|
B́nh Dương Một Ngày Tao Ngộ
VƠ KỲ ĐIỀN
Buổi sáng Chủ Nhật đầu năm Dương Lịch 1979,
tôi ngồi tiếp chuyện với Bà Hai ở pḥng khách. Từ Búng lên B́nh Dương,
bà nôn nả cho hay một tin vui. Đó là cô Hà, con gái út của bà, vượt biên
thành công qua bức điện tín đánh về từ một phương trời xa. Bà vui mừng
nét mặt rạng rỡ. Cầm miếng giấy nhỏ màu xanh lợt trong bàn tay run run,
bà nói th́ thầm bên tai tôi như sợ người ngoài nghe được.
- Mày coi nè, cái con nhỏ thiệt không ư tứ.
Chiều hôm qua nhận được giây thép xé ra đọc rồi tao muốn nghẹt thở xỉu
luôn. Ổng nghe ồn ào chạy ra coi lại th́ nói là nó tới Mă Lai b́nh an.
Thiệt hú vía! Mày biết tại sao không? Nó hà tiện viết hai chữ "b́nh an"
dính lại làm một. Tao ba chớp ba nhoáng đọc lộn là “bị nạn”... Mấy tuần
nay tao với ổng trông đứng trông ngồi. Có tin run quá, quáng mắt đọc
không ra chữ.
Nói liền một hơi, rồi ngồi thở một hồi, bà
chắc lưỡi tiếc cho tôi:
- Phải chi hồi đó mày tính được, đi cùng một
chuyến với nó là xong rồi!
Tôi mừng cho cô Ha thành công tới nơi an toàn,
trong bụng cũng thấy tiêng tiếc phải chi liều gan một chút đi đại th́
bây giờ khỏe rồi. Cô Hà, dạy chung một trường với vợ chồng tôi, bị cho
nghỉ việc một lượt v́ cái tội lúc trước làm hiệu trưởng một trường quận.
Cô hiệu trưởng c̣n trẻ măng chưa chồng. Có một anh bạn đồng nghiệp thầm
thương trộm nhớ mà không dám nói ra. Trước khi đi cô tâm sự từ giă,
trách cứ cái anh chàng Thạch cù lần - đàn ông con trai ǵ mà nhát như
thỏ đế!
- Ờ, ờ, anh Thạch e ngại bị cô từ chối, ở
tỉnh nhỏ người ta nói ra nói vô khó ḷng.
“Xưa kia anh ở cùng làng.
Bởi anh chậm bước nên nàng đi xa”.
Bây giờ nhớ tới vụ vượt biên thấy câu nói đó
đúng quá với tôi. Cô Hà đă thoát được c̣n tôi tới chừng nào? Đàn bà con
gái người ta chân yếu tay mềm c̣n dám liều mạng như vậy trong khi ḿnh
thân dài vai rộng mà cứ do dự lừng khừng th́ bao giờ mới tính chuyện lớn
được. Dầu sao th́ cô ấy một thân một ḿnh cũng dễ tính. C̣n tôi th́ vợ
con đùm đùm đề đề, thằng Tâm Bi mới có mười tháng, vượt qua bao sóng
gió, rủi có bề ǵ th́ sao? Nhiều đêm trằn trọc nghĩ tới nghĩ lui, bàn
với Duyên:
- Vợ chồng ḿnh khó mà sống yên thân. Cái thế
bắt buộc phải ra đi, nhưng hoàn cảnh bề bộn của ḿnh, anh tính không ra.
Duyên khuyến khích tôi nhưng vẻ mặt buồn
buồn:
- Hay là anh đi trước, mẹ con em ở lai tính
sau!
Làm sao mà tôi chịu như Vậy. Tôi và nàng mới
cưới nhau, vừa có được thằng con trai nhỏ. Cuộc đời bây giờ đầy bất
trắc, quê hương đất nước kể như tiêu tan, cái t́nh yêu gia đ́nh chỉ c̣n
lại chút xíu, làm sao dám liều lĩnh phiêu lưu, thành ra cứ hẹn lần hẹn
lượt, măi cho tới hôm nay tôi vẫn c̣n ngồi thừ trên ghế. Bà Hai trước
khi ra về c̣n dặn ḍ:
- Mầy tính th́ tính lẹ đi, người ta lấy ghe
lấy tàu đi từ từ hết, đến lúc muốn đi th́ không c̣n chiếc nào, khi đó
làm sao xoay trở?
