|   | 
		
		 
		Tha La một địa danh lịch 
		sử  
		
			
				 - An-Tiêm Mai Lư Cang 
				(Paris)
 
			
			
				 - (Paris Xuân Nhâm-Th́n 2012  
 
			
		 
		Trên đường từ thành phố Hồ-Chí-Minh đi tới cửa khẩu 
		Mộc-Bài theo quốc lộ 22A, qua khỏi khu công nghiệp hiện đại Trảng-Bàng 
		là đến trung tâm thương mại chợ búa huyện lị. Từ chợ thị trấn Trảng-Bàng 
		đi đến trụ sở công quyền của xă An-Ḥa chừng một cây số, và cách đó thêm 
		độ vài trăm thước nữa là gặp ngay nhà thờ họ đạo Tha-La nằm ở bên trái 
		ven đường. Xóm đồng ruộng Tha-La tọa lạc trên ấp An-Hội cạnh khu công 
		nghiệp An-Ḥa và ḍng sông Vàm-Cỏ-Đông nên thơ, nước biếc.  
		Sông Vàm Cỏ Đông  
		  
		Sông Vàm Cỏ Đông  
		Nói cách khác, th́ Tha-La nằm miền ven biên ở hướng 
		Tây của thị trấn Trảng-Bàng hướng về khu Ba-Thu cạnh vùng biên thùy 
		Mỏ-Vẹt, giáp giới tỉnh Xvay-Riêng của Cam-Pu-Chia. Cách đây hơn quá nửa 
		chừng thế kỷ th́ xóm vắng nầy cũng như ngay ở khu đất hoang vu 
		B́nh-Thạnh, cũng thuộc vùng địa lư Trảng-Bàng, dù là c̣n có chứng tích 
		của một nền văn minh cổ là ngôi tháp Chàm đă rêu phong. Vậy mà đối với 
		phần đông nhiều người ở miền Nam, th́ đều được họ kể coi như là những 
		địa phương hoàn toàn xa lạ chưa từng nghe biết. Ngay cả đối với những 
		thành phần dân cư bản địa láng giềng cũng vậy. Lúc bấy giờ, ngay tại 
		trung tâm thành phố Trảng-Bàng đă có nhiều người chỉ có từng được nghe 
		nhắc tới cái tên của xóm Tha-La mà thôi, chứ họ chưa bao giờ có dịp để 
		lê bước chân đến tận ở nơi nầy dù rằng từ đây đến đó cách xa nhau chỉ có 
		bằng một đoạn đường ngắn. Lư do, v́ lúc ấy nơi đây cảnh quang vắng vẻ 
		đất rộng người thưa, chỉ có độ chừng vài chục nóc gia sinh sống yên lành 
		hằng ngày với bàn tay cuốc bẫm cày bừa bên cạnh một ngôi giáo đường nho 
		nhỏ. Ngược ḍng thời gian, nếu khi xưa không có cuộc trường kỳ kháng 
		chiến của toàn dân nổi lên chống lại bọn thực dân đô hộ, th́ h́nh ảnh 
		nên thơ của cục đất Tha-La chẳng khác nào như là những nét đan thanh của 
		gấm vóc ruộng đồng ở các vùng lân cận thuộc huyện Trảng-Bàng. Toạ điểm 
		nầy, từ năm 1868 khi xưa vốn là một trụ sở Ty Hành-Chánh được lập thành 
		thuở dưới thời thuộc địa.  
		Đường vào bến nước Tha-La cách nay hằng thập niên 
		về trước là một con đường đá đỏ quạch nằm ngay khoảng giữa hai ngôi chùa 
		Phước-Lưu và Phước-Lâm, cạnh sân đá banh và đồng mả hoang vu kéo dài 
		theo lộ tŕnh đi tới bờ sông Vàm-Cỏ-Đông. Dạo ấy, hai bên đựng người ta 
		chỉ thấy có đồng ruộng ao bèo, trúc tre cao vút và lác đác từng những 
		căn nhà mái tranh vách đất nghèo nàn. Tuy nhiên, không v́ thế mà khách 
		nhàn du không thể nào không khỏi cảm khái khi thấy ḷng ḿnh bị ḥa ḿnh 
		vào trong cảnh vật thiên nhiên giữa bức họa đồng quê êm đềm đầy ấn tượng. 
		Ngoài ra, người ta cũng c̣n có thể xuống thuyền mượn ḍng kinh Gia-Lộc 
		xuôi về cầu Quan để vào thăm đất Tha-La, để thưởng thức mùi vị của vùng 
		có cây xanh trái ngọt và có dịp giao lưu thân thiết với dân cư sở tại 
		vốn chơn chất, từ lâu có truyền thống hiếu khách, hiền ḥa.   
		Suốt trong thời kỳ đất nước c̣n chiến tranh, th́ 
		h́nh ảnh của cục đất Tha-La cũng đă được đi vào huyền thoại do một 
		nguyên nhân vô t́nh tạo ra, và từ đó nó được xem như là một địa danh đặc 
		biệt. Sự kiện nầy, giờ đây đă làm cho nhiều người từ ở khác miền thường 
		hay lưu ư, và họ cố t́m hiểu về thổ ngơi, địa lư cũng như về lịch sử của 
		vùng đất nầy. Và dẫu rằng, trước đây đă có những sách báo nói đến rất 
		nhiều về sự h́nh thành trở nên địa danh đầy gợi cảm của xóm vắng Tha-La. 
		Nhưng trên thực tế, th́ h́nh ảnh của xóm vắng nầy cần phải được bổ sung 
		thêm nhiều tài liệu loại trừ tính cách chủ quan, để xác thực làm cơ sở 
		vốn có yếu tố khả năng thuyết phục. Do vậy, cho nên trước hết người ta 
