| 
				  
				
				Những bài cùng đề tài 
				
					- 
					Nguồn gốc và ư nghĩa của tên 
					Sài G̣n
 
					- 
					H́nh ảnh Sài G̣n 
					xưa
 
				 
				  
				
				I/ Nguồn gốc  và ư nghĩa của tên Sài G̣n
				
				Trong "Đại Nam 
				Quốc Âm Tự Vị" của ông Huỳnh Tịnh Của th́ Sài tức là củi thổi, 
				G̣n: tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong 
				Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sàig̣n th́ Đại Nam 
				Quốc Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu 
				là đất Bến Nghé. 
				
				Định nghĩa 
				Sàig̣n của quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên 
				Sàig̣n trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, c̣n vùng mà 
				ta gọi là Sàig̣n hiện nay th́ trước đây lại gọi là Bến Nghé. 
				Điều này được xác nhận nhờ hai người Anh là Crawford và 
				Finlayson đă đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những người này 
				thuật lại th́ Sàig̣n và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết 
				là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách xa 
				nhau độ 1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan 
				chánh phủ, c̣n Sàig̣n là trung tâm thương măi và là nơi cư ngụ 
				của người Hoa kiều và các thương gia (tài liệu của Bulletin de 
				la Société des Etudes Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ 
				Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2). Vậy, Sàig̣n và Bến Nghé là hai 
				thành phố phân biệt nhau và có hai tên khác nhau đàng hoàng, 
				nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông Nam Kỳ năm 
				1861, họ dùng tên Sàig̣n để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng làm 
				trung tâm hành chánh, v́ Bến Nghé là một tiếng khó cho người 
				ngoại quốc phát âm hơn Sàig̣n. Người Việt Nam bắt buộc phải theo 
				họ mà gọi Bến Nghé là Sàig̣n, c̣n vùng trước đó gọi là Sàig̣n 
				th́ được gọi là Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang 
				trong bộ Việt Sử, Xứ Đằng Trong, cho là dường như đă có từ đời 
				vua Gia Long. 
				
				Cũng theo quyển 
				Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của th́ tên Sàig̣n có 
				nghĩa là củi g̣n. Nhà học giả Trương Vĩnh Kư đă theo thuyết này 
				mà ông cho biết là dựa vào bộ Gia Định Thông Chí của ông Trịnh 
				Hoài Đức. Trong tập Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Kư 
				lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng cây g̣n chung quanh đồn 
				Cây Mai và chính ông c̣n thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 
				1885. 
				
				Sau ông Trương 
				Vĩnh Kư, c̣n có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong thuyết 
				kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát th́ trước đây, vùng Sàig̣n Chợ 
				Lớn hăy c̣n bị rừng bao phủ và tên Sàig̣n có lẽ phát xuất từ tên 
				Khmer Prei Kor tức là Rừng G̣n (Forêt des Kapokiers). Prei Kor 
				là tên mà người Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là 
				Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng 
				cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đă 
				gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có 
				nghĩa là Rừng Chỗi Cây G̣n (Brousse des kapokiers). 
				
				Thuyết về nguồn 
				gốc tên Sàig̣n của các học giả Việt Nam trên đây sau này đă bị 
				một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàig̣n 
				Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer th́ Kor có nghĩa là g̣n 
				mà cũng có thể có nghĩa là con ḅ, và Prei Kor có thể là Rừng Ḅ 
				chứ chưa ắt hẳn là Rừng G̣n. 
				
				Mặt khác, các 
				nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đă t́m được 
				trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng 
				này. Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đă đến 
				Cam.Bu.Chia xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt một số sở thuế ở vùng 
				Prei Nokor va` Kas Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy có một hoàng 
				hậu la` con gái chúa Săi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đă 
				chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn. 
				
				Theo ông 
				Etienne Aymonier th́ Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng 
				của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng 
				Nokor do tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố 
				của rừng hay thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy 
				theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố. 
				
				Nhà học giả 
				Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đă dựa vào 
				ư nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ 
				thuyết của các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàig̣n có 
				nghĩa là Củi G̣n. Ông đă theo ư kiến của một người Pháp khác là 
				Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigo`n có lẽ phát xuất từ tiếng 
				Tây ng̣n có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut de l'ouest). 
				Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc theo 
				V.N là Tây Cống và Tây Ng̣n hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo 
				giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là v́ ông đă 
				dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Đức chép lại, là 
				khi Cam Bu Chia bị phân ra cho hai vua th́ cả hai vua nầy đều 
				nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của 
				vua thứ nh́ từ năm 1674 (trong khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong 
				ở phía bắc Nam Vang). 
				
				Một tác giả 
				khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sàig̣n Năm Xưa 
				rằng người Hoa Kiều đă tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để 
				mua bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Ḥa ngày 
				nay) là nơi được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đă 
				bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành 
				phố này đă vững, người Hoa Kiều đă đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn 
				đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt 
				tên chỗ mới này là Đề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe 
				ngăn nước. Đề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát 
				âm theo giọng Quảng Đông th́ nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn. 
				Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sàig̣n chính do Thầy Ngồnn mà 
				ra. 
				