Tôi gật đầu nói nhỏ:
- Ngày nào xuống Búng thăm hai bác th́ ngày
đó con từ giă... Con cũng muốn quyết định dứt khoát nhưng có cái ǵ níu
kéo lại. Phải rời bỏ cái tỉnh B́nh Dương này, buồn lắm bác Hai ơi!
Tôi dẫn cái xe đạp ra ngoài, cái xe có gắn
thêm cái yên nhỏ để thằng Bi ngồi đằng trước. Nó c̣n nhỏ quá nên phải
ràng buộc cẩn thận. Trên đầu tôi đội nón kết đỏ bầm, thứ nón của lính
nhảy dù, c̣n Bi th́ đội nón vải trắng có h́nh mỏ neo kiểu lính thủy có
quai để khỏi rớt. Tôi muốn chở con đi một ṿng thành phố để nh́n cho
hết, cho kỹ cái nơi mà tôi đă sống gần nửa đời người. Nơi đó có buồn có
vui, có những h́nh ảnh thân yêu, có những kỷ niệm thời thơ ấu. Như có
một sợi dây vô h́nh ràng buộc, nơi trái tim tôi như thắt lại khi phải
quyết định xa quê. Trưa đó trời nắng gắt, hai dăy phố chợ như bị bỏ vôi
mà hấp, hơi nóng bốc lên hừng hực từ các mái ngói, mái tole, mặt nhựa
đen mốc, những lề đường xi-măng khô cứng. Trước nhà bây giờ là giang sơn
của mấy bà bán gạo lậu. Họ ngồi đông nghẹt chen lấn nhau, trước mặt là
những thúng gạo tràng đầy vung, các đống khoai đỏ, vàng đổ ngổn ngang
như đá vụn.
Rải rác đâu đó gióng gánh vương văi. Có vài
cán bộ áo trắng, bộ đội áo kaki màu cứt ngựa xanh đùng đục, mang dép
râu. Có người dắt xe đạp treo ṭn ten bó rau xanh dờn đi chen lấn các bà
nội trợ áo bà ba đen, nón lá. Tự dưng, nơi này trở thành cái chợ trời
ngang xương. Ban đầu có vài ba người đàn bà lạ mặt ngồi bán các thứ
khoai đậu gạo nếp. Họ bày trên lối đi trước nhà. Chợ th́ ở tuốt đằng
kia, sát cạnh bờ sông. Từ ngày mấy ông bỏ rừng về thành phố, toàn dân
miền Nam thất nghiệp. Vợ con công chức, quân nhân chế độ cũ, chồng cha
bị đi đày ở một nơi khỉ ho c̣ gáy nào đó, ở nhà túng quẫn phải bương
chải tảo tần kiếm kế sinh nhai, hầu sống qua ngày. Họ trở thành bạn hàng
buôn thúng bán bưng bất đắc dĩ. Đằng kia là chợ, mà đằng này là cái hành
lang lát gạch bông bằng phẳng của dăy phố nhà tôi.
Phía bên kia là công viên nắng cháy xác xơ,
hồ nước cạn khô đáy đầy đất đá, băi cỏ loang lỗ úa vàng v́ không người
chăm sóc, chỉ c̣n trơ lại một cây khuynh diệp cằn cỗi lưa thưa đứng dưới
bóng cây, nh́n trở lại bên nhà, nói cho Bi nghe mặc dầu biết nó không
hiểu:
- Con nhớ nghe, cái nhà này là nhà của Nội.
Cả đời ông nội làm việc cực nhọc vất vả lắm mới tạo dựng được. Ba được
nuôi nấng lớn lên ở đây, con cũng vậy. Hồi nhỏ ba ưa đi chơi bị
ông nội lấy dây nhợ cột chân vô cái cửa sắt.
Mỗi khi gần Tết, ba với chú Sáu, chú Bảy con phải lau chùi hết mấy cái
cửa đó. Cực lắm mà vui. Mấy chậu sứ Thái Lan đầy bông đỏ để trên lầu mua
ở vườn ươm cây bên Thủ Đức, đem về chiết ra từng chậu nhỏ, phải chăm sóc
liên tục trong mấy năm mới được xum xuê như con thấy...
