|
ĐỊA DANH DU LỊCH
YÊN BÁI -
ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH YÊN BÁI |
SUỐI GIÀNG - YÊN BÁI |
Suối
Giàng Yên Bái: Suối Giàng (Văn Chấn - Yên Bái) nằm trên độ
cao 1.371m so với mực nước biển, nằm sâu trên dăy núi Phan
Xi Phăng hùng vĩ thuộc huyện Văn Chấn - Nghĩa Lộ (Yên Bái).
Đây là quê hương của thủy tổ loài chè trên thế giới, của hơn
300 gia đ́nh đồng bào dân tộc Mông
Khí hậu ở đây bốn mùa se lạnh, tựa như Sapa, Đà Lạt. Du
khách chỉ mất khoảng chút ít thời gian thả hồn cùng những
dải lúa cong cong theo vạt núi, từng nương ngô, nương cải
xanh non trong sương bay bảng lảng là thấy ḿnh như đứng
trên mây.
Phóng tầm mắt xuống biển lúa rộng mênh mông vàng óng Mường
Ḷ - vựa lúa lớn thứ hai của Miền Tây Bắc - Việt Nam và thị
xă thanh b́nh cùng nhịp sống của 13 dân tộc anh em. Du khách
có thể lên những cây chè cổ thụ trên trăm tuổi, hái những
búp chè xanh non cùng thiếu nữ Hmông mến khách, hay đi dạo
dưới rừng Pơ mu hoặc phiêu du cùng thác Tập Lang ŕ rầm nước
chảy.
Suối Giàng nổi tiếng với cây chè tuyết, có cây cổ thụ hàng
trăm năm tuổi, đường kính lên tới 100cm. Chè tuyết nơi đây
phát triển tự nhiên trong tiểu vùng khí hậu quanh năm mát mẻ,
chẳng cần phân bón mà vẫn đâm chồi nảy lộc xanh biếc. Lộc
non sao lên, pha nước sôi, hương vị bốc lên thơm ngây ngất,
uống vào thấy đượm vị ngọt lâu, dù là "chè Thái, gái Tuyên"
cũng chẳng sánh bằng. Bởi thế mà khách trong nước hay khách
quốc tế đă từng đến nơi đây, dù giá chè đắt gấp 3-4 lần các
loại chè khác cũng cố t́m mua đôi ba lạng chè tuyết Suối
Giàng về làm quà cho bạn bè, gia đ́nh.
Nhiều gia đ́nh dân tộc Mông ở đây cũng nhờ những gốc chè này
mà làm nên cơ nghiệp, cải thiện sinh hoạt trong cuộc sống.
Họ coi đó là cây chè của đất trời ban tặng cho người Mông,
người Thái và xứ sở này.
Ở Hà Nội, giữa trưa hè nóng bức nhưng chỉ mất 260km đường ô
tô đến với Suối Giàng là khách đến với một vùng trời mây non
nước. Nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Suginô, Giám đốc hăng ảnh
Miraica (Nhật Bản) từng đi nhiều nước trên thế giới, chụp
hàng ngh́n bức ảnh về cây chè và các dân tộc thiểu số, nhưng
khi đến đây cũng phải ngạc nhiên thốt lên: "Rừng chè thiên
nhiên kỳ diệu này có thể là một trong những cái nôi của loài
chè trên thế giới".
Ngành du lịch Yên Bái đă quy hoạch khu du lịch sinh thái
Suối Giàng, xây dựng trở thành khu du lịch với nhiều sản
phẩm hấp dẫn: sinh thái nghỉ dưỡng, t́m hiểu văn hoá bản địa.
