùng núi đảo tưởng chừng như vô tận.
					 
					
					
					Sau vài giờ lênh đênh trên sóng nước, du khách ghé thăm động 
					Thủy Tiên, động Xuân Long, núi Cao Biền, núi Chàng Rể, đền 
					Thác Ông, đền Thác Bà. Hoặc du khách cũng có thể ngược ḍng 
					sông Chảy đến với đất Ngọc Lục Yên thăm hang Chùa Săo, Đền 
					Đại Cại, b́nh nguyên xanh Khai Trung... mang đậm những nét 
					văn hóa của dân tộc Tày, Dao rất đặc sắc. 
					
					
					Trong hệ thống hang động trên hồ Thác Bà, phải kể đến động 
					Thủy Tiên. Nằm sâu trong ḷng núi khoảng 100m, nơi đây lưu 
					truyền sử sách về Vũ Văn Mật - một vị đầu lĩnh thời Lê và 
					trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy Yên Bái đă từng 
					làm việc tại đây. Động Thủy Tiên c̣n gắn với huyền thoại về 
					chín nàng tiên xinh đẹp trốn Ngọc Hoàng xuống vui chơi ở nơi 
					hồng trần. Thăm động và thưởng ngoạn những kiệt tác của tự 
					nhiên với hệ thống nhũ đá đa màu sắc, với hệ thống hang động 
					gắn với truyền thuyết ly kỳ, du khách có cảm giác đang lạc 
					trong thế giới thần tiên như mơ, như thực để trút bỏ tất cả 
					những mệt mỏi, ưu phiền của cuộc sống đời thường. 
					
					
					Với đặc điểm là hồ nhân tạo, kết hợp sử dụng tự nhiên, Hồ 
					Thác Bà là nơi mang trong ḿnh sự kết tinh thành quả của bàn 
					tay và khối óc con người trong quá tŕnh cải biến giang sơn 
					phục vụ cuộc sống con người, vừa mang trong ḿnh những di 
					tích, di chỉ lịch sử khảo cổ. Đồng thời Hồ Thác Bà trở thành 
					một danh thắng đẹp, cải tạo khí hậu sinh thái môi trường, 
					từng bước trở thành vùng tham quan du lịch có giá trị của 
					đất nước.  
					
					
					Hồ Thác Bà được công nhận là di tích lịch sử danh thắng cấp 
					quốc gia theo quyết định số 2410/QĐ-VH ngày 27/9/1996 của Bộ 
					Văn hóa – Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 
					
					,
					  
				
				 | 
			 
			
				
  | 
			 
			
				| 
				
				 
				Vị trí:Đền 
				nằm ở huyện Văn Yên, cách thành phố Yên Bái khoảng 50 km. 
				Đặc điểm:Đền được xây dựng ở nơi có phong cảnh sơn thuỷ hữu t́nh, 
				núi sông hoà hợp nên vừa là di tích, vừa là thắng cảnh đẹp của 
				tỉnh Yên Bái. 
				
				Đền c̣n có 
				tên gọi là đền thờ thần Vệ quốc v́ bên cạnh việc thờ Mẫu Thượng 
				Ngàn, đền c̣n thờ các vị có công với nước chống giặc Nguyên - 
				Mông (thế kỷ 13), đó là một số tướng người dân tộc ở địa phương.  
				 
				 Thời 
				phong kiến, Chư thần Đông Cuông được bốn đời vua phong sắc về 
				công lao bảo vệ đất nước, che chở nhân dân và xă Đông Cuông được 
				đặc cách chuẩn y cho phụng thờ các vị chư thần tại đền. 
				 
				Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đền Đông Cuông chịu nhiều 
				sự tàn phá khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến tranh. Sau nhiều 
				năm tôn tạo, tu bổ, đền Đông Cuông toạ lạc khang trang trên nền 
				cũ. Kiến trúc đền Đông Cuông mang dáng dấp kiến trúc đền chùa 
				thời Lư Trần với mái ngói cong và h́nh lưỡng long chầu nhật. Các 
				cột đền làm bằng gỗ tứ thiết được sơn son thếp vàng h́nh rồng 
				cuốn trang nghiêm. Trên các đầu dư, đầu bẩy, xà ngang, cốn nách, 
				câu đầu... được trạm khắc tỷ mỷ h́nh tứ linh và hoa lá. Các bức 
				trạm khắc tinh vi đạt tŕnh độ cao cả về kỹ thuật phục chế và mỹ 
				thuật.  
				 