		cần phải nên khách quan để đưa ra những nhận định rằng chính rằng thổ âm 
		là một giọng nói riêng quen thuộc của từng địa phương. Do đó, mà hễ khi 
		người ta nghe thổ âm của hai địa phương ở cách xa nhau về địa lư, mà nếu 
		họ có những tiếng nói nào giống in nhau, th́ tức là họ đă có một sự liên 
		hệ tương quan ràng buộc với nhau ít nhiều về chủng tộc. Sở dĩ, tôi phải 
		gợi lại vấn đề nầy thêm một lần nữa là v́ muốn để được nói rơ ràng, là 
		vùng đất Tây-Ninh khi xưa có rất đông người Khmer cư ngụ, và có nhiều 
		nơi cũng được họ gọi là Schla * mà người Việt ḿnh nói trại ra là Thala. 
		Do vậy, cho nên người ta có thể nói rằng là nguồn gốc của từ Tha-La ở 
		Trảng-Bàng mà từ lâu đă được phổ biến trong dân gian, là được nói trại 
		ra dựa theo âm điệu của từ Schla (ngôn ngữ Khmer). Hơn thế nữa, ngoài 
		những cái tên Tha-La ở Tây-Ninh th́ ở những vùng miền Tây-Nam phần c̣n 
		có người Khmer cư ngụ bây giờ cũng có nhiều nơi hẻo lánh được gọi tên là 
		Tha-La. Tuy nhiên, ngay cả ở cạnh Tây-Ninh là B́nh-Dương cũng có ấp tên 
		gọi Tha-La là nơi có thắng cảnh đập Ḷng-Hồ, và một ḥn núi nhỏ cũng có 
		tên Tha-La nằm trong quần thể của núi Lấp-Ṿ mà người dân địa phương lâu 
		đời từng quen gọi tên là núi Cậu.   
		Sau ngày thống nhất nước nhà, thỉnh thoảng tôi được 
		về thăm lại mồ mả tổ tiên, bà con ruột rà, làng mạc quê cũ, th́ lần nào 
		tôi cũng có dịp nh́n thấy h́nh hài yêu mến Tha-La bây giờ không c̣n 
		nguyên vẹn giống thuở nào. Ngày xưa, khoảng từ một thế hệ đời người th́ 
		mảnh đất bé nhỏ nầy vốn đă là vùng nông nghiệp có ruộng lúa xinh tươi, 
		trái cây xanh mượt cam, quít, chuối, chanh. Và cũng không thiếu chi 
		những nông sản phụ như nào là đậu phộng, mía, khoai ḿ, dưa cà, rau quả 
		v.v cùng nhiều loài cỏ lạ, hoa cau, hoa bưởi hương thơm phảng phất, tỏa 
		ra nhè nhẹ trong bầu không khí trong lành. Ngày nay, thế hệ trẻ sau nầy 
		lớn lên đều có khuynh hướng ly nông, ly hương cho nên phần đông đă về 
		thành phố sinh sống hoặc đi làm công nhân viên cho các khu công nghiệp 
		trong thị trấn Trảng-Bàng. C̣n thực tế bây giờ, th́ nó đă bị từ từ lột 
		xác, hoàn toàn đổi thịt thay da không c̣n thơ mộng được như xưa. Phố sá, 
		quán hàng xinh xắn thay nhau mọc lên san sát kéo dài tới cạnh bờ sông 
		Vàm-Cỏ-Đông. Ngoài những đồng ruộng, khoảnh vườn trồng trọt hoa màu c̣n 
		sót lại, th́ nhà cửa thi nhau xây cất, tiệm tùng nhậu nhẹt cũng được tân 
		trang chào đón khách hàng, đặc biệt là món ăn heo mọi quay nướng hiện 
		nay rất có sức hấp dẫn thực khách. Và những tṛ chơi hội chợ thỉnh 
		thoảng được tổ chức vui nhộn, do nhóm người đồng tính luyến ái kéo nhau 
		tụ tập về đây sinh sống. Nh́n trong tầm mắt ra tới bờ sông từ dưới chân 
		cầu Quan bây giờ là một băi đậu xe tải chuyển hàng, xe xúc đất làm đường 
		hoạt động không ngừng bên cạnh khu công nghiệp An-Ḥa mở rộng có công 
		nhân làm việc ra vào tấp nập. Nói cách khác, h́nh ảnh sinh hoạt của Tha-La 
		trên con đường hiện đại hóa bây giờ, đă làm cho nhiều du khách phải tỏ 
		ra thất vọng với giấc mộng ngày nào mong sẽ có dịp đến thăm miền đất có 
		"lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay". Và viếng ở ngôi nhà thờ, có những 
		con chiên ngoan đạo nguyện cầu ơn thánh Chúa dưới bầu trời có "gió đùn 
		quanh mây trắng".   
		Thời tiền chiến 1945, th́ đất Tha-La vốn là một 
		trục lộ nhỏ, là vùng địa lư đi vào ngơ cụt do bị ḍng Vàm-Cỏ Đông án ngữ. 
		Do vậy, người dân Tha-La may mắn có được rất nhiều yếu tố về địa lợi để 
		ḥa ḿnh vào với thiên nhiên và sống một cuộc đời hạnh phúc, an b́nh. 
		Hơn thế nữa, lúc bấy giờ th́ nơi thôn trang vắng vẻ nầy duy nhất chỉ có 
		một cái nhà thờ nhỏ, và chừng vài chục nóc gia có những tín đồ ngoan đạo 
		hằng ngày thường xuyên đến nguyện cầu thọ ân phép lành của Đức Chúa. Họ 