Khu du lịch sinh thái Suối Giàng bốn mùa bồng bềnh trong mây,
hấp dẫn du khách bởi khí hậu, vị ngọt của chè tuyết cổ thụ,
của mật ong tinh khiết và tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng đàn
môi cùng lời hát trao t́nh của các chàng trai, cô gái Hmông
réo rắt gọi mời.
|
|
RUỘNG BẬC THANG MÙ CĂNG CHẢI - YÊN BÁI |
Ruộng
Bậc Thang Mù Căng Chải: Ruộng bậc thang tại ba xă La Pán Tẩn,
Chế Cu Nha và Dế Xu Ph́nh huyện Mù Căng Chải, Yên Bái vừa
được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp bằng xếp hạng di
tích quốc gia vào ngày 18-10-2007, một danh thắng có lẽ là
độc đáo vào bậc nhất của đât nước Việt Nam. Mù Căng Chải
cách Hà nội chừng 300km về phía Tây Bắc. Những năm gần đây,
địa danh Mù Căng Chải đă trở nên gần gũi và nổi tiếng hơn
với khách du lịch "bụi" trong và ngoài nước. Các "Tây ba lô"
và các nhà nhiếp ảnh từ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Việt
Kiều từ nước ngoài về nước thường lặn lội lên Yên Bái chỉ để
ngắm ruộng bậc thang, hít thở không khí trong lành, ghi lại
nhữg h́nh ảnh đẹp, hoành tráng. Tháng
10 là tháng đẹp nhất ở Mù Căng Chải và cũng là tháng thu hút
khách du lịch nhiều nhất. Quốc lộ 32 chạy dọc theo những
sườn núi hun hút gió, con suối đỏ ngầu cuộn chảy, chạy qua
nhưng đồi thông và nhưng thửa ruộng bậc thang tầng tầng lớp
lớp, ngút ngàn lên tận lưng chừng trời.Thị trấn Mù Căng Chải
nhỏ xinh nằm gọn giữa hai sườn núi, c̣n khá nghèo. Đến Mù
Căng Chải, du khách đừng quên thưởng thức món gà đồi cũng
như những bát cơm lúa mới nấu từ loại nếp Tú Lệ dẻo thơm.
Tại Mù Cang Chải, những cung ruộng bậc
thang ở các xă La Pá Tẩn, Chế Cu Nhai, Dế Su Ph́nh đă được
xếp hạng danh thắng quốc gia - Ảnh: Đan Hạ
|
|
Khu di tích Nguyễn Thái
Học |
Sơ Lược
Khu
di tích lịch sử Nguyễn Thái Học nằm trong khuôn viên của
công viên Yên Hoà, phường Hồng Hà,
thành phố Yên Bái.
Đặc Điểm
Ban đầu, khu mộ nằm ở khu vực trong cùng của nghĩa trang
thị xă Nghĩa Lộ (trước kia thuộc tổng Bách Lẫm, phủ Trấn
Yên,
tỉnh Yên Bái). Sau năm 1954, địa phương tập
trung tất cả hài cốt của dân công, bộ đội hy sinh trong
cuộc kháng chiến chống Pháp vào khu vực này để xây đài,
bia mộ. Khu di tích Nguyễn Thái Học được khởi công xây
dựng vào dịp kỷ niệm 70 ngày các anh hùng hi sinh
(17/6/2000).
Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái có diện tích khoảng
10.391m2 bao gồm khu lăng mộ, khu tượng đài,
bia tưởng niệm, khu nhà đón khách và khuôn viên cây cảnh.
|
Tượng đài khu
di tích Nguyễn thái Học. Ảnh: yenbaigov. |
Phần chính của khu di tích là khu mộ có diện tích 300m2
bao quanh là 17 cột trụ, mỗi cột có chiều cao 5m. Các
cột trụ được nối bằng một ṿng tṛn khuyết tượng trưng
cho 17 liệt sỹ bị thực dân Pháp xử chém trong cuộc khởi
nghĩa Yên Bái.
Khu mộ có 2 ngôi mộ được xây bằng gạch ốp lát, nhà bia
tưởng niệm được làm từ đá cẩm thạch khắc tên 17 liệt sỹ,
phủ nhũ vàng. Mái nhà bia được gắn ngói mũi hài trên bê
tông nghiêng. Phần tượng đài có diện tích chính là 56m2
gồm 5 nhân vật: Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó
Đức Chính, Nguyễn Thị Giang và Ngô Hải Hoàng. Nhóm tượng
đài có chiều cao khoảng 6m với chất liệu bê tông phủ kẽm.
Di tích khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sĩ trong
cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 nằm trong khuôn viên
công viên Yên Hoà (rộng 30 ha), bên cạnh đại lộ Nguyễn
Thái Học.