				Khuôn viên của đền được mở rộng, cây xanh toả bóng mát sum xuê, 
				điểm xuyết những vạt rừng đào, rừng mận đang mùa hoa nở rộ. Mặt 
				đền quay về hướng Nam, địa thế tựa vào h́nh sông thế núi với 
				cảnh sắc thiên nhiên hữu t́nh đẹp như bức tranh thuỷ mặc. Con 
				đường dốc độc đạo chạy từ phía Đông lên đền uốn ḿnh quanh co 
				mềm như dải lụa vắt ngang lưng chừng núi khiến khung cảnh càng 
				thêm thâm nghiêm, tĩnh mịch.  
				 
				Với tín ngưỡng thờ mẫu và các anh hùng có công với đất nước, đền 
				Đông Cuông mang ư nghĩa giáo dục truyền thông lịch sử, văn hoá 
				sâu sắc. Đây là di tích lịch sử văn hoá lâu đời, điểm du lịch 
				văn hoá, sinh thái lư tưởng dành cho du khách trong chuyến hành 
				hương về nguồn 
				   | 
			 
			
				| 
				  | 
			 
			
				| 
				Đ̀NH LÀNG DỌC - YÊN BÁI | 
			 
			
				
				
					
						 
					
					
					
					
						
							
								
									
										
											
												
													  
												
													  
												
													 Nằm 
													trong vùng chiến khu cách 
													mạng, xă Việt Hồng huyện 
													Trấn Yên (Yên Bái) có nhiều 
													di tích lịch sử được Bộ Văn 
													hoá - Thông tin xếp hạng di 
													tích lịch sử văn hoá như: 
													Đ́nh làng Vần, Nhà ông Trần 
													Đ́nh Khánh, Hang Dơi. Mới 
													đây, Đ́nh làng Dọc - nơi c̣n 
													giữ được những nét văn hoá 
													Kinh - Tày độc đáo đă được 
													xếp hạng di tích lịch sử cấp 
													tỉnh theo quyết định số 41/QĐ/UB 
													ngày 4/2/2005. 
												
  
											 
											
												Làng Dọc có tên cổ là Bản Guộc 
												hay bản Lọc, nghĩa tiếng Tày là 
												bản Rừng rậm. Nơi đây xưa kia 
												mọc nhiều cây dọc, quả được dân 
												bản ép làm dầu thắp sáng. Đ́nh 
												làng Dọc được xây dựng từ đầu 
												thế kỷ 19. Đời vua Khải Định (triều 
												Nguyễn), đ́nh được vua ban sắc 
												phong. Theo lời kể của các bậc 
												cao niên ở đây th́ các đời vua 
												khác cũng có sắc phong cho đ́nh 
												nhưng do chiến tranh loạn lạc 
												nên các sắc phong này đă bị mất, 
												bị giặc đốt cháy nay chỉ c̣n một 
												bản. 
												 
												Đ́nh làng Dọc gồm 5 gian 2 trái, 
												kiến trúc chữ “đinh”. Gian trước 
												được kiến trúc cung thờ, loại 
												kiến trúc tôn giáo. Hiên trái 
												phía đông được chọn làm cửa 
												chính vào đ́nh. Nét đặc dị này 
												do dải đồi nơi xây dựng đ́nh tạo 
												nên và chính điều đó đă góp phần 
												làm nên cảnh trí độc đáo của 
												Đ́nh làng Dọc. Đ́nh nh́n ra suối 
												nước trong xanh có mỏ nước ngầm 
												chảy 4 mùa, tương truyền đó là 
												long mạch của đ́nh và trên mỏ 
												nước là phiến đá lớn nơi c̣n lưu 
												giữ vết chân ngựa của người xưa 
												đến vùng đất này khai khẩn. Sân 
												trước đ́nh hẹp, kề sát vực suối 
												và mỏ nước ngầm. Trái đ́nh kề 
												dải đồi dốc thấp được chọn làm 
												nơi lên xuống, đón khách chiêm 
												bái. Năm 1947, khi giặc Pháp 
												quay lại chiếm khu cách mạng Vần 
												- Dọc, chúng đă xây lại đồn cách 
												đ́nh 500m ở G̣ Dứa, đối diện mặt 
												trước của đ́nh. Chúng đốt phá 
												làng mạc nhưng tuyệt nhiên không 
												dám đụng đến ngôi đ́nh mà vào 
												ngày rằm, mồng 1 hàng tháng bọn 
												lính đánh thuê người Việt c̣n 
												đến cửa đ́nh cúng bái cầu thành 
												Hoàng làng. Thời kỳ này Đ́nh 
												làng Dọc trở thành Đài quan sát 
												lợi hại của lực lượng du kích. 
												Lễ hội Đ́nh làng Dọc được tổ 
												chức 2 kỳ trong năm vào mồng 3 
												mồng 4 tháng giêng âm lịch (gọi 
												là lễ hạ điền) và 13, 14 tháng 7 
												âm lịch (lễ hội cầu Thần Nông). 
												Lễ cúng trong các ngày hội gồm 4 
												mâm cỗ chay và 27 mâm cỗ mặn. 
												Riêng lễ tháng 7 c̣n có thêm 
												thịt trâu hay thịt dê. Lễ hội 
												Đ́nh làng Dọc mang đậm sắc thái 
												của người Kinh và người Tày cổ. 
												Trước đây, do điều kiện kinh tế 
												khó khăn, nhân dân trong vùng 
												dựng đ́nh lá để tổ chức lễ hội 
												hàng năm. 
												 