		đạo và nhà thờ Tha-La từ lâu đă có một bề dày lịch sử từ thuở thời ông 
		Coximo Nguyễn-văn-Trí (nguyên là một chức vị cao trong họ đạo) cùng với 
		vài gia đ́nh con chiên ở từ Huế trốn vào Nam để lẩn tránh cuộc truy sát 
		gắt gao của triều đ́nh nhà Nguyễn dưới trước cả thời vua Tự-Đức ban hành 
		sắc dụ 1859 lúc bấy giờ. Sau khi đến đất Tha La, t́m được nơi nương náu 
		an toàn th́ ông liền tổ chức khẩn hoang lập xóm, làm ruộng, trồng cây 
		trái, hoa màu. Đồng thời, ông cũng lén lút truyền bá trong công tác 
		hoằng pháp với những gia đ́nh người lương ở láng giềng. V́ là người đầu 
		tiên dấn thân có công gieo trồng hạt giống thiên thần Bác-Ái ở nơi nầy, 
		cho nên về sau ông cùng với một số giáo dân đă phải chịu hi sinh tử v́ 
		đạo pháp vào năm 1869 trong ngục thất. Trước lúc bấy giờ, v́ t́nh h́nh 
		trong hoàn cảnh không gian phức tạp do thỉnh thoảng đă có xảy ra những 
		cuộc xung đột lương giáo. Và cũng để cố che mắt triều đ́nh qua sắc chỉ 
		cấm đạo, cho nên h́nh thức của nhà thờ dạo ấy thường được ngụy trang 
		dựng lên trong những căn nhà tranh vách đất có gia đ́nh người ở quanh 
		xóm nhỏ dưới chân cầu B́nh-Thủy vùng Trường-Đà hoặc ở Vàm Trảng. Và do 
		vậy mà từ trước năm 1840 th́ các tín hữu nào muốn nhận được các phép bí 
		tích, th́ thường phải đi về tới Chợ-Quán (Sàig̣n) hay lên tận Lái-Thiêu 
		(Thủ-Dầu-Một). Về sau, do trục lộ giao thông có phần nào được dễ dàng 
		quen thuộc, cho nên thỉnh thoảng mới có các Cha họ đạo khác đến làm phúc 
		cho các giáo dân. Giờ đây, trải qua bao thế hệ th́ con số tín đồ 
		Thiên-Chúa ngày một tăng thêm và h́nh thể kiến trúc nhà thờ cũng đă được 
		xây cất lại hoàn toàn thay đổi có khác với h́nh ảnh ngày xưa cảnh cũ. Và 
		bây giờ, theo tổ chức của công giáo th́ họ đạo Tha-La trực thuộc địa 
		phận Phú-Cường, huyện Thủ-Dầu-Một, tỉnh lị B́nh-Dương.   
		Tiền đề trên đây nếu chỉ có vậy thôi, th́ Schla 
		Trảng-Bàng nào có khác chi với những vùng Schla vắng vẻ quạnh hiu khác ở 
		rải rác miền Tây Nam phần. Vậy nguyên nhân chính nào đă làm cho Tha-La 
		Trảng-Bàng trở thành một địa danh bất hủ. Và dĩ nhiên, th́ trước hết 
		phần đông điều mà ai cũng biết đó là do chính nhờ có bài thơ " Tha-La 
		Xóm Đạo" (1) nổi tiếng của thi sĩ Vũ-Anh-Khanh c̣n để lại sau khi tác 
		giả qua đời. Cũng giống như trường hợp bài thơ tuyệt tác 'Màu Tím Hoa 
		Sim" của thi sĩ Nguyễn-Hữu-Loan đă được phổ thành nhạc để đời. Nhưng bài 
		thơ " Tha-La Xóm Đạo" của Vũ-Anh-Khanh th́ thêm vào đó, nó c̣n có tác 
		dụng hàm chứa ảnh hưởng trải ra bề rộng lớn hơn nhờ vào những yếu tố của 
		nguyên nhân tế nhị khác. Ngoại lệ hi hữu đó, nay cũng lại là một dịp để 
		làm cho người ta thường hay nhắc tới một tác phẩm văn chương rất ngắn 
		khác sau nầy của tác giả Thích-Nhất-Hạnh là "Bông Hồng Cài Áo". Chỉ với 
		nội dung cốt truyện chừng vài trang giấy, chuyên chở ư niệm tuyệt vời về 
		t́nh yêu Mẹ, mà bây giờ nó đă có tác dụng được truyền bá sâu rộng vào 
		trong ảnh hưởng phong tục của dân gian.   
		Trở lại thân thế của Vũ-Anh-Khanh và tư liệu về bài 
		thơ nổi danh đặc biệt đó, th́ hiện nay mọi sự việc đánh giá sưu khảo vẫn 
		c̣n được coi như là đang ở trong t́nh trạng bỏ ngơ, để mong đón chờ mọi 
		sự đóng góp ư kiến toàn bích bổ sung. Tuy nhiên, như mọi người đều biết 
		về địa lư th́ Tha-La cũng như các cục đất quanh vùng Trảng-Bàng đều 
		giống in nhau, có nghĩa là nơi đây không có núi non, thành quách cổ xưa 
		ǵ để có thể được gọi là danh lam thắng cảnh. Ngoại trừ dấu tích của một 
		ngôi tháp cổ mà dân làng quen gọi là tháp Chàm nho nhỏ, nhưng được các 
		nhà khảo cổ nghiên cứu cho là di sản của nền văn hóa, văn minh Óc-Eo 
		hoang phế hàng thế kỷ đă rêu phong ở B́nh-Thạnh.   
		Tháp cổ B́nh-Thạnh  
		  
