|   | 
		
		 
		
		Bến Tre, Một Thời Thương Nhớ 
		
		
		NGƯỜI LONG HỒ  
		
		Về phía Nam của Định 
		Tường và phía Đông của Vĩnh Long là tỉnh Bến Tre, một tỉnh nằm cuối 
		nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp với Biển Đông. Dưới thời Pháp thuộc, tỉnh 
		lỵ Bến Tre được đặt tại Mỏ Cày. Tỉnh Bến Tre được thành lập chủ yếu do 3 
		cù lao lớn là cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Đất đai trên ba 
		cù lao này hoàn toàn được bồi đắp bởi phù sa của ba nhánh sông Cửu Long. 
		V́ nằm sát biển nên đất phù sa bị gió biển thổi đùn lên thành những 
		giồng đất cao, giữa các giồng là đất đai canh tác, rất ph́ nhiêu mầu mỡ. 
		Tuy trước đây Bến Tre trực thuộc Dinh Long Hồ (Vĩnh Long ngày nay), 
		nhưng lịch sử phát triển của Bến Tre lại gắn liền với lịch sử của tỉnh 
		Định Tường. Như trên đă nói trước năm 1679, cả vùng đồng bằng sông Cửu 
		Long mà bây giờ chúng ta G̣i là Nam kỳ, chưa có dấu vết của chính quyền 
		Nam triều. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng đích xác là không có lưu dân 
		Việt Nam tại đây vào thời kỳ này. Đến khi nhà Minh bên Tàu sụp đổ, những 
		quan quân của nhà Minh trong hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây không phục 
		nhà Thanh nên dong buồm đi về phương Nam t́m đất mới để dung thân. Nhân 
		cơ hội đó mà chúa Hiền cho phép họ vào vùng Thủy Chân Lạp khai khẩn đất 
		hoang. Thoạt tiên, họ tập trung ở những vùng Đồng Nai, Gia định và Mỹ 
		Tho, dần dần họ tiến xa về những vùng Bến Tre và G̣ Công. Dưới thời Gia 
		Long, Bến Tre là một trong ba tổng của phủ Kiến An (Kiến Hưng hay Cái Bè, 
		Kiến Ḥa hay Bến Tre và G̣ Công và Kiến Đăng hay Đồng Tháp Mười) thuộc 
		dinh Trấn Định (Định Tường). Đến đời Minh Mạng th́ nhà vua đổi dinh và 
		trấn ra làm tỉnh, Bến Tre và G̣ Công tách ra làm huyện Tân Ḥa. Đến đời 
		Thiệu Trị th́ G̣ Công được sáp nhập vào Gia Định, và Bến Tre được nhập 
		vào Định Tường. Khi Pháp chiếm Nam kỳ, chúng lần lượt phân lục tỉnh ra 
		thành 20 tỉnh và một phần của huyện Kiến Ḥa được tách ra làm tỉnh Bến 
		Tre vào năm 1907. Tổng diện tích là 170.000 mẫu Tây và tổng dân số thời 
		đó (theo thống kê của La Cochinchine) là 257.216 người, đa số là người 
		Việt. Hiện nay diện tích của tỉnh Bến Tre là 2.287 cây số vuông, và tổng 
		dân số là 1.319.000 người. Có nhiều giả thuyết về cái tên Bến Tre, có 
		người cho rằng v́ người Miên gọi là Kompong Ruusei hay Sóc Tre nên dân 
		Nam ta gọi là Bến Tre. Về vị trí th́ Bắc giáp Định Tường, phía Tây và 
		Tây Nam giáp Vĩnh Long, và phía Nam giáp Trà Vinh, Đông và Đông Nam giáp 
		biển Đông. Hiện tại Bến Tre có 9 quận: Trúc Giang, Hàm Long, Giồng Trôm, 
		Ba Tri, B́nh Đại, Đôn Nhơn, Mỏ Cày, Hương Mỹ và Thạnh Phú. Sau năm 1975, 
		Chợ Lách dược sáp nhập vào Bến Tre, tuy nhiên, quận Đôn Nhơn được sáp 
		nhập vào Mỏ Cày, Hương Mỹ và Thạnh Phú, và Hàm Long được sáp nhập vào Ba 
		Tri nên Bến Tre chỉ c̣n có 7 quận. Bến Tre là một vùng đất phù sa màu mỡ, 
		gồm ba cù lao lớn là cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Tuy mang 
		tên Bến Tre, nhưng đây chính là quê hương xứ dừa với những vườn dừa ngút 
		ngàn. Ngoài ra, Bến Tre c̣n trồng lúa, mía, thuốc lá, dưa, bông vải và 
		đủ loại trái cây. 