Du khách có thể đi đến khu di tích bằng 3 loại h́nh giao
thông là đường bộ, đường sắt và đường thuỷ.
Ngày 5/3/1990, khu di tích Nguyễn Thái Học được Bộ văn
hoá đă công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia theo
quyết định số 177 VH/QĐ.
Lịch Sử
5 nhân vật của tượng đài gồm:
Lănh tụ Việt Nam Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học, sinh năm
1903 tại làng Thổ Tang, Phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Yên). Ông
là người thứ 17 bước lên máy chém của Pháp.
Ông Nguyễn Khắc Nhu (cụ xứ Nhu), sinh năm 1882, người
làng Song Khê, tổng Yên Dũng (Bắc
Giang). Tuy không có tên trong những người bị
hành quyết tại Yên Bái nhưng ông Nguyễn Khắc Nhu có vai
tṛ quan trọng trong Việt Nam Quốc dân đảng, ông là
người chỉ huy cuộc bạo động vũ trang ở các tỉnh miền
ngược, trong đó có Yên Bái. Ông Nguyễn Khắc Nhu bị
thương nặng trong trận đánh ở Hưng Hoá và Lâm Thao, sau
khi bị Pháp bắt giam tại đồn Hưng Hoá, ông đă tự tử.
Ông Phó Đức Chính, lănh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng,
sinh năm 1910 tại làng Đa Ngưu, tổng Văn Giang (Hưng
Yên). Phó Đức Chính là người thứ 12 bước lên
máy chém.
Ông Ngô Hải Hoằng (cai Hoằng), gia nhập
Việt Nam Quốc dân đảng năm 1928 ở
Tuyên Quang. Ông là một hạ sĩ quan trong đội
lính khố đỏ của Pháp, đóng quân tại Yên Bái và giữ chức
cai đội. Ông là một trong 4 người bị tử h́nh ngày
8/5/1930.
Bà Nguyễn Thị Giang, người vừa là đồng chí vừa là vợ của
nhà chí sĩ Nguyễn Thái Học, sau khi Nguyễn Thái Học bị
xử chém, bà đă tự vẫn theo chồng.
Năm 1930, Pháp đă tổ chức 2 đợt xử chém 17 nhân vật quan
trọng của Việt Nam Quốc dân đảng tại khu lính tập (hiện
nay là khu vực nhà máy chè Yên Bái). Đợt 1 ngày 8/5/1930
có 4 người gồm: Đặng Văn Tiệp, Đặng Văn Lương, Nguyễn
Thanh Thuyết, Ngô Hải Hoằng. Đợt 2 vào ngày 17/6/1930 có
13 người gồm các ông: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính,
Bùi Tư Toàn, Bùi Văn Chuân, Đào Văn Nhít, Nguyễn Như
Liên, Nguyễn Văn An, Nguyễn Văn Tiềm, Ngô Văn Du, Hà Văn
Lao, Đỗ Văn Tư, Nguyễn Văn Cửu, Nguyễn Văn Thịnh.
Sau khi xử tử những nghĩa sĩ, Pháp đă đào hố chôn tập
thể trong nghĩa địa và canh gác cẩn mật.
|
|
HỒ THÁC BÀ |
Hồ
Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam
cách Hà Nội 140 km theo quốc lộ 2 về phía tây. Hồ Thác Bà
được h́nh thành khi đập thủy điện Thác Bà hoàn tất năm 1970
chặn ḍng sông Chảy.
Hồ Thác Bà có diện tích 23400 ha, trong đó, diện tích mặt
nước là 19050 ha, chiều dài 80 km, chiều rộng lớn nhất 30
km, mực nước dao động từ 46 m đến 58 m, chứa được 3 đến 3,9
tỉ mét khối nước. Ngoài ḍng sông Chảy là nơi cung cấp nước
chủ yếu, hồ Thác Bà c̣n có một hệ thống ng̣i lớn như: ng̣i
Hành, ng̣i Cát,... đổ về, làm tăng lượng phù sa và các loài
sinh vật phong phú cho hồ. Hồ Thác Bà có hơn 1.300 đảo lớn
nhỏ tạo nên nhiều hang động và cảnh đẹp sơn thủy hữu t́nh.