		Tháp cổ B́nh-Thạnh  
		Ngay cả trong suốt thời kỳ chiến tranh trước năm 
		1954, dù Tha-La không bao giờ quay lưng với cộng đồng dân tộc nhưng trên 
		thực tế lúc bấy giờ, th́ cục đất Tha-La cũng chưa hề có dấu vết của 
		chiến tranh tàn phá nặng nề đến nỗi như "bao năm qua khói loạn phủ mịt 
		mù" mà ở đây cũng lúc bấy giờ, Tha-La lại có niềm tự hào t́nh tự khác 
		hơn là đă có những "người nước Việt ra đi v́ nước Việt". Và đó mới là 
		h́nh ảnh nét đẹp lưu truyền của các chàng trai Tha-La anh tuấn năm xưa 
		đă xếp việc bút nghiên, để hăng hái lên đường theo tiếng gọi của hồn 
		thiêng tổ quốc.  
		Trong bài thơ đầy cảm hứng tuyệt vời của họ Vũ đă 
		có sức gợi cảm nhiệt t́nh cho người thưởng thức, và làm cho họ phải bị 
		chi phối rất nhiều về mặt tinh thần. Với ư thơ ngọt ngào, lời thơ b́nh 
		dị, nồng nàn, nhịp thơ nhẹ nhàng, gần gũi, hồn thơ man mác có tác động 
		mănh liệt làm lay chuyển vào được tâm hồn nhạy cảm của con người. Và 
		người ta c̣n có dịp, để t́m thấy tận đáy ḷng của ông đă chứa chan một 
		niềm tâm sự gói ghém nhiệt thành trong t́nh yêu thánh Chúa. Và nghĩa vụ, 
		với bổn phận của những người con yêu đất nước trong thời kỳ kháng chiến 
		chống giặc xâm lăng tàn phá quê hương. Do vậy, có thể rất nhiều người từ 
		lâu chưa từng được đặt chân đến đất nước Tha-La, th́ có thể dễ dàng bị 
		t́nh cảm con tim xung động qua màu sắc thiên nhiên ḥa quyện trữ t́nh ở 
		chỗ nào là " đây rừng xanh rừng xanh", nào là "đây mênh mông xóm đạo với 
		rừng già". Cho nên, có thể họ lại c̣n càng tưởng tượng ra thêm về bối 
		cảnh của không gian địa lư nầy, lúc bấy giờ, thực tế vốn đă là một mảnh 
		đất ruộng đồng xanh tươi, cây trái sum suê đă phải bị vô t́nh trở thành 
		một nơi hoang vắng có cây cối âm u, rậm rạp.   
		Hơn thế nữa, cùng với ảnh hưởng lưu truyền của 
		những bài ca, tiếng hát được phổ nhạc ra từ bài thơ "Tha La Xóm Đạo", 
		cho nên cục đất nầy nghiễm nhiên đă được rất nhiều người nghe biết. Và 
		họ lại vội vă kết luận khẳng định cho rằng, là chỉ có Vũ-Anh-Khanh là 
		người duy nhất đă biến cục đất nầy trở thành một địa danh lịch sử. Sự 
		kiện nầy cần phải được đánh giá nghiêm túc lại, để nghiên cứu, đào sâu 
		làm sáng tỏ nhiều hơn nữa. Vả lại, nếu xưa nay công tŕnh nghiên cứu 
		lịch sử của vấn đề được coi như là một bức tranh công phu cần phải được 
		tô bồi bằng những nét vẽ đứt quảng. Và nếu quả vậy, th́ người ta lại 
		càng không thể loại trừ ảnh hưởng sâu đậm trong mấy vần thơ sau đây 
		trong bài " Tha-La Xóm Đạo" đă có tác dụng gợi ư mạnh mẽ về quan niệm 
		nhân sinh vào trong cuốn tiểu thuyết "Đời Tươi Thắm" của nhà văn 
		Thẩm-Thệ-Hà xuất bản vào năm 1956.   
		