		  
		
		
		  
		  
		
		Tre c̣n là vựa muối 
		biển của cả vùng. Bến Tre tuy là một tỉnh nhỏ với bờ biển chỉ dài khoảng 
		60 cây số nhưng chỉ riêng một ḿnh Bến Tre đă chiếm 5 cửa biển của sông 
		Cửu Long ,( Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên) nên hải sản của Bến 
		Tre thật là phong phú và đặc sắc không thua bất kỳ nơi nào. Dù Việt Nam 
		chịu ảnh hưởng gió mùa vùng nhiệt đới, nhưng nhờ gần biển, địa h́nh bằng 
		phẳng, rải rác có những cồn cát xen lẫn với những cánh đồng ngút ngàn, 
		lại được bao bọc xung quanh bởi một mạng nhện sông kinh và rạch, nên khí 
		hậu Bến Tre luôn dễ chịu, chỉ trừ một vài vùng có đất giồng cao như B́nh 
		Đại, Ba Tri và Thạnh Phú nên về mùa nắng hơi có phần oi bức. C̣n cái nơi 
		khác như Mỏ Cày, Giồng Trôm, Trúc Giang và Hàm Long th́ bốn bề được sông 
		nước bao bọc nên luôn mát mẻ và rất thuận tiện cho việc giao thông vận 
		tải, cũng như thủy lợi. Ngoài 4 con sông lớn chảy qua Bến Tre là Mỹ Tho, 
		Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Bến Tre c̣n hai nhánh sông lớn của sông Hàm 
		Luông là sông Sóc Sải và sông Cái Gấm. Ngoài ra, Bến Tre c̣n có kinh 
		Chẹt hay kinh An Hóa nối sông Mỹ Tho, sông Ba Lai và rạch Trúc Giang; 
		kinh Song Mă nối sông Hàm Luông, Ba Lai và rạch Trúc Giang; kinh Hương 
		Điểm chạy từ cù lao Bảo qua rạch Sơn Đốc. Bến Tre c̣n có rất nhiều rạch 
		quan trọng như bên cù lao Bảo có các rạch Trúc Giang, rạch Lương Phú, 
		Ngă Con, Phú Hữu, Ba Tri, Mỹ Nhiên, Bà Hiền, Cái Bông, Sơn Đốc, Cái Mít 
		và Thủ Cửu. Bên cù lao Minh có các rạch Cái Mơn, Mỏ Cày, Cái Quao, Băng 
		Cung, Con ốc, Hồ Cỏ. Bên cù lao An Hóa có rạch Vũng Luông. Ngoài ra, Bến 
		Tre c̣n trên một trăm rạch nhỏ khác trong toàn tỉnh. Chính v́ thế mà từ 
		trên phi cơ nh́n xuống toàn tỉnh Bến Tre giống như là một mạng nhện sông, 
		kinh và rạch, cắt ngang cắt dọc, cắt xiên, cắt xéo, trông rất đẹp mắt. 