Nghe tôi th́ thầm, thằng nhỏ có biết ǵ đâu,
u ơ mấy tiếng trong miệng nhỏ xíu. Tôi nh́n cái bảng hiệu tiệm của ba
tôi. Những chữ bằng cây to dầy sơn trắng được cưa đục khéo léo đặt trên
nền nâu đậm vẫn c̣n sáng sủa nổi bật như ngày đầu tiên thợ hồ đến gắn
vào tường. Lúc đó tôi mới lớn, ba tôi muốn có một cái bảng hiệu coi
được. Cái bảng cũ trông thô sơ quê mùa. Tôi phải bỏ ra một thời gian đi
trên các đường phố lớn ở Sài G̣n để ăn cắp kiểu. Rốt cuộc chọn kiểu này.
Tôi đă đặt ông thợ mộc già người Bắc, điếc tai ở cầu B́nh Lợi làm. Nói
hoài ông không hiểu, ra dấu đến mỏi tay, cuối cùng phải dẫn ông đến cái
tiệm có bảng hiệu đẹp đẽ kia, rồi xin phép chủ nhà đo lấy kiểu mẫu. Mỗi
năm gần Tết, tôi phải bắc thang leo lên, lấy vải thấm nước lau cho sạch
từng chữ cái. Hiệu tiệm và tên ba tôi rất dài phải lau cả buổi mới xong.
Bây giờ, làm sao c̣n được cái công tác cực nhọc mà sung sướng đó nữa
rồi!
Cha con tôi lần ra bờ sông theo đương Bạch
Đằng nhỏ hẹp có cái cầu tàu mục nát cạnh chợ cá, những hàng dương già
gốc nổi u sần sùi thân ngả nghiêng. Gió từ sông thổi lên nhè nhẹ, mang
theo mùi tanh tanh của sông nước. Ánh nắng chói chang lấp lánh trên làn
sóng bạc phản chiếu như hàng trăm ngàn chiếc gương nhỏ lăn tăn. Từng de
lục b́nh xanh xanh trôi rập rềnh không biết về đâu. Cuộc đời cha con tôi
bây giờ sắp sửa trôi giạt như đám lục b́nh này. Trưa nay đứng bên ḍng
sông chảy ngang qua chợ, trời nóng hừng hực, cảnh vật lờ đờ lặng thinh
không thơ mộng chút nào, vậy mà tôi đâm nhớ cái câu ca dao thời c̣n thơ
ấu, nghe má đưa em trên vơng:
Ra đi là sự đánh liều
Mưa mai nào biết nắng chiều nào hay
Cái câu này hơi kỳ lạ. Tôi nghĩ quẩn nghĩ
quanh. Những h́nh ảnh vụn vặt, chắp nối. Không hiểu tại sao tôi cứ nghĩ
đây là câu hát kể lể tâm sự của một cô thôn nữ nào đó v́ tiếng gọi của
yêu đương mà dứt khoát ra đi lấy chồng. Theo chồng hay theo trai? Điều
đó đâu có ǵ quan trọng, cái quan trọng là họ yêu nhau. Đă yêu nhau rồi
th́ tương lai có ra sao cũng mặc kệ. Buổi sớm, buổi chiều, nắng cháy hay
mưa dầm, làm sao biết trước? Giữa t́nh yêu nồng nhiệt cuống quít và cuộc
sống lạnh lẽo buồn tênh, phải chọn một. Cô đă chọn cái tâm trạng lo
lắng, sợ sệt, bồng bềnh. Tôi cũng y như cô ta, nhưng cái t́nh của tôi có
khác đôi chút. Phải rồi, khác một chút ở cái chỗ cô tự nguyện ra đi. C̣n
tôi ở cái thế bắt buộc phải xa ĺa. Tôi cúi đầu nh́n xuống thằng Bi rồi
chỉ cho nó cái cầu tàu bằng cây cũ kỹ đă hư mục, một phần c̣n gác trên
bờ hàng xiêu vẹo, một phần ch́m sâu dưới nước.
- Con ơi, hồi nhỏ, tám, chín tuổi, ba b́ bà
b́ bơm lặn hụp tập lội ở tại cầu tàu, chỗ gần cây dương cụt đầu này sâu
lắm, có lần hụt chân tưởng bị chết đuối. Năm mười hai, mười ba tuổi, ba
đi chặt trúc làm cần, cuốn căm xe đạp làm lưỡi câu lươn, không mang dép
guốc nên da chân bị nứt nẻ, đất śnh bùn dơ dáy ăn lở loét, phải nhờ bà
nội lấy bă trầu đắp cho mới hết.
Để trả lời, thằng nhỏ chép miệng ư ư... bàn
tay mũm mĩm như củ khoai ḿ quơ quơ muốn chụp lấy vật ǵ trước mặt.