				Về đất Bến Nghé 
				th́ người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển cho rằng 
				đó là họ đọc trại lại tiếng Sàig̣n của ta và khi viết ra Hán văn 
				th́ họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống. 
				
				  
				
				Vậy, có ba 
				thuyết về nguồn gốc và ư nghĩa của tên Sàig̣n: 
				
				1. Thuyết của 
				các ông Trương Vĩnh Kư và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng Khmer 
				Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi g̣n. 
				
				2. Thuyết của 
				ông Louis Malleret: Sàig̣n do tiếng Tây Ng̣n, tức là Tây Cống 
				phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía 
				tây. 
				
				3. Thuyết của 
				ông Vương Hồng Sển: Sàig̣n do tiếng Thầy Ngồnn tức là Đề Ngạn 
				phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên 
				có đê ngăn nước. C̣n về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại 
				cho rằng nó chỉ được người Trung Hoa dùng sau này để phiên âm 
				lại tên Sàig̣n sau khi tên này được dùng đẻ chỉ đất Bến Nghé cũ. 
				
				Ba thuyết trên 
				đây cái nào cũng có vẻ có lư phần nào nhưng thật sự, không cái 
				nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa măn. Như thế có lẽ v́ 
				những người nêu ra các thuyết ấy đă quên để ư đến cách ông bà 
				chúng ta đặt các địa danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể 
				nhận thấy rằng trong việc đạt địa danh này, ông bà chúng ta đă 
				theo một số nguyên tắc: 
				
				  
				
					- 
					Các cụ có 
					thể phiên âm một địa danh Khmer đă có và bỏ dấu cho thành 
					tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt 
					đă được các cụ gọi lại là Sa Đéc, hay Me So tiếng Khmer là 
					Người Đàn Bà Đẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. 
					Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đăng trong tờ Việt 
					Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đă nhắc đến 
					một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay 
					Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất 
					từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Địa danh này sở 
					dĩ có là v́ trong trận đánh nhau voói người Việt Nam, người 
					Khmer đă thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng 
					cơm chưa kịp chín th́ quân Việt Nam lại kếo đến và người 
					Khmer phải bỏ chạy. Để đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là 
					Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm 
					thành Bải Xào.
 
				 
				
				  
				
					- 
					Các cụ có 
					thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đă có. Thí dụ như tên Bến 
					Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la 
					Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn th́ ngoài 
					Prei Nokor, vua Cam.Bu.Chia c̣n cho chúa Nguyễn đạt sở thuế 
					ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas 
					Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng 
					Trâu, Bến Trâu ǵ đó.
 
				 
				
				  
				
					- 
					Nhưng tên 
					theo hai loại trên đây là do người Việt Nam b́nh dân đặt ra 
					khi mới đến một địa phương, về sau, khi đă có nhiều người 
					Việt Nam ở và triều đ́nh Việt Nam đặt ra các đơn vị hành 
					chánh, th́ triều đ́nh lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, 
					Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v... Mặt khác, khi viết 
					sử hay viết sách địa lư mà gặp một tên nôm do người b́nh dân 
					đă đặt, các cụ đă dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi 
					chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và 
					Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ 
					không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé.
 
				 
				
				  
				
				  
				
				Nếu lấy các qui 
				tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể suy luận 
				th́ ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ư nghĩa của 
				Sàig̣n không ổn. 
				
				  
				
					- 
					Nếu các cụ 
					ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt th́ 
					các cụ đă dùng tên Củi G̣n, Cây G̣n hay Rừng G̣n để đạt cho 
					địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với 
					một tiếng nôm là G̣n để thành Sàig̣n, cũng nhu khi dịch 
					Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đă gọi là Bến Nghé chớ 
					không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn 
					là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, 
					bờ sông). Nếu bảo rằng g̣n là một loại cây không có tên Hán 
					Việt và các cụ đă dùng tên ấy như tiếng Hán Việt th́ các cụ 
					đă theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi G̣n là G̣n Sài chớ 
					không thể gọi là Sài G̣n
 
					- 
					Chữ Sài là 
					tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng 
					làm chữ nôm th́ lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm 
					hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta 
					đang nghiên cứu th́ ta có Thầy G̣n. Tên này rất gần với Tây 
					Ng̣n hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Đề 
					Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xua rất 
					sính dùng tiếng Hán Việt. Đến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba 
					Giồng, Bến Nghé mà các cụ c̣n nhứt định phải dịch ra là Tam 
					Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở th́ không lư do ǵ các cụ 
					lại không dùng các tiếng Hán Việt đă sẵn có là Tây Cống hay 
					Đề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy G̣n là tiếng phiên âm theo 
					giọng của người Trung Hoa.
 
				 
				
				Vậy, các thuyết 
				kể trên đây đều không vững cả. 
				