		Tuy đất Bến Tre phù sa màu mỡ, nhưng hăy c̣n những vùng hoang dă, chỉ có 
		cây bần, mắm, chà là hay giá mọc được mà thôi nhiều vùng hăy c̣n giữ 
		được nét nguyên sơ của một thời cha anh ta đi khai mở đất nước và không 
		khí cũng như môi trường thiên nhiên ở những nơi này rất trong lành như 
		vùng bờ biển B́nh Đại, An Thạnh và Thạnh Phú...Tuy nhiên, bên cạnh vẻ 
		đẹp thuở hoang sơ ấy, những nơi này vẫn có ve đẹp thuần hậu của những 
		thôn ấp với những đồng rẫy, vườn dừa và những vườn cây ăn trái rộng lớn. 
		Chính v́ thế mà ngoài chuyện rất nổi tiếng về dừa và lúa ra Bến Tre c̣n 
		sản xuất nhiều sản vật và hoa quả khác như ngô, khoai, dứa, thơm, chôm 
		chôm, măng cầu, vú sữa sầu riêng, vân vân. Ngoài những nơi hoang sơ ấy, 
		Bến Tre vẫn có một diện tích ruộng canh tác đáng kể, nhờ đất đai mầu mỡ 
		nên tổng số diện tích ruộng lên tới 113.000 mẫu nằm trong đất liền của 
		các quận Ba Tri, Thạnh Phú, Hương Mỹ và B́nh Đại... nên Bến Tre trở 
		thành một vựa lúa lớn của vùng đồng bằng sông Cửu Long. 
		
		V́ có một bờ biển 
		quan trọng nên ngư nghiệp tại Bến Tre cũng rất khả quan, chẳng những ven 
		biển, mà c̣n trong những con sông lớn nữa nên ngành thủy và hải sản của 
		Bến Tre cũng rất nổi tiếng với đủ loại cá, tôm, cua, ṣ, ốc, hến, đặc 
		biệt là cá thiều, cá cơm, và cá mối. Về thổ sản th́ Bến Tre là nơi nổi 
		tiếng về dừa, mía, cam, quít. Diện tích trồng dừa của Bến Tre lên 40.000 
		mẫu, vượt trội hơn các tỉnh khác trong Nam, gấp 5 lần Vĩnh Long và Mỹ 
		Tho, gấp 7 lần B́nh Định, gấp 20 lần Quảng Ngăi. Dừa là sản phẩm chẳng 
		những chỉ cho cây và trái, dừa tươi được dùng để gói bánh, lá dừa khô 
		dùng để nhóm lửa hay làm đuốc soi ban đêm, gáo dừa dùng làm củi rất tốt, 
		nhưng người ta c̣n dùng để múc nước và làm những đồ thủ công rất đẹp, củ 
		hủ dừa là một món ăn tuyệt hảo của dân miền Nam, vỏ dừa dùng se dây hay 
		dệt thảm, dầu dừa dùng chế xà bông rất tốt. Cũng chính từ dừa mà Bến Tre 
		rất nổi tiếng về món kẹo dừa, chẳng những xuất cảng đi các tỉnh khác, mà 
		c̣n được bán ra ngoại quốc nữa. Ngoài ra, Bến Tre c̣n nổi tiếng về ngành 
		dệt Chiểu. Trong thời Gia Long bôn tẩu lẩn trốn quân Tây Sơn, ông đă 
		nhiều lần lưu lại Bến Tre tại các nơi như cồn Đất, Đa Phước Hội vân vân. 
		Tỉnh Bến Tre hăy c̣n nhiều di tích lịch sử như miếu, đền, chùa cổ kính, 
		Hồ Cỏ thiên nhiên là một trong những thắng cảnh của tỉnh Bến Tre. Kỳ 
		thật đây là một cánh đồng cỏ xanh tươi bát ngát, mặt đồng lại thấp, bằng 
		phẳng và ŕ như mặt hồ không một gợn sóng, có lẽ v́ thế mà dân chúng 
		trong vùng gọi đây là hồ cỏ, chứ không gọi là đồng cỏ. 