			
				 - " Ờ ơ hơ...có một đám chiên lành
 
			
			
				 - Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
 
			
			
				 - Quỳ cạnh Chúa đám chiên lành run rẩy
 
			
			
				 - Lạy đức thánh Cha
 
			
			
				 - Lạy đức thánh Mẹ
 
			
			
				 - Lạy đức thánh Thần
 
			
			
				 - Chúng con xin về cơi tục để làm dân
 
			
			
				 - Rồi...cởi trả áo tu
 
			
			
				 - Rồi...xếp kinh cầu nguyện
 
			
			
				 - Rồi...nhẹ bước trở về trần"
 
			
		 
		Tác phẩm nầy, được tác giả dàn dựng lên trong khung 
		cảnh ở ngay cạnh tại giáo đường Tha-La nên thơ vắng vẻ. Và cũng nhằm có 
		mục đích, là để đối chọi lại với quan niệm về nhân sinh ở phần kết cuộc 
		với cuốn tiểu thuyết lừng danh của nhà văn Khái-Hưng trong Tự-Lực 
		Văn-Đoàn. Nếu nói thêm về t́nh tiết, th́ dạo ấy cuốn sách nầy bán rất 
		chạy, v́ đây là lần đầu tiên đă có một nhà văn miền Nam nhập cuộc gián 
		tiếp chỉ trích, phê b́nh cuốn tiểu thuyết "Hồn Bướm Mơ Tiên" lúc bấy giờ 
		vốn là một loại cảo thơm đang được các giáo sư sử dụng khai thác, để 
		giảng dạy trong chương tŕnh giáo dục học đường. Tuy nhiên, người ta 
		cũng đừng quên rằng, dạo ấy, chính cây bút sắc bén, có tầm cỡ của miền 
		Nam là Thẩm-Thệ-Hà lúc bấy giờ cũng từng đă có những tác phẩm văn chương 
		vị nhân sinh cá biệt chuyên chở rất nhiều trọng lượng về văn học, mà 
		người ta được biết qua các sách vở và báo chí hằng ngày. V́ thế, mà ảnh 
		hưởng của câu chuyện mối t́nh rực nắng trong độ tuổi đôi mươi bên Tha-La 
		xóm đạo được lồng vào trong cuốn tiểu thuyết " Đời Tươi Thắm" của ông 
		rất có nhiều tiếng vang, do được nhiều nguời ham mộ. Và làm cho hàng độc 
		giả bốn phương phải biết tới nhà thờ và họ đạo Tha-La trên mảnh đất yên 
		lành, nên thơ, hoang vắng. Chúng ta chỉ thử lướt qua một đoạn văn ngắn 
		súc tích, tả về cảnh các giáo dân quanh vùng tưng bừng nô nức, vui vẻ rủ 
		nhau đi xem lễ ở giáo đường Tha-La trong ngày trọng đại đón mừng giáng 
		sinh Đức Chúa ra đời:   
		(Trên con đường đỏ quạch, từng đám dân lành lũ lượt 
		kéo nhau đi. Ánh nắng mai lỗ đỗ rụng trên đầu. Tiếng chim ca ngợi b́nh 
		minh và tiếng gíó reo vui trên cành lá. Những câu chuyện thân mật vang 
		lên ḥa nhịp như một khúc thanh b́nh)...   
		Cuốn sách nổi tiếng "Đời Tươi Thắm" của Thẩm-Thệ-Hà 
		ra đời và được phổ biến rộng rải, sau thời điểm của hiệp định đ́nh chiến 
		Genève vừa đă phân chia đất nước Việt-Nam. C̣n tác giả của cuốn sách "Nửa 
		Bồ Xương Khô" là Vũ-Anh-Khanh, th́ đă tập kết ra Bắc vào mùa Thu năm 
		1954. Do vậy, dạo ấy tại miền Nam các tác phẩm của ông đều được hạn chế 
		lưu hành. Và điều nầy, đă làm cho những từng lớp thành phần thế hệ nào 
		đó chưa thể có dịp, để được đọc qua bài thơ "Tha-La Xóm Đạo", vốn được 
		coi như là khúc nhạc dạo đầu của cuốn tiểu thuyết lừng danh một thuở của 
		nhà văn nặng kư Vũ-Anh-Khanh. Do vậy, dù không cần đem ra để đánh giá, 
		đo lường về ảnh hưởng của hai cuốn tiểu thuyết đă nặn ra một h́nh ảnh 
		diệu hiền của xóm đạo Tha-La. Nhưng người ta cũng không thể nào dám lên 
		tiếng phủ nhận, về nguyên nhân đă đưa đến sự kết thành được một mẫu số 
		chung về t́nh cảm yêu thương, trữ t́nh bên Tha-La xóm đạo.   
		Hơn thế nữa, ngược ḍng thời gian kể từ thời kỳ từ 
		năm 1947 trở về sau th́ t́nh bạn giữa Thẩm-Thệ-Hà và Vũ-Anh-Khanh càng 
		trở nên thân thiết hơn, do cùng khuynh hướng với nhau trong chủ trương 
		sáng tác văn nghệ và cùng làm báo. Vẫn ngược ḍng thời gian trước đó 
		nhiều tháng c̣n trong năm 1949, trước lúc xảy ra đám tang của 
		Trần-Văn-Ơn (9-1-1950) khi mà chính quyền thuộc địa dạo ấy đă lập tức 
		đóng cửa các pḥng trọ dành cho học sinh nội trú tại các trường trung 
		học lớn ở Sài-G̣n như Pétrus-Kư, Gia-Long, v́ sợ các cuộc tập họp được 
		dễ dàng để gây sách động tham gia các cuộc biểu t́nh đ̣i yêu sách. Và 
		cũng trước khi nổ ra sự cố đấu tranh quyết liệt của sinh viên, học sinh 
		trong bối cảnh lịch sử ngột ngạt lúc bấy giờ. T́nh trạng đó, đă làm cho 