				Cuối cùng, chỉ 
				c̣n một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ư nghĩa và nguồn 
				gốc tên Sàig̣n có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê 
				Văn Phát cho biết rằng người Lào đă gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là 
				Cai ngon, mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây 
				G̣n. Chúng tôi không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể 
				xác nhận được ư nghĩa của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu 
				quả đúng như ông Lê Văn Phát nói th́ tên Sàig̣n do ông bà ta 
				phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam 
				như thông lệ. 
				
				Xét về mặt 
				nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, th́ vấn đề 
				này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn c̣n lại là tại 
				sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không 
				có nhiều tài liệu lịch sử giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng 
				răi và chánh xác về thời kỳ người Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. 
				Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận: 
				
				1. Vào đầu thế 
				kỷ 17, nước Cam Bu Chia đă bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy 
				hiếp nặng nề, và chính v́ muốn dựa vào người Việt Nam để chống 
				lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đă đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là 
				con gái chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, 
				rồi đén năm 1623 lại đẻ cho chúa Nguyễn đạt những cơ sở thâu 
				thuế ở vùng Sàig̣n, Chợ Lớn ngày nay. 
				
				2. Vùng Chợ Lớn 
				chỉ trở thành một vùng thương măi thạnh vượng từ năm 1788 với 
				khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn 
				phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về 
				trước vùng này chưa có mua bán ǵ nhiều. 
				
				3. Người Việt 
				Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần 
				Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, 
				lúc chúa Nguyễn đạt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm 
				trước đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều 
				lúa gạo để bán. 
				
				4. Như thế, cơ 
				sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán 
				nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cam Bu Chia đă dễ 
				dàng cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua 
				bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ lớn th́ vua Cam Bu Chia lúc 
				đó vốn c̣n hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn, chắc không phải 
				chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán 
				đó dựa vào móng hàng ǵ? Có thể một trong những món hàng được 
				buôn bán thời đó là g̣n, v́ vùng này có nhiều cây g̣n, có lẽ 
				không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có 
				thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đă đến đó mua g̣n 
				để đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể 
				đă có mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, 
				và v́ thấy vùng này có nhiều cây g̣n, họ gọi nó là Cai Ngon tức 
				là Rừng Chổi Cây G̣n, rồi các viên chức Việt Nam liên lạc với họ 
				để đánh thuế lúc mới đến đă theo họ mà gọi đất này là Sàig̣n, 
				thay v́ phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này. 
				
				5. Về cái tên 
				Khmer này, các học giả đă không đồng ư kiến với nhau, người th́ 
				nói là Prei Kor, người th́ nói là Prei Nokor. Ông Malleret đă 
				dựa vào sử Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục 
				Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố của rừng. V́ không biết 
				tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi không thể đi sâu vào 
				vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn. 
				
					
						- 
						
						Nếu 
						Prei Kor có nghĩa là Rùng G̣n hay Rừng Ḅ th́ văn phạm 
						Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đạt tiếng rừng lên 
						trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei 
						Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier th́ vẫn hợp 
						với văn phạm đó, c̣n dịch ra như linh mục Tandart là 
						thành phố giữa rừng th́ lại đi ngược với văn phạm đó 
						rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây th́ Prei Nokor 
						là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành 
						Phố th́ cố nhiên là không có ư nghĩa ǵ.  
						- 
						
						Mặt 
						khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của 
						vua th́ nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ 
						nh́ của Cam-Bu-Chia chua chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại 
						đó th́ đất này hăy c̣n là một thị xă nhỏ, không có vua ở 
						nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay 
						rừng của vua được.  
					 
				 
				
				Do các nghi vấn 
				trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. 
				Và chúng ta có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua 
				Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đạt sở thuế vẫn tên là Prei Kor v́ 
				nơi đó có nhiều g̣n và là nơi mua bán g̣n, nhưng sau đó, khi vua 
				thứ nh́ của Cam-Bu-Chia đến đóng đô tại đó, nó có tên mới là 
				Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay thành phố giữa 
				rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép lại việc 
				cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đă chép lại tên 
				Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với 
				giả thuyết này th́ ư nghĩa và nguồn gốc tên Sàig̣n có thể giải 
				quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có 
				nghĩa là Rừng Chổi Cây G̣n, và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy 
				Prei Kor cũng có ư nghĩa tương tự. 
				
				V́ không biết 
				ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không 
				thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên 
				đây. Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer 
				hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ư nghĩa 
				và nguồn gốc tên Sàig̣n yêu dấu của chúng ta. 
				
				(Viết vào thập 
				niên 80). 
				  
				
				H́nh ảnh Sài G̣n xưa 
				Trích từ trang Việt Nam Quê 
				Hương Tôi cùa Nguyễn Tấn Lộc : 
				
				
				http://nguyentl.free.fr 
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				  
				
				  
				
				  
				
				  
				Bưu điện Sài G̣n xưa và 
				Sài G̣n ngày  nay: 
				
				  
				  
				© http://vietsciences.free.fr và http://vietsciences.net Nguyễn 
				Ngọc Huy  |