		
		Ngoài ra c̣n có chùa 
		thờ Năm vị Cổ Phật ở Phú An Ḥa. Về nhân vật lịch sử th́ Bến Tre có ông 
		Chưởng cơ Phạm văn An, pḥ Nguyễn ánh, ông Hoàng văn Tứ từng theo hầu 
		cận Nguyễn Ánh, ông Nguyễn hoài Quỳnh từng làm tới chức H́nh Bộ Tả Tham 
		Tri ở Bắc Thành dưới thời Gia Long. Ngoài ra, Bến Tre c̣n có ông Trương 
		tấn Bửu, di dân từ Gia Định, nhưng sống suốt đời ở Bến Tre, theo pḥ tá 
		Gia Long tới chức Tiền quân Phó tướng. Đời Minh Mạng, Trương tấn Bửu đă 
		vâng lệnh Lê văn Duyệt nạo vét kinh Vĩnh Tế. Nói đến Bến Tre là phải nói 
		về cụ Phan thanh Giản. Nội tổ gốc Trung Hoa nhưng sáng lập nghiệp tại 
		vùng gánh Mù U, nên cụ Phan sanh ra lên tại đất Bến Tre này. Cụ đậu thi 
		Hương năm 1825, và Tiến Sĩ năm 1826. Trong suốt thời gian hoạn lộ dù 
		thăng hay dù trầm, cụ vẫn một mực cần chánh thanh liêm. Trải qua ba 
		triều, cụ đă phục vụ khắp các miền đất nước, tuy nhiên, vào cuối đời th́ 
		cụ làm Kinh Lược Sứ 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên và tuẫn tiết 
		khi thành Vĩnh Long thất thủ năm 1867. Cụ quả là một tấm gương cả đời hy 
		sinh cho dân cho nước, thật đáng cho chúng ta noi theo. Hiện không có 
		đền thờ cụ Phan tại Bến Tre v́ thế lực và xu thế chính trị đang thống 
		trị đất nước muốn triệt hạ uy danh của cụ, nhưng trong ḷng con dân Nam 
		Kỳ, đâu cũng là đền thờ của cụ, từ gánh Mù U đến khắp các hang cùng ng̣ 
		hẻm cửa Nam Kỳ Lục Tỉnh người dân hồi trước và dân bây giờ vẫn xem cụ là 
		một dũng tướng đă hết ḷng v́ nước. Hiện trong xă Bảo Thạnh, quận ba Tri 
		vẫn c̣n mộ cụ Phan được xây bằng đá ong, với một tấm bia bằng chữ Hán 
		rất sơ sài trong khuôn đất hương quả, do một người cháu 7 đời của cụ 
		trông coi. Bến Tre c̣n là quê hương của Chánh Lănh binh Nguyễn Ngọc 
		Thăng, người đă cố thủ trong trận tử thủ đồn Thủ Thiêm, rồi sau đó kéo 
		quân về hợp cùng Trương Công Định tiếp tục  đánh Pháp tại G̣ Công. Lănh 
		binh Thăng tử trận năm 1866. Sau Lănh binh Thăng, có các ông Phan Tôn và 
		Phan Liêm (con cụ Phan thanh Giản) cũng nổi lên đánh Pháp tại Bến Tre. 