												Từ năm 1944 ngôi đ́nh được nhân 
												dân đóng góp xây dựng lại khang 
												trang như ngay nay. Với tâm 
												nguyện cầu cho lúa tốt mạ xanh, 
												cầu cho dân an thịnh vượng, nhà 
												nhà ấm no hạnh phúc... Phần lễ 
												đ́nh được tổ chức trang nghiêm, 
												tiết kiệm, không lợi dụng mê tín 
												dị đoan. Bên cạnh đó, phần hội 
												cũng được tổ chức rất đa dạng, 
												phong phú với hội chơi đu, hội 
												c̣n, hội yến, hội hát đối, hội 
												chọi gà... cùng những điệu xoè 
												then duyên dáng của các bà, các 
												chị, của thiếu nữ Tày, Kinh. 
												Ngoài thờ thần linh, thờ thành 
												Hoàng làng, Đ́nh làng Dọc c̣n 
												thờ ông tổ họ Phạm (hai người 
												này được vua Khải Định ban sắc 
												phong) và 6 ḍng họ khác có công 
												khai khẩn ra vùng đất này từ thế 
												kỷ 18.  
												 
												V́ thế lễ hội Đ́nh làng Dọc 
												không chỉ mang đậm mầu sắc tâm 
												linh mà qua đây lưu truyền và 
												bảo tồn được nét đẹp cùng những 
												giá trị đặc sắc của văn hoá 
												truyền thống, khơi dậy tinh thần 
												đoàn kết, thắt chặt t́nh làng 
												nghĩa xóm; đây cũng là dịp để 
												những người đang sống tưởng nhớ 
												đến tổ tiên ông cha đă có công 
												khái khẩn ra mảnh đất này. Gắn 
												với lịch sử thăng trầm của vùng 
												đất phía tây nam tỉnh Yên Bái, 
												được thừa hưởng sự linh thiêng 
												của đời xưa, v́ lẽ đó Đ́nh làng 
												Dọc có ảnh hưởng rất lớn đối với 
												đời sống tinh thần của nhân dân 
												trong vùng. Hội đ́nh đă thu hút 
												được nhân dân các dân tộc Tày, 
												Kinh, Thái, Mường ở 17 mường, 14 
												bản của xă Việt Hồng và xă Đại 
												Lịch huyện Văn Chấn về dự lễ 
												hàng năm. 
												 
												Đ́nh làng Dọc được công nhận xếp 
												hạng di tích lịch sử cấp tỉnh là 
												điều kiện tốt để bảo tồn và phát 
												huy bản sắc văn hoá của các dân 
												tộc trong vùng, đồng thời mở ra 
												hướng phát triển mới, đưa kinh 
												tế Việt Hồng những năm tới phát 
												triển theo hướng: nông lâm 
												nghiệp - dịch vụ gắn với khai 
												thác tốt những tiềm năng du lịch 
												sẵn có, phấn đấu đến năm 2010 
												mức b́nh quân thu nhập đầu người 
												đạt 6 triệu đồng trở lên.   (Nguồn: 
												yenbai.gov.vn) 
										 
									 
								 
							 
						 
					 
				 
				 | 
			 
			
				
  | 
			 
			
				| 
				DI TÍCH ĐỀN ĐẠI CẠI - YÊN BÁI | 
			 
			
				
				
				
					Di tích Đền Đại Cại Yên Bái: Quần thể di 
					tích đền Đại Cại thuộc xă Tân Lĩnh, huyện Lục Yên, cách 
					thành phố Yên Bái khoảng 80km. Quần thể di tích lịch sử này 
					bao gồm đ́nh Bến Lăn, chùa tháp đất nung Hắc Y, đền Đại Cại 
					và thành nhà Bầu bao bọc quanh băi đua ngựa huấn luyện kỵ 
					binh.   
				