		nhiều nhà báo yêu nước từng dấn thân dùng ng̣i bút đấu tranh cho lư 
		tưởng tự do, giành độc lập cho quê hương không khỏi phải thêm suy tư, 
		trăn trở. Chính ngay vào trong thời điểm không gian ấy, mà lần đầu tiên 
		Vũ-Anh-Khanh mới có dịp về quê hương của Thẩm-Thệ-Hà. Và lưu lại ở đây 
		khá lâu, để cùng ăn Tết luôn trong năm đó tại Trảng-Bàng.   
		Trong thời gian lưu trú tại đây, ngày nào 
		Thẩm-Thệ-Hà cũng chèo ghe đưa Vũ-Anh-Khanh ngao du theo sông rạch để thư 
		dăn bơi lội câu cá, hái sim, khi th́ đèo ông trên chiếc xe đạp chạy ra 
		các làng thôn cách xa ngoài thành phố để dạo chơi ngắm cảnh. Thuở ấy, 
		Trảng-Bàng c̣n quê mùa, không được mở mang và dân cư thưa thớt. Có hai 
		địa điểm được hai ông đến chơi thích thú và thường trở đi, trở lại để 
		t́m nguồn cảm hứng tâm hồn. Đó là xóm vắng Tha-La và Sông Đua. Và như 
		tôi đă có dịp tŕnh bày ở phần trên, là thân thế của tác giả cũng như tư 
		liệu về bài thơ " Tha-La Xóm Đạo" hiện nay c̣n đang bỏ ngơ v́ lư do có 
		thể cần phải được hiệu đính lại điều sai sót bởi tác giả của nó đă qua 
		đời? Và điều nầy, cũng không sao có thể tránh khỏi được với trường hợp 
		đặc biệt về bài thơ "Trường Thành Sông Đua" của Thẩm-Thệ-Hà.   
		Tóm lại, dầu sao th́ ngày xưa khi Tha-La c̣n cái 
		hồn làng mạc chơn chất, th́ t́nh người nơi đây vẫn đẹp, duyên quê duyên 
		dáng, hài ḥa cuộc sống người người, thật là lư tưởng cho những ai muốn 
		t́m về hạnh phúc ở tâm hồn, nhất là bên cạnh ngôi giáo đường bé nhỏ xinh 
		xinh, tôn nghiêm phụng thờ ơn thánh Chúa. Cho nên vào lúc bấy giờ, Tha-La 
		thủy chung đương nhiên cũng vẫn lại là một địa danh đích thực, mà không 
		cần đến một phương cách ca tụng hóa trang được tô son điểm phấn của bất 
		cứ những loại h́nh thể văn chương bóng bẩy nào.  
		Tuy nhiên, thế rồi bẳng đi sau một thời gian nhiều 
		năm dài ngủ yên, th́ cục đất Tha-La lại trở ḿnh thức gấc. Đó thờ́ kỳ mà 
		Tha-La đă bỗng dưng trở thành mảnh đất dụng vơ của đảng phái, đă chọn 
		lựa vùng đất nơi nầy để làm thí điểm địa bàn nhằm đẩy mạnh phong trào, 
		phát triển cơ sở. Dạo ấy, địa danh Tha-La lại càng được thêm nhiều người 
		biết đến v́ màu sắc động đậy về chính trị hơn là xóm đạo, dù là sự kiện 
		nầy chỉ xảy ra trong một giai đoạn ngắn ngủi mà thôi. Tuy nhiên, nguời 
		ta phải thực tế khách quan nói rằng lấy cái mốc thời gian của định mệnh 
		lịch sử được kể từ vào đầu Xuân 1974, và mùa Xuân 1988. Với những đề tài 
		thời sự nhạy cảm được cập nhật hóa trên b́nh diện quốc tế, về vấn đề 
		tranh chấp chủ quyền lănh hải ở biển Đông giữa các quốc gia liên quan 
		trong khu vực lúc bấy giờ, th́ địa danh Tha-La mới vĩnh viễn được coi 
		như là đă đi vào huyền thoại.   
		Sự kiện nầy, từ lâu đều đă được hầu hết nhân dân, 
		tất cả đồng bào ai cũng biết. Đó là do có sự quyết tâm chiến đấu bảo vệ 
		lănh thổ của dân tộc, xảy ra trong những trường hợp trùng ngẫu đặc biệt 
		khác thường. Và ư nghĩa tinh thần tiêu biểu về sứ mạng trung thành hi 
		sinh cho tổ quốc của bao người chiến sĩ đó, xưa nay, không khác ǵ với 
		lại h́nh ảnh của những vị Bồ-Tát vị tha từng ra tay bác ái để lấy thân 
		ḿnh cứu khổ, độ nhân trong lúc tai biến hiểm nguy. Và sự kỳ diệu nầy, 
		đă vô t́nh đan kết tạo thành một bức tranh in h́nh tấm huy chương "vị 
		quốc vong thân" chói rạng về mặt tinh thần, nghĩa vụ của hàng hàng đứa 
		con gương mẫu từng đứng lên thề nguyền dấn thân làm đẹp quê hương, tận 
		trung báo quốc. Và nếu phải nói theo thể xác định về danh dự ở hàng đầu 
		đó, th́ chính là do có sự đóng góp hi sinh cao quư của hầu hết những vị 
		anh hùng liệt sĩ đă can đảm, hiên ngang cùng nhau nhất tề quyết tâm bảo 
		vệ non sông tổ quốc từ vùng trời, vùng đất, vùng bể khơi, hải đảo.   
		Do vậy, trong mọi trường hợp nào tôi cũng xin kính 
		cẩn được nghiêng ḿnh trước vong linh của những vị anh hùng chiến sĩ vô 
		danh, vị quốc vong thân. Và thành tâm tạ tội, v́ không thể biết hết được 
		tất cả quư danh của từng những đứa con yêu mến của dân tộc để tôn vinh. 
		  