		Sau khi cụ Phan tuẫn tiết và để lại di chúc cho các con đừng ra hợp tác 
		với Pháp th́ 2 ông Phan Tôn và Phan Liêm chiêu mộ hào kiệt ở các vùng 
		Bến Tre, Vĩnh Long, Sa Đéc nổi lên đánh Pháp, nhưng v́ thế cô sức yếu 
		nên cuộc khởi nghĩa thất bại. Ngoài ra cụ Nguyễn đ́nh Chiểu cũng là một 
		tấm gương yêu nước hiếm có trong thời tao loạn. Tổ tiên cụ đồ Chiểu quê 
		Ở Huế, cha cụ làm quan dưới quyền Tả quân Lê văn Duyệt, nên sau vụ Lê 
		văn Khôi, ông bèn đem cả nhà về miền Trung, nhưng bị vua Minh Mạng bắt 
		tội xử tử, nhưng nhờ triều thần can thiệp, cha ông được miễn tội. Sau đó 
		ông đem Nguyễn đ́nh Chiểu và các con khác Gia Định lập nghiệp. Năm 22 
		tuổi Nguyễn đ́nh Chiểu đậu Tú tài, đến năm 1849 khi vừa ra Huế ứng thí 
		thi Hương th́ hay mẹ mất, cụ bỏ thi trở ra miền Nam. Dọc đường v́ buồn 
		rầu than khóc mẹ mà cụ mang bệnh đến nỗi mù cả đôi mắt. Sau khi thành 
		Gia Định thất thủ, cụ mang cả gia quyến về Cần Giuộc lánh nạn, sau đó cụ 
		lại dời về Ba Tri. Tại đây cụ tiếp tục dạy học và liên lạc với nghĩa 
		binh. Chủ tỉnh Bến Tre 4 lần xin ra mắt để chiêu dụ cụ, nhưng đều thất 
		bại. Thơ văn cụ để lại hăy c̣n rất nhiều bài thơ chẳng những nói lên tâm 
		trạng bất hợp tác với mà c̣n khuyên tấn sĩ dân nếu không chống Pháp được 
		bằng súng đạn nên dùng ng̣i bút mà chống và khơi dậy ḷng yêu nước của 
		nhân dân cho đến khi không c̣n bóng dáng quân thù. Cụ mất năm 1888 tại 
		Bến Tre. Ngoài ra tại xă Bảo Thạnh, Ba Tri c̣n có mộ cụ Vơ Trường Toản. 
		Cụ là một nhà nho lớn của Việt Nam vào thế kỷ thứ 18, với kiến thức uyên 
		bác và chí khí thanh cao, dù quê quán của cụ ở B́nh Dương, nhưng khi cụ 
		mất, học tṛ của cụ là những quan chức thời danh lúc ấy đă dời lăng mộ 
		của cụ về Bến Tre để cải táng sau khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay giặc 
		Pháp. Cụ Vơ trường Toản là thầy của các cụ đồ Chiểu, Trịnh hoài Đức, Lê 
		quang Định, Ngô nhân Tịnh và Phan Thanh Giản. Cụ mất năm 1792 trong khi 
		đất nước đang hồi suy mạt v́ Nguyễn Ánh đang rong ruổi đó đây hết rước 
		Xiêm rồi rước Tây về dày xéo mả tổ với ư đồ giành giựt lại chiếc ngai 
		vàng cho ḍng họ. Bến Tre cũng là quê hương của nhà thơ nữ Sương nguyệt 
		Ánh (con của cụ đồ Chiểu). Bà từng làm chủ bút tờ “Nữ Giới Chung" tờ báo 
		đầu tiên cho phụ nữ Việt Nam. Có thể nói, bà là một nữ sĩ tài ba, ng̣i 
		bút sắt thép không kém ǵ cha ḿnh. 
		
		Ngày trước khi cha 
		anh chúng ta đi khai mở đất đai về phương Nam, th́ đi đâu đến đâu quư 
		ngài cũng xây dựng đ́nh chùa đến đấy. Chính v́ thế không riêng ǵ Bến 
		Tre mà cả miền Nam thoáng đâu đâu chúng ta cũng thấy những kiến trúc mái 
		cong của đ́nh chùa. 
		
		Riêng tại Bến Tre, 
		đa số dân chúng theo đạo Phật và thờ ông bà, tuy nhiên, cũng có một ít 
		theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành, Cao Đài và Ḥa Hảo. Tại Bến Tre hiện c̣n 
		rất nhiều ngôi cổ tự được xếp vào hàng di tích như chùa Hội Tôn ở xă 
		Quới Sơn, được Thiền sư Long Thiền xây từ thời vua Lê Hiển Tông (1740). 