					
					 Quần 
					thể này nằm dưới chân núi Vua áo đen, bên hữu là sông Chảy, 
					trước mặt là suối Đại Cại. Những thần được thờ ở đây đều là 
					những người có công khai sơn lập thạch, mở mang chợ búa, lập 
					ra làng bản, phố xá. Đền Đại Cại có từ thời hậu Lê, do nhân 
					dân tổng Lâm Trượng hạ xây dựng để thờ bà Vũ Ngọc Anh, con 
					gái một vị quần thần nhà Lê bị nhà Mạc giết hại. Bà là một 
					danh nhân, chịu trách nhiệm việc đáp luỹ xây thành, lập ra 
					các chợ. Ngoài ra, đền có thờ hai anh em Vũ Văn Mật và Vũ 
					Văn Uyển có công lớn trong việc chống quân nhà Mạc. Đền Đại 
					Cại, đ́nh Bến Lăn có kiến trúc đẹp, có đủ các đồ thờ tự như 
					bát nhang đồng, ngai thờ sơn son thếp vàng, đề có trạm trổ 
					tứ quư làm từ gỗ tứ quư như cḥ chỉ, vàng tâm, lơi thọ, đinh 
					hương. Đặc biệt, những tảng đá kê cột đ́nh, cột đền được 
					chạm trổ h́nh mặt trăng, hoa sen, lá đề, mỗi tảng nặng hơn 
					100 kg. Đền có chiên đồng, chuông đồng, có sắc phong của vua 
					Cảnh Phong và vua Tự Đức. Ngôi đền có kiến trúc đồ sộ, các 
					chân tảng kê cột loại lớn có đường kính tới 45 cm, loại nhỏ 
					32 cm để đỡ các cột nách, cột ḷng. Các chân tảng đều chạm 
					16 cấnh hoa sen đều đặn vây quanh. Tại đây c̣n t́m thấy bệ 
					Phật hoa sen bằng đất nung, bát sứ, lọ sư men ngà rạn trang 
					trí h́nh cánh sen rất đặc trưng của nghệ thuật thời Trần. 
					Ngay dưới chân núi, tại dải thung lũng trải dài song song 
					với sông Chảy vẫn c̣n lưu lại dấu vết của ngôi đền và những 
					bức tường đất của một toà thành bao quanh. Băi đua ngựa 
					luyện tập kỵ binh nằm trong thành ngay trước của đ́nh Bến 
					Lăn.  
					
					Ngày 21/3/1997, 
					bảo tàng tỉnh Yên Bái đă khảo sát khu miếu Hắc Y và đă t́m 
					thấy tháp đất nung cổ. Đây là một phát hiện rất quan trọng 
					v́ ở miền núi cao cũng có một chùa tháp đất nung đồ sộ. Vật 
					liệu xây dựng là những viên gạch đất nung có kích thước 
					450x245x100 mm. Trên tháp có hoạ tiết hoa văn trang trí như 
					lá đề, hoa cúc, hoa sen đều bằng đất nung.  
					
					Đáp ứng tín 
					ngưỡng của nhân dân, trân trọng các di sản văn hoá của cha 
					ông ta để lại, khu di tích đền Đại Cại được bảo tồn và trùng 
					tu. Cho tới nay, hàng năm, khách thập phương từ nhiều nơi 
					trong cả nước tới đây thắp hương cầu phúc, cầu may và chiêm 
					ngưỡng hệ thống di chỉ c̣n lại của văn hoá thời Lư, Trần, Lê 
					đang có ở một tỉnh miền núi phía Bắc.  
					
					Có thể nói, quần 
					thể di tích khảo cổ này rất quan trọng không chỉ của riêng 
					Yên Bái mà quan trọng đối với cả nước. 
					
					
					Nguồn: Sở Du Lịch Tỉnh Yên Bái  
				 | 
			 
			
				
  | 
			 
			 
		 
		 
  |