		Chính v́ lẽ đó mà tôi chỉ c̣n lại cơ hội duy nhất, 
		để nói về nguyên khí miền đất thiêng liêng Tha-La xóm đạo của quê hương 
		tôi từng tự hào. V́ nó đă từng có dịp hiến dâng một đứa con ưu tú, tài 
		hoa làm rạng rỡ xóm làng, một người bạn đồng hương gần gũi, chân thành, 
		thân thiết. Một vị anh hùng chiến sĩ can cường, bất khuất đă hiên ngang 
		xả thân quyết tâm chiến đấu với giặc xâm lăng để bảo vệ non sông trên 
		hải đảo Hoàng-Sa trong một trận thư hùng. Và oanh liệt phi thường, cho 
		đến phút cuối cùng đă anh dũng hi sinh đền nợ nước, để lại tấm gương măi 
		măi ngh́n thu bằng những nét son tô đậm được vinh danh ghi tạc ở bia 
		vàng **.   
		An-Tiêm MAI-LƯ-CANG  (Paris Xuân Nhâm-Th́n 
		2012)   
		(*) - Schla có nghĩa là khu nhà mát, nhà lồng, hay 
		cái trạm hoặc cái trại.  
		(**) - Ngụy-văn-Thà, cố Trung-Tá Hải-Quân Hạm 
		Trưởng Nhựt-Tảo HQ10 sinh trưởng tại Tha-La, nguyên là học sinh trường 
		Cao-Đẳng Trảng-Bàng, Tây-Ninh.   
		- Ghi chú:   
		Đề tài thời sự nhạy cảm tranh chấp về chủ quyền ở 
		biển Đông, hiện nay đă được hầu hết các phương tiện truyền thông quốc tế 
		thường xuyên theo dơi t́nh h́nh diễn biến. Đặc biệt, là về hai trận hải 
		chiến ở quần đảo Hoàng-Sa, Trường-Sa giữa Việt-Nam và Trung-Quốc. Và có 
		dịp phổ biến rộng răi về trường hợp của vị hạm trưởng anh hùng, đă tuẫn 
		tiết theo chiến hạm Nhựt-Tảo HQ10.  
		  
		
		
		(1)-Sau đây là nguyên văn của bài thơ 
		" Tha-La Xóm 
		Đạo"  
		
		Đây Tha-La xóm đạo
		 
		Có trái ngọt, cây lành
		 
		Tôi về thăm một dạo
		 
		Giữa mùa nắng vàng hanh
		 
		Ngậm ngùi Tha-La bảo:
		 
		Đây rừng xanh, rừng xanh
		 
		Bụi đùn quanh ngơ vắng
		 
		Khói đùn quanh nóc tranh
		 
		Gió đùn quanh mây trắng
		 
		Và lửa loạn xây thành
		 
		Viễn khách ơi! Hăy 
		dừngchân cho hỏi?  
		Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo 
		rưng rưng  
		Đây Tha-La, một xóm đạo 
		ven rừng  
		Có trái ngọt, cây lành im 
		bóng lá  
		Con đường đỏ, bụi phủ mờ 
		gót lạ  
		Ngày êm êm ḷng viễn khách 
		bơ vơ!  
		Về chi đây! Khách hỡi! Có 
		ai chờ?  
		Ai đưa đón?  
		Xin thưa. Tôi lạc bước!
		 