		Tại ấp Tân Quới Đông B, xă Minh Đức, quận Mơ Cày có chùa Tuyên Linh, 
		được xây dựng vào năm 1861. Ngay tại thị xă Bến Tre có chùa Viên Minh, 
		được xây dựng từ thế kỷ thứ 18. Đến năm 1951, chùa được trùng tu lại, 
		trước khuôn viên chùa có tượng Quán Thế âm Bồ Tát rất lớn. Hiện tại, hệ 
		phái Tăng Già Khất Sĩ phát triển rất mạnh tại Bến Tre với hàng chục ngôi 
		tịnh xá, mỗi tuần đều có thuyết giảng Phật pháp cho nhân dân trong vùng. 
		Tại quận Ba Tri, xă Phú Lễ c̣n ngôi Đ́nh Phú Lễ được xây dựng từ những 
		ngày đầu cư dân Việt Nam đến sống với người Khmer tại đây. Hiện nay dân 
		chúng vẫn thường xuyên lai văng lễ bái, đặc biệt là vào hai kỳ lễ, lễ Kỳ 
		Yên hai ngày 18 và 19 tháng 3 âm lịch, cũng như lễ Cầu Bông vào ngày 
		mồng 9 và 10 tháng 11 âm lịch. Tại các đ́nh thần trong hai quận B́nh Đại 
		và Ba Tri, hàng năm đến ngày 16 tháng 6 âm lịch c̣n có lễ hội tế thần cá 
		ông rất linh đ́nh. Ngoài ra, tại Bầu Dơi thuộc quận Giồng Trôm hiện c̣n 
		một ngôi nhà thờ cổ tên La Mă rất lớn. Răi rác khắp nơi trong tỉnh Bến 
		Tre cũng có nhiều thất Cao Đài với lối kiến trúc thật đặc sắc. Nói đến 
		Bến Tre không ai không liên tưởng đến giai thoại "ông Già Ba Tri” của 
		tỉnh này. Theo các bô lăo, thời vua Tự Đức, có một ông lăo đă dám đi bộ 
		hơn một ngàn cây số từ Bến Tre ra đến kinh đô để kêu oan. Dù đây chỉ là 
		một giai thoại, nhưng nó cũng nói lên tánh khí kiên cường của người dân 
		Bến Tre. Ngày nay chẳng những người Bến Tre cảm thấy hănh diện về quê 
		hương xứ dừa mà dân Nam Kỳ Lục Tỉnh cũng hănh diện về vùng đất nước cuồn 
		cuộn, sóng vỗ dạt dào cũng như tánh t́nh hiền ḥa nhưng bất khuất của 
		đồng bào Bến Tre. 
		
		Đất Cái Mơn, nay 
		thuộc Bến Tre c̣n là quê hương của cụ Vĩnh Kư, một người hiếu học thông 
		minh, và nói được nhiều thứ tiếng. Gạt qua chuyện cụ đă hợp tác chặt chẽ 
		với Pháp G̣n, cụ có công rất lớn với sự phát triển của chữ Quốc ngữ tại 
		Việt Nam. Cụ chủ trương canh tân cải cách và mang văn Tây về truyền bá 
		cho dân Việt. Hiện tại hăy c̣n rất nhiều tác phẩm có giá trị của cụ như 
		bộ Văn Phạm Việt Nam viết bằng chữ Pháp, Truyện Đời Xưa viết bằng quốc 
		ngữ, Học Vỡ Ḷng Tiếng Việt viết bằng chữ Pháp. Cụ mất năm 1889 tại Sài 
		G̣n. Ông là người đă biên soạn bộ Tự Điển Pháp Việt đầu tiên. Trương 
		Vĩnh Kư là bậc tiền hiền chữ quốc ngữ trong toàn cơi Việt Nam. Thuở nhỏ 
		v́ cha mất sớm nên mẹ cho ông theo Cụ Tám rồi học chữ quốc ngữ, rồi sau 
		ông theo Cố Long và được đưa sang du học tại Penang (nhượng địa của Mă 
		Lai cho Anh quốc). Sau ông về nước làm thông ngôn cho Pháp, rồi phụ 
		trách trường thông ngôn ở Gia Định, cũng như tờ Gia Định Báo. Ông đă để 
		lại cho hậu thế nhiều tác phẩm chữ quốc ngữ và chữ Pháp, trong đó có bộ 
		Văn Phạm Việt Nam (viết bằng chữ Pháp cho người Pháp dùng), Truyện Đời 
		Xưa (viết bằng quốc ngữ), và Học Vỡ Ḷng Tiếng Việt (viết bằng chữ Pháp). 