Nằm trong địa phận hai huyện Yên B́nh và Lục Yên tỉnh Yên
Bái, Hồ Thác Bà được ví như “Hạ Long trên núi” với những đảo
xanh lớn nhỏ soi bóng dưới mặt nước cùng hệ thống hang động
đẹp ẩn sâu trong ḷng những dăy núi đá vôi. Chính sự kỳ bí
ấy tạo cho Thác Bà một vẻ đẹp lung linh huyền hoặc nhưng lại
rất thân thiện, hữu t́nh.
Đi thuyền trên hồ Thác Bà, du khách không chỉ cảm nhận được
bầu không khí mát lành từ nước, từ gió hồ Thác mà c̣n được
hoà ḿnh cùng thiên nhiên hào phóng, thả hồn ḿnh vào mênh
mông trời nước, điệp trùng núi đảo tưởng chừng như vô tận.
Sau vài giờ lênh đênh trên sóng nước, du khách ghé thăm động
Thủy Tiên, động Xuân Long, núi Cao Biền, núi Chàng Rể, đền
Thác Ông, đền Thác Bà. Hoặc du khách cũng có thể ngược ḍng
sông Chảy đến với đất Ngọc Lục Yên thăm hang Chùa Săo, Đền
Đại Cại, b́nh nguyên xanh Khai Trung... mang đậm những nét
văn hóa của dân tộc Tày, Dao rất đặc sắc.
Trong hệ thống hang động trên hồ Thác Bà, phải kể đến động
Thủy Tiên. Nằm sâu trong ḷng núi khoảng 100m, nơi đây lưu
truyền sử sách về Vũ Văn Mật - một vị đầu lĩnh thời Lê và
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy Yên Bái đă từng
làm việc tại đây. Động Thủy Tiên c̣n gắn với huyền thoại về
chín nàng tiên xinh đẹp trốn Ngọc Hoàng xuống vui chơi ở nơi
hồng trần. Thăm động và thưởng ngoạn những kiệt tác của tự
nhiên với hệ thống nhũ đá đa màu sắc, với hệ thống hang động
gắn với truyền thuyết ly kỳ, du khách có cảm giác đang lạc
trong thế giới thần tiên như mơ, như thực để trút bỏ tất cả
những mệt mỏi, ưu phiền của cuộc sống đời thường.
Với đặc điểm là hồ nhân tạo, kết hợp sử dụng tự nhiên, Hồ
Thác Bà là nơi mang trong ḿnh sự kết tinh thành quả của bàn
tay và khối óc con người trong quá tŕnh cải biến giang sơn
phục vụ cuộc sống con người, vừa mang trong ḿnh những di
tích, di chỉ lịch sử khảo cổ. Đồng thời Hồ Thác Bà trở thành
một danh thắng đẹp, cải tạo khí hậu sinh thái môi trường,
từng bước trở thành vùng tham quan du lịch có giá trị của
đất nước.
Hồ Thác Bà được công nhận là di tích lịch sử danh thắng cấp
quốc gia theo quyết định số 2410/QĐ-VH ngày 27/9/1996 của Bộ
Văn hóa – Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
,
|
|
Vị trí:Đền
nằm ở huyện Văn Yên, cách thành phố Yên Bái khoảng 50 km.
Đặc điểm:Đền được xây dựng ở nơi có phong cảnh sơn thuỷ hữu t́nh,
núi sông hoà hợp nên vừa là di tích, vừa là thắng cảnh đẹp của
tỉnh Yên Bái.
Đền c̣n có
tên gọi là đền thờ thần Vệ quốc v́ bên cạnh việc thờ Mẫu Thượng
Ngàn, đền c̣n thờ các vị có công với nước chống giặc Nguyên -
Mông (thế kỷ 13), đó là một số tướng người dân tộc ở địa phương.