		Không là duyên, không là 
		bèo kiếp trước  
		Không có ai chờ, đưa đón 
		tôi đâu!  
		Rồi quạnh hiu, khách lặng 
		lẽ cuối đầu  
		T́m hoa rụng lạc loài trên 
		vệ cỏ  
		Ngh́n cánh hoa bay ngẩn 
		ngơ trong gió  
		Gạo rưng rưng, ngh́n hoa 
		máu rưng rưng  
		Nh́n hoa rơi, ḷng khách 
		bỗng bâng khuâng  
		Tha La hỏi? Khách buồn nơi 
		đây vắng!  
		Không. Tôi buồn v́ mây 
		trời đây trắng!  
		Và khách buồn v́ tiếng gió 
		đang hờn?  
		Khách nhẹ cười, nghe gió 
		nổi từng cơn  
		Gió vun vút, gió rợn rùng, 
		gió rít  
		Bỗng đâu đây vẳng véo von 
		tiếng địch  
		Thôi hết rồi! C̣n chi nữa 
		Tha-La!  
		Bao người đi thề chẳng trở 
		lại nhà  
		Nay đă chết giữa chiến 
		trường ly loạn!  
		Tiếng địch càng cao, năo 
		nùng ai oán  
		Buồn trưa trưa, lây lất 
		buồn trưa trưa  
		Buồn xưa xưa, ngây ngất 
		buồn xưa xưa  
		Ḷng viễn khách bỗng dưng 
		tê tái lạnh  
		Khách rùng ḿnh, ngẩn ngơ 
		người hiu quạnh  
		Thôi hết rồi! C̣n chi nữa 
		Tha-La!  
		Đây mênh mông xóm đạo với 
		rừng già  
		Nắng lổ đổ rụng trên đầu 
		viễn khách  
		Khách bước nhẹ theo con 
		đường đỏ quạch  
		Gặp cụ già đang ngóng gió 
		bâng khuâng  
		Đang đón mây xa...khách 
		bỗng ngại ngần:  
		Kính thưa Cụ, v́ sao Tha-La 
		vắng?  
		Cụ ngạo nghễ, cười rung 
		rung râu trắng  
		Nhẹ bảo chàng:- Em chẳng 
		biết ǵ ư?  
		Bao năm qua, khói loạn phủ 
		mịt mù  
		Người nước Việt ra đi v́ 
		nước Việt  
		Tha-La vắng, v́ Tha-La đă 
		biết  
		Thương giống ṇi, đau đất 
		nước lầm than  
		
		Trời xa xanh, mây trắng nghẹn 
		ngàn hàng  
		Ngày hiu quạnh ...ờ...ơ...hơ...tiếng 
		hát  
		Buồn như gió lượn, lạnh 
		dài đôi khúc nhạc  
		Tiếng hát rằng:
		 
		Tha-La hận quốc thù
		 
		Tha-La buồn tiếng kiếm
		 
		Năo nùng chưa! Tha-La 
		nguyện hi sinh  
		Ờ...ơ...hơ...có một đám 
		chiên lành  
		Quỳ cạnh Chúa, một chiều 
		xưa lửa dậy  
		Quỳ cạnh Chúa, đám chiên 
		lành run rẩy  
		Lạy đức thánh Cha
		 
		Lạy đức thánh Mẹ
		 
		Lạy đức thánh Thần
		 
		Chúng con xin về cơi tục 
		để làm dân  
		Rồi...cởi trả áo tu
		 
		Rồi...xếp kinh cầu nguyện
		 
		Rồi...nhẹ bước trở về trần
		 
		Viễn khách ơi ! Viễn khách 
		ơi!  
		Người hăy ngừng chân
		 
		Nghe Tha-La kể...nhưng mà 
		thôi khách nhé!  
		Đất đă chuyển rung ḷng 
		bao thế hệ  
		Trời Tha-La vần vũ đám mây 
		tang  
		Vui ǵ đâu mà tâm sự!
		 
		Buồn làm chi cho bẽ bàng!
		 
		Ờ...ơ...hơ, ờ...ơ...hơ...tiếng 
		hát  
		Rung lành lạnh, ngân trầm 
		đôi khúc nhạc  
		Buồn tênh tênh, năo ḷng 
		lắm khách ơi!  
		Tha-La thương người viễn 
		khách quá đi thôi!  
		
		Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào 
		trông nắng đổ  
		Nghe gió thổi như trùng 
		dương sóng vỗ  
		Là rừng cao vàng rụng, lá 
		rừng bay...  
		Giờ khách đi, Tha-La nhắn 
		câu nầy:  
		Khi hết giặc, khách hăy về 
		thăm nhé!  
		Hăy về thăm xóm đạo
		 
		Có trái ngọt cây lành
		 
		Tha-La dâng ngàn hoa gạo
		 
		Và suối mát rừng xanh
		 
		Xem đám chiên hiền thương 
		áo trắng  
		Nghe trời đổi gió, nhớ 
		quanh quanh... 
		
		Vũ-Anh-Khanh 
		  
		
		Nhà thờ Tha-La 
		Trảng-Bàng  
		
		(Chú thích 
		thêm :- Các h́nh ảnh đẹp trong bài nầy được trích ra từ trên mạng). 
		
		*********************** 
		Post ngày: 
		12/08/18  
		   |