		Trước khi về hưu ông đă từng làm cố vấn cho vua Đồng Khánh. Ông mất năm 
		1899 tại Gia Định. Trương Vĩnh Kư chẳng những là một trong thế giới thập 
		bát tú (18 người thông thái) vào thế kỷ thứ 19, đă để lại cho nền văn 
		chương chữ quốc ngữ của chúng ta một kho báu văn chương, mà ông c̣n là 
		người đă giúp thay đổi hẳn bộ mặt những vườn cây ăn trái của Cái Mơn nói 
		riêng và của toàn quốc về sau nói chung. Chính ông đă mang từ Mă Lai 
		những cây giống sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, ḅn bon, li-cu-ma về 
		trồng tại Cái Mơn. Từ đó đến nay dù mới chỉ hơn 150 năm, nhưng người bản 
		địa cứ ngỡ là loại cây trái ấy là của dân ḿnh, v́ những đặc sản ấy vừa 
		ngon vừa tốt trái hơn nơi đă sản sanh ra nó. Ngoài những cây ăn trái nổi 
		tiếng của miền nhiệt đới, Cái Mơn hiện nay c̣n là xứ của các loài hoa, 
		từ hoa bản xứ như cúc, vạn thọ, hồng...đến những loại hoa được đưa vào 
		từ miền Bắc hay từ Thái Lan sang với muôn màu muôn sắc làm cho Cái Mơn 
		trở thành một khuôn viên cây ăn trái, cây kiểng và vườn hoa dọc theo hai 
		bên bờ sông. 
		
		V́ được bao bọc bởi 
		sông nước nên Bến Tre mang một nét đặc thù của miệt vườn miền Nam. Ngày 
		trước và ngay cả bây giờ, dù đường giao thông trên bộ đă được xây dựng 
		nhưng phương tiện di chuyển chính của người dân Bến Tre vẫn là thuyền bè. 
		Nhiều khi cả gia đ́nh dong ruổi đó đây trên một chiếc ghe suốt từ năm 
		này qua tháng nọ nên t́nh cảm người dân Bến Tre thật gắn bó với sông 
		nước, họ sống thật giản dị hài ḥa với ruộng đồng và với những người 
		quanh họ. Cũng chính v́ vậy mà măi cho đến bây giờ, những ai có dịp đi 
		trên vùng sông nước Bến Tre, vẫn c̣n nghe được những câu hát điệu ḥ 
		trên sông nước, những lời ca, điệu hát, giọng ḥ, hoặc những bản cải 
		lương mà âm hưởng và ư nghĩa vẫn c̣n hướng về một thời cha anh chúng ta 
		đi khai mở đất nước về phương Nam. Nhắc đến Bến Tre mà không nhắc về 
		những cồn và những sân chim hay làng trái cây tại đây quả là một thiếu 
		sót lớn. Ngay trong quận Châu Thành tỉnh Bến Tre, giữa sông Tiền Giang, 
		thuộc xă Tân Thạch tức là ngay cửa ngơ từ Mỹ Tho qua Bến Tre, có một cái 
		cồn rất nổi tiếng mang tên Cồn Phụng, quê hương của ông Đạo Dừa. Cồn nằm 
		cách thị xă Bến Tre 12 cây số, diện tích toàn cồn vào khoảng 50 mẫu tây. 