Tôi nh́n lên phía bên kia đường, ty Bưu Điện
cũ kỹ già nua được xây cất từ hồi Pháp thuộc, mái ngói đen mốc đầy rong
rêu, tường vôi loang lỗ chỗ vàng chỗ xám, cạnh tường dây leo mọc chằng
chịt đứng trơ trọi hai bên bờ sông như một ông kư về già lẻ loi buồn
thảm, kéo lê cuộc đời quạnh hiu. Tôi c̣n nhớ rất rơ, lần đầu tiên được
sai đi bỏ thơ, ở nhà dặn ḍ kỹ lưỡng mua con c̣ mười lăm cắc để dán lên
bao. Tôi đến nơi rụt rè hỏi mua tới mười lăm con. Mừng rơn, nghĩ rằng
bữa nay nhà nước bán rẻ, sướng quá le cái lưỡi thật dài
thấm nước miếng dán một con vô bao, cẩn thận
bỏ vô thùng, xong rồi đem mười bốn con c̣n lại, về nhà khoe rùm beng.
Cũng cái thùng thơ rỉ sét này đă chứng kiến cảnh tôi bỏ từng bức thơ màu
hồng yêu đương ấm áp, bức thơ màu xanh hy vọng tương lai gởi đến một cô
bạn gái đẹp đẽ dễ thương nào đó mà chưa quen, tay run run, trống ngực
đập th́nh thịch, mắt lấm lét ngó trước ngó sau, sợ lũ bạn quen bất gặp.
Cái thơ đă bỏ vô thùng mà c̣n ngó hoài, cứ lo sợ mất.
Xa sông cách núi lỡ vời
Gởi thơ sợ lạc, gởi lời sợ quên
Tôi đạp xe qua bên kia chợ. Người buôn kẻ bán
lưa thưa. Đúng là cảnh chợ chiều. Mũi tôi ngửi được cái mùi chợ cá quen
thuộc. Mùi khô cá mặn, mùi mắm, mùi củ cải muối, mùi tro diêm, mùi đường
thẻ, mùi thuốc bắc... và hàng trăm thứ mùi khác trộn lẫn nhau, quyện lấy
nhau tạo không khí nơi đây một cái ǵ gần gũi thân yêu. Tôi đă hít thở
mấy chục năm qua, từ thuở bé cho đến khi khôn lớn. Cái hơi hướng đó đă
ăn tận buồng tim thớ phổi. Tôi tin chắc rằng nếu phải xa nơi đây, tạm
ngụ ở một phương trời vô định nào so, tôi vĩnh viễn không bao giờ t́m
thấy được cái dư vị của những ngày thơ ấu.
Đêm đêm cánh rụng lầu ngà
Một thời ly biệt để già nhớ thương
(Vũ Hoàng Chương)
Chiếc xe lăn bánh chầm chậm trên đường phố.
Bên này là đường Nguyễn Thái Học, bên kia là Đoàn Trần Nghiệp. Cũng thời
là nhà cửa phố xá ngày xưa nhưng có vẻ ǵ tiêu điều xa vắng. Mới bốn
năm, mưa nắng đă làm cho gạch vôi ẩm mốc xám đen, tang tóc buồn thảm.
Nh́n những bước chân người đi lại trên vỉa hè, tôi như thấy được nỗi
chịu đựng đầy cay đắng trong cái dáng hấp tấp vội vàng hay ngập ngừng
đắn đo. Ôi! Những người dân vô
tội đáng thương của một đất nước “anh hùng”.
Trên đường Trưng Vương, tiệm vàng Tín Thành, cao ba từng, bị tịch thâu
được đổi thành Pḥng Y Tế Thị Xă.
Đă gần xế chiều vậy mà bệnh nhân vẫn c̣n sắp
hàng đứng ra tới ngoài sân. Nhiều em bé trơ xương nằm lả người thiêm
thiếp trên tay mẹ. Nhiều cụ già khăn áo bạc màu hom hem c̣m cơi nhẫn
nhục sắp hàng chờ đợi tới phiên ḿnh. Qua đường Hùng Vương, trường Trung
Học Nguyễn Trăi thương yêu ngày nào, tôi hàng ngày hai buổi đi về với
bao h́nh ảnh thấy bạn thân thương, bao mộng ước một thời mới lớn, bây
giờ trở thành Pḥng Giáo Dục. Hàng dừa xanh mát rũ bóng trong sân đă
được đốn đi thay vào đó là dân đánh bóng chuyền treo cái lưới rách giăng
ngang, giành cho công nhân viên nhà nước chơi đùa. Rải rác có các cán bộ
dép râu, nón cối gương mặt lầm lầm ĺ ĺ. Tôi nghe đau nhói trong tim...
như một thứ t́nh yêu rạn nứt.