Thời
phong kiến, Chư thần Đông Cuông được bốn đời vua phong sắc về
công lao bảo vệ đất nước, che chở nhân dân và xă Đông Cuông được
đặc cách chuẩn y cho phụng thờ các vị chư thần tại đền.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đền Đông Cuông chịu nhiều
sự tàn phá khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến tranh. Sau nhiều
năm tôn tạo, tu bổ, đền Đông Cuông toạ lạc khang trang trên nền
cũ. Kiến trúc đền Đông Cuông mang dáng dấp kiến trúc đền chùa
thời Lư Trần với mái ngói cong và h́nh lưỡng long chầu nhật. Các
cột đền làm bằng gỗ tứ thiết được sơn son thếp vàng h́nh rồng
cuốn trang nghiêm. Trên các đầu dư, đầu bẩy, xà ngang, cốn nách,
câu đầu... được trạm khắc tỷ mỷ h́nh tứ linh và hoa lá. Các bức
trạm khắc tinh vi đạt tŕnh độ cao cả về kỹ thuật phục chế và mỹ
thuật.
Khuôn viên của đền được mở rộng, cây xanh toả bóng mát sum xuê,
điểm xuyết những vạt rừng đào, rừng mận đang mùa hoa nở rộ. Mặt
đền quay về hướng Nam, địa thế tựa vào h́nh sông thế núi với
cảnh sắc thiên nhiên hữu t́nh đẹp như bức tranh thuỷ mặc. Con
đường dốc độc đạo chạy từ phía Đông lên đền uốn ḿnh quanh co
mềm như dải lụa vắt ngang lưng chừng núi khiến khung cảnh càng
thêm thâm nghiêm, tĩnh mịch.
Với tín ngưỡng thờ mẫu và các anh hùng có công với đất nước, đền
Đông Cuông mang ư nghĩa giáo dục truyền thông lịch sử, văn hoá
sâu sắc. Đây là di tích lịch sử văn hoá lâu đời, điểm du lịch
văn hoá, sinh thái lư tưởng dành cho du khách trong chuyến hành
hương về nguồn
|
|
Đ̀NH LÀNG DỌC - YÊN BÁI |
Nằm
trong vùng chiến khu cách
mạng, xă Việt Hồng huyện
Trấn Yên (Yên Bái) có nhiều
di tích lịch sử được Bộ Văn
hoá - Thông tin xếp hạng di
tích lịch sử văn hoá như:
Đ́nh làng Vần, Nhà ông Trần
Đ́nh Khánh, Hang Dơi. Mới
đây, Đ́nh làng Dọc - nơi c̣n
giữ được những nét văn hoá
Kinh - Tày độc đáo đă được
xếp hạng di tích lịch sử cấp
tỉnh theo quyết định số 41/QĐ/UB
ngày 4/2/2005.
Làng Dọc có tên cổ là Bản Guộc
hay bản Lọc, nghĩa tiếng Tày là
bản Rừng rậm. Nơi đây xưa kia
mọc nhiều cây dọc, quả được dân
bản ép làm dầu thắp sáng. Đ́nh
làng Dọc được xây dựng từ đầu
thế kỷ 19. Đời vua Khải Định (triều
Nguyễn), đ́nh được vua ban sắc
phong. Theo lời kể của các bậc
cao niên ở đây th́ các đời vua
khác cũng có sắc phong cho đ́nh
nhưng do chiến tranh loạn lạc
nên các sắc phong này đă bị mất,
bị giặc đốt cháy nay chỉ c̣n một
bản.
Đ́nh làng Dọc gồm 5 gian 2 trái,
kiến trúc chữ “đinh”. Gian trước
được kiến trúc cung thờ, loại
kiến trúc tôn giáo. Hiên trái
phía đông được chọn làm cửa
chính vào đ́nh. Nét đặc dị này
do dải đồi nơi xây dựng đ́nh tạo
nên và chính điều đó đă góp phần
làm nên cảnh trí độc đáo của
Đ́nh làng Dọc. Đ́nh nh́n ra suối
nước trong xanh có mỏ nước ngầm
chảy 4 mùa, tương truyền đó là
long mạch của đ́nh và trên mỏ
nước là phiến đá lớn nơi c̣n lưu
giữ vết chân ngựa của người xưa
đến vùng đất này khai khẩn. Sân
trước đ́nh hẹp, kề sát vực suối
và mỏ nước ngầm. Trái đ́nh kề
dải đồi dốc thấp được chọn làm
nơi lên xuống, đón khách chiêm
bái. Năm 1947, khi giặc Pháp
quay lại chiếm khu cách mạng Vần
- Dọc, chúng đă xây lại đồn cách
đ́nh 500m ở G̣ Dứa, đối diện mặt
trước của đ́nh. Chúng đốt phá
làng mạc nhưng tuyệt nhiên không
dám đụng đến ngôi đ́nh mà vào
ngày rằm, mồng 1 hàng tháng bọn
lính đánh thuê người Việt c̣n
đến cửa đ́nh cúng bái cầu thành
Hoàng làng. Thời kỳ này Đ́nh
làng Dọc trở thành Đài quan sát
lợi hại của lực lượng du kích.