		Dân cư ở đây chủ yểu sống bằng nghề trồng cây ăn trái và làm đồ thủ công 
		nghệ từ cây dừa. Hiện trên cồn c̣n ngôi ṭa tháp của ông Đạo Dừa được 
		xây trên một khu đất rộng khoảng 1.500 mét vuông. Ṭa tháp có lối kiến 
		trúc rất độc đáo với những mảng đắp chạm rồng phượng bằng những miếng 
		miễng vỡ của tô, chén dĩa. Chiếc cầu thang lên đỉnh tháp uốn lượn theo 
		h́nh trôn ốc trông rất đẹp mắt. Cách thị xă Bến Tre chừng 20 cây số, có 
		Cồn Qui (giống như h́nh con rùa), nằm trên Sông Tiền, giữa hai xă Tân 
		Thạch và Quái Sơn thuộc quận Châu Toàn cồn nổi tiếng với những vườn cây 
		ăn trái và cá tôm đủ loại. Cách thị xă Bến tre khoảng 10 cây số tại xă 
		Hưng Phong, quận Giồng Tôm có cồn ốc hay c̣n gọi là cồn Hưng Phong. Cồn 
		dài trên 8 cây số và diện tích trên 1 cây số vuông với những vườn cây ăn 
		trái xanh tươi cũng giống như cù lao An Thành ở Vĩnh Long hay cù lao 
		Thới Sơn ở Mỹ Tho. Trong xă Tiên Long thuộc quân Châu Thành, ngang với 
		làng Cái Mơn trên sông Tiền c̣n có cồn Tiên. Cồn rộng chỉ khoảng 7 mẫu 
		tây, nằm cách thị xă Bến Tre khoảng 23 cây số, đây là một băi tắm trên 
		sông rất đẹp, hàng năm vào ngày 5 tháng 5 có hàng vạn người từ các nơi 
		đổ xô về đây trên những chiếc tam bán hay tắc rán để tham dự lễ hội tắm 
		sông ném bùn thật vui nhộn. Giữa hai xă Mỹ Ḥa và Tân Xuân thuộc quận Ba 
		Tri, gần cửa Ba Lai, hiện c̣n có một sân chim rất rộng, khoảng trên 50 
		mẫu tây, trong đó có khoảng trên 15 mẫu rừng chà là và khoảng 7 mẫu rừng 
		đước chưa khai phá, đó là sân chim Vàm Hồ. Từ thị xă Bến Tre đến sân 
		chim Vàm Hồ khoảng trên 50 cây số, người ta có thể đi đường bộ hay đường 
		sông đến đây. Đây là nơi trú ngụ của hàng triệu chim đủ loại từ c̣ ngà, 
		c̣ trắng, c̣ ruồi, vạc, sếu, le le, cồng cộc, ḍng dọc, diệc xám, quắm 
		trong, dơi, cũng như các loại thú hoang vùng đồng bằng như chồn, rắn, 
		rùa, cua đinh, càng đước, v.v. Trên đường vào sân chim, dọc theo hai bờ 
		sông Ba Lai là một thảm thực vật xanh mát với đủ loại cây trái, từ cây 
		ăn quả đến cây tạp như xoài, ổi, mận, mít, chôm chôm, dừa, cam, quít...đến 
		so đũa, b́nh bát, điên điển, v.v. Trong sân chim nhiều nhất là các loại 
		cây đước, tra, chà là đầy gai (có lẽ đây là bản năng tự vệ của chúng). 
		Vào khoảng từ 4 đến 5 giờ chiều, hàng triệu con chim từ khắp nơi bay về 
		Vàm Hồ biến nơi đây trắng xóa tương tự như một cảnh tuyết phủ miền Bắc 
		cực. Về giao thông đường bộ, tỉnh lộ 60 nối liền Mỹ Tho, Bến Tre, Mỏ Cày 
		và Trà Vinh. Tỉnh lộ 57 nối liền Chợ Lách, Mỏ Cày và Thạch Phú (cắt tỉnh 
		lộ 60 tại Mỏ Cày). Ngoài ra, từ tỉnh lộ 60 c̣n có các hương lộ 17 đi 
		B́nh Đại, hương lộ 26 đi Ba Tri, hương lộ 884 đi Cái Mơn. 
		Nguồn: saigontimesusa  |