Đất đổi hoa màu nhà đổi chủ
Trâu quên mục tử, ngựa quên chuồng
(Nguyễn Bính)
Không, tuy cảnh đổi thay người đổi thay,
nhưng ḷng tôi không thay đổi. Dầu người ta có bắn phá, đập nát, đốt
cháy hết cả cái tỉnh B́nh Dương này nhưng trong ḷng tôi vẫn c̣n hoài,
c̣n hủy h́nh ảnh cái chợ Phú Cường bằng bê tông cốt sắt đồ sộ với cái
tháp đồng hồ cao, sừng sững, ḍng sông Sài G̣n uốn khúc lặng lờ trôi từ
Săn Đá xuống mang theo trong ḍng nước vẩn đục từng dề lục b́nh xanh
xanh trổ bông tim tím, dốc Ông C̣ thoai thoải im mát hai hàng cây sao
cao vút, dốc nhà thương, có nhà trường Nam Tỉnh Lỵ Châu Thành, có nhà
thờ bằng đá hoa cương, mỗi khi hè đến hàng phượng vĩ trổ hoa đỏ rực, rền
rền tiếng ve.
Trong đầu óc non nớt, những ngày tháng ngây
thơ đó thần tiên quá. Những h́nh ảnh như vậy, ngàn đời trong tôi vẫn
không phai nhạt chút nào. Nó đă thấm vào tim óc, vào từng tế bào từ lâu
lắm. Chắc từ hồi c̣n ở truồng tắm mưa, chạy lượm xoài, lượm ổi rụng
trong những cơn mưa giông, giành giựt nhau, la hét vang rần từ đầu làng
cho tới cuối xóm.
Ôi B́nh Dương thân yêu của tôi, chỉ vài ngày
nữa thôi, tôi bắt buộc phải đứt ruột mà chia ĺa. Ở đó, tôi có biết bao
nhiêu bạn bè mà gương mặt xanh xao màu rau nhiều hơn thịt cá. Ở đó, tôi
có biết bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu, bao gắn bó của một thời mộng mơ,
bao tin tưởng của thời thành đạt. Làm sao tôi có thể ra đi mà không bịn
rịn xót xa. Tôi cũng muốn đi một ṿng thiệt xa để nh́n cho hết những con
đường dốc khúc khuỷu quanh co bùn śnh trơn trợt của các hầm đất sét ở
Ḷ Chén, các con đường làng kẽo kẹt tiếng đọt tre đong đưa miệt Xuân
Hiệp, những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo im mát bóng cây ăn trái miệt
Giếng Máy, Cầu Ông Đành, những liếp rau ngát xanh, những bờ nước đầy
rong đuôi chồn vắt miệt Phú Văn rồi ṿng lên các ngọn đồi cao miệt Bà
Lụa để nh́n trở lại ḍng sông Sài G̣n chảy uốn khúc lặng lờ qua tỉnh.
Tôi muốn gặp hết tất cả những người quen biết, tất cả bạn bè thân yêu để
nói câu giă biệt. Nhưng làm sao, làm sao được! Tôi không thể nói ǵ hết.
Gần trên bốn mươi năm nay rồi, tôi sống im lặng, vật vờ, thu ḿnh như
một cái bóng mờ, lặng thinh câm nín. Một chút động tĩnh cũng không dám.
Người ta hoài nghi, soi mói. Tôi không thể nói bất cứ điều ǵ dầu chỉ là
lời từ giă. Nếu nói được cho thoải mái th́ đâu cần phải ra đi làm ǵ!
Đúng rồi nếu nói được th́ đâu cần phải đi!!!
Giờ này, dưới ánh nắng thoi thóp của buổi
chiều sắp tắt tôi nh́n trở lại B́nh Dương của tôi một lần. Một lần cho
thật rơ, thật kỹ những cảnh vật, màu sắc, âm thanh, mùi vị... Tôi muốn
ôm hết, thu hết, ghi nhận hết trong tim, trong óc bởi v́ tất cả sẽ vĩnh
viễn mất đi khi tôi cất bước lên đường. Mai kia khi tôi đi rồi th́ tương
lai kể như mù tịt, quá khứ trở thành chiêm bao!
B́nh Dương bây giờ, B́nh Dương của ai?
Nguồn: saigontimesusa |