Lễ hội Đ́nh làng Dọc được tổ
chức 2 kỳ trong năm vào mồng 3
mồng 4 tháng giêng âm lịch (gọi
là lễ hạ điền) và 13, 14 tháng 7
âm lịch (lễ hội cầu Thần Nông).
Lễ cúng trong các ngày hội gồm 4
mâm cỗ chay và 27 mâm cỗ mặn.
Riêng lễ tháng 7 c̣n có thêm
thịt trâu hay thịt dê. Lễ hội
Đ́nh làng Dọc mang đậm sắc thái
của người Kinh và người Tày cổ.
Trước đây, do điều kiện kinh tế
khó khăn, nhân dân trong vùng
dựng đ́nh lá để tổ chức lễ hội
hàng năm.
Từ năm 1944 ngôi đ́nh được nhân
dân đóng góp xây dựng lại khang
trang như ngay nay. Với tâm
nguyện cầu cho lúa tốt mạ xanh,
cầu cho dân an thịnh vượng, nhà
nhà ấm no hạnh phúc... Phần lễ
đ́nh được tổ chức trang nghiêm,
tiết kiệm, không lợi dụng mê tín
dị đoan. Bên cạnh đó, phần hội
cũng được tổ chức rất đa dạng,
phong phú với hội chơi đu, hội
c̣n, hội yến, hội hát đối, hội
chọi gà... cùng những điệu xoè
then duyên dáng của các bà, các
chị, của thiếu nữ Tày, Kinh.
Ngoài thờ thần linh, thờ thành
Hoàng làng, Đ́nh làng Dọc c̣n
thờ ông tổ họ Phạm (hai người
này được vua Khải Định ban sắc
phong) và 6 ḍng họ khác có công
khai khẩn ra vùng đất này từ thế
kỷ 18.
V́ thế lễ hội Đ́nh làng Dọc
không chỉ mang đậm mầu sắc tâm
linh mà qua đây lưu truyền và
bảo tồn được nét đẹp cùng những
giá trị đặc sắc của văn hoá
truyền thống, khơi dậy tinh thần
đoàn kết, thắt chặt t́nh làng
nghĩa xóm; đây cũng là dịp để
những người đang sống tưởng nhớ
đến tổ tiên ông cha đă có công
khái khẩn ra mảnh đất này. Gắn
với lịch sử thăng trầm của vùng
đất phía tây nam tỉnh Yên Bái,
được thừa hưởng sự linh thiêng
của đời xưa, v́ lẽ đó Đ́nh làng
Dọc có ảnh hưởng rất lớn đối với
đời sống tinh thần của nhân dân
trong vùng. Hội đ́nh đă thu hút
được nhân dân các dân tộc Tày,
Kinh, Thái, Mường ở 17 mường, 14
bản của xă Việt Hồng và xă Đại
Lịch huyện Văn Chấn về dự lễ
hàng năm.
Đ́nh làng Dọc được công nhận xếp
hạng di tích lịch sử cấp tỉnh là
điều kiện tốt để bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hoá của các dân
tộc trong vùng, đồng thời mở ra
hướng phát triển mới, đưa kinh
tế Việt Hồng những năm tới phát
triển theo hướng: nông lâm
nghiệp - dịch vụ gắn với khai
thác tốt những tiềm năng du lịch
sẵn có, phấn đấu đến năm 2010
mức b́nh quân thu nhập đầu người
đạt 6 triệu đồng trở lên. (Nguồn:
yenbai.gov.vn)
|
|
DI TÍCH ĐỀN ĐẠI CẠI - YÊN BÁI |
Di tích Đền Đại Cại Yên Bái: Quần thể di
tích đền Đại Cại thuộc xă Tân Lĩnh, huyện Lục Yên, cách
thành phố Yên Bái khoảng 80km. Quần thể di tích lịch sử này
bao gồm đ́nh Bến Lăn, chùa tháp đất nung Hắc Y, đền Đại Cại
và thành nhà Bầu bao bọc quanh băi đua ngựa huấn luyện kỵ
binh.
Quần
thể này nằm dưới chân núi Vua áo đen, bên hữu là sông Chảy,
trước mặt là suối Đại Cại. Những thần được thờ ở đây đều là
những người có công khai sơn lập thạch, mở mang chợ búa, lập
ra làng bản, phố xá. Đền Đại Cại có từ thời hậu Lê, do nhân
dân tổng Lâm Trượng hạ xây dựng để thờ bà Vũ Ngọc Anh, con
gái một vị quần thần nhà Lê bị nhà Mạc giết hại. Bà là một
danh nhân, chịu trách nhiệm việc đáp luỹ xây thành, lập ra
các chợ. Ngoài ra, đền có thờ hai anh em Vũ Văn Mật và Vũ
Văn Uyển có công lớn trong việc chống quân nhà Mạc. Đền Đại
Cại, đ́nh Bến Lăn có kiến trúc đẹp, có đủ các đồ thờ tự như
bát nhang đồng, ngai thờ sơn son thếp vàng, đề có trạm trổ
tứ quư làm từ gỗ tứ quư như cḥ chỉ, vàng tâm, lơi thọ, đinh
hương. Đặc biệt, những tảng đá kê cột đ́nh, cột đền được
chạm trổ h́nh mặt trăng, hoa sen, lá đề, mỗi tảng nặng hơn
100 kg. Đền có chiên đồng, chuông đồng, có sắc phong của vua
Cảnh Phong và vua Tự Đức. Ngôi đền có kiến trúc đồ sộ, các
chân tảng kê cột loại lớn có đường kính tới 45 cm, loại nhỏ
32 cm để đỡ các cột nách, cột ḷng. Các chân tảng đều chạm
16 cấnh hoa sen đều đặn vây quanh. Tại đây c̣n t́m thấy bệ
Phật hoa sen bằng đất nung, bát sứ, lọ sư men ngà rạn trang
trí h́nh cánh sen rất đặc trưng của nghệ thuật thời Trần.
Ngay dưới chân núi, tại dải thung lũng trải dài song song
với sông Chảy vẫn c̣n lưu lại dấu vết của ngôi đền và những
bức tường đất của một toà thành bao quanh. Băi đua ngựa
luyện tập kỵ binh nằm trong thành ngay trước của đ́nh Bến
Lăn.
Ngày 21/3/1997,
bảo tàng tỉnh Yên Bái đă khảo sát khu miếu Hắc Y và đă t́m
thấy tháp đất nung cổ. Đây là một phát hiện rất quan trọng
v́ ở miền núi cao cũng có một chùa tháp đất nung đồ sộ. Vật
liệu xây dựng là những viên gạch đất nung có kích thước
450x245x100 mm. Trên tháp có hoạ tiết hoa văn trang trí như
lá đề, hoa cúc, hoa sen đều bằng đất nung.
Đáp ứng tín
ngưỡng của nhân dân, trân trọng các di sản văn hoá của cha
ông ta để lại, khu di tích đền Đại Cại được bảo tồn và trùng
tu. Cho tới nay, hàng năm, khách thập phương từ nhiều nơi
trong cả nước tới đây thắp hương cầu phúc, cầu may và chiêm
ngưỡng hệ thống di chỉ c̣n lại của văn hoá thời Lư, Trần, Lê
đang có ở một tỉnh miền núi phía Bắc.
Có thể nói, quần
thể di tích khảo cổ này rất quan trọng không chỉ của riêng
Yên Bái mà quan trọng đối với cả nước.
Nguồn: Sở Du Lịch Tỉnh Yên Bái
|
|
|