| 
		 
		
		Bến Tre Quê Hương 
		Tôi 
		
		
		HỒ 
		LIỄU 
		
		  
		
		Hò ơi! Bến Tre 
		dừa xanh bát ngát 
		
		Đường đi Ba vác 
		gió mát tạnh xương 
		
		Em về giữa chợ 
		Giồng Trôm 
		
		Đừng quên chợ 
		Lách, Cái Mơn anh đợi chờ! 
		
		Bến Tre! Đã bao phen 
		thay tên đổi họ nhưng cuối cùng nhân dân vẫn quen gọi quê mình là Bến 
		Tre! 
		
		Tên Bến Tre có từ 
		thuở xa xưa. Đến cơn lốc mùa Thu, họ đổi tên Bến Tre thành tỉnh Đồ Chiểu 
		để hấp dẫn quần chúng nhân dân. Người dân tỉnh Bến Tre vẫn lòng son dạ 
		sắt thể 
		
		hiện ý chí của mình 
		qua thời Tây Leroy, định biến tên tỉnh thành ra Trúc giang thay vì tên 
		tỉnh. Sau này lúc chiến tranh sôi động, Bến Tre thành Kiến Hòa. Một 
		trong ba Kiến có nhiều khói lửa nhất: Kiến Hòa, Kiến Phong, Kiến Tường. 
		  
		
		  
		  
		
		Bến Tre gồm có mười 
		quận: Trúc Giang, Đôn Nhơn, Hàm Long, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Ba Tri, Bình Đại, 
		Giồng Trộm, Thạnh Phú Và Phước Hưng... Toàn tỉnh được 116 xã, kinh tế 
		chánh là dừa. Nhưng không phải chỉ đơn giản có bấy nhiêu thôi. Đành rằng 
		Bến Tre có nhiều dừa, nhưng ở bên dưới gốc dừa râm mát còn có một kho 
		tàng quý giá đặc sản mà thiết nghĩ ít có nơi nào sánh kịp. 
		
		Trước hết hãy nói về 
		danh nhân của tỉnh. Ở Bến Tre có hai danh nhân lừng lẫy mà cả nước không 
		làm sao quên được công ơn. Đó là thi hào ái quốc Nguyễn Đình Chiểu. Ngôi 
		mộ tọa lạc tại Ba Tri. Ông là tác giả của quyển Lục Vân Tiên trung trinh 
		tiết nghĩa và cả 
		
		ngàn bài thơ, văn tế 
		ái quốc khác. Thứ hai là bác học Trương Vĩnh Ký, cha đẻ của tự điển quốc 
		ngữ ở thời kỳ phôi thai, mà sau này cả nước vin vào đó để cải tiến cho 
		nước mình có một chữ viết ngày càng tinh vi hơn. Mộ của Pétrus Trương 
		Vĩnh Ký nằm ở quận Cái Mơn. 
		
		Bên kia bờ rạch Nhỏ 
		ngang sông nhà thờ lớn. Nhà thờ lớn Cái Mơn có một lối kiến trúc tinh vi 
		đồ sộ cùng một kích cỡ của nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn. Mộ của nhà Bác Học 
		nằm khiêm nhường ở một liếp vườn dừa tương đối không to lắm. Mộ xây bằng 
		đá mài có mái che. Thường thì các Ky Tô hữu đến viếng trong những ngày 
		thánh lễ. Có lúc mộ cũng im lìm suy tư như hiền triết đang suy tư vận 
		nước đang nổi trôi. 
		
		Sau nhà thờ lớn có 
		một cùng lãnh địa tôn nghiêm của Soeurs thuộc dòng tu kín. Trừ ra sau 
		1975 thì không biết chứ nơi đây xưa nay được coi là vùng cấm địa, như 
		một quốc gia trong một quốc gia. 
		
		Cái Mơn có danh 
		nhân, có nhà thờ lớn. Ngoài Ra Cái Mơn lại là một địa danh trù phú mang 
		lại kinh tế lớn cho tỉnh nhà. 
		
		Sản phẩm của Cái Mơn 
		là Sầu Riêng, chôm chôm, măng cụt... Sầu riêng, khổ qua Cái Mơn màu xanh 
		biên biếc. Cơm vàng hạt nhỏ. Ăn vào thơm bát ngát, mát miệng mát hồn. 
		
		Cạnh Cái Mơn còn có 
		xã Trường Thịnh là quê hương của bòn bon. Trái bòn bon Trường Thịnh xâu 
		dài trái khít. Lúc chín ngả màu vàng nõn nà. Khi ăn vào ít có ai bị 
		trúng thực hoặc xót ruột như dùng các loại trái cây khác. 
		
		Bên kia sông cái là 
		cù lao Tiên Long, Phú Long, nơi tiếp cận với xã Tiên Thủy. Người xưa gọi 
		xã đó là xã Tiên Thủy cũng có lý do của nó. Vì nước lộ ở đây chỉ vô tới 
		vàm là theo thủy triều trở ra biển. Hai xã Tiên Thủy, Tiên Long quanh 
		năm nước ngọt. Nước kém, nước rong, nước trong, nước bạc đều vẫn giữ một 
		vị ngọt mát tự nhiên. Dân chỉ múc nước vô lu chờ nước lóng là bên trên 
		nước ngọt thuần túy, không có lẫn phèn hôi như nước city của chúng ta ở 
		đây. Có lẽ nhờ đó mà khu vực cù lao này là nơi cư ngụ của loài ốc gạo. 
		Có khi người ta gặp ốc gạo kết bè kiếm cồn cát dầy để sanh xôi nẩy nở. 
		Gặp lúc như vậy, ghe xuồng nếu không đi gấp thì họ cắm sào chờ nước ròng 
		để mò ốc. Vì ốc gặp xuồng là khép mài lại, nhả không khí ra cho chìm tại 
		chỗ chớ không hề di chuyển nơi đâu. 
		
		Thuở thanh bình xa 
		xưa, người ta ăn ốc kỹ lắm. Họ lựa con nào lớn mới bắt lên. Ốc mới bắt 
		đem ngâm nước cơm vo để hồi lâu, ốc sẽ nhả cát ra. Cứ thế bỏ vào nồi để 
		lên bếp không đổ nước. Cho vào nồi tí muối bọt thôi. Ốc chín sẽ rớt mài 
		ra phơi bày thân ốc vàng 
		
		tươi, mập ú. Làm 
		nước mắm ớt cho ít xoài sống kẹp vào mà nhai. Con ốc thơm thơm béo béo 
		đòn rúm. Có ít xoài sống tiễn đưa! Ôi còn gì ngon hơn nữa đây, thưa quý 
		vị? 
		
		Trên xã Tiên Long 
		Tiên Thủy là xã Phú Long. Lưng chừng đường đi lên Phú Long có một ngã ba 
		sông tên là ngã ba Bến Rớ. Ngã sông này chạy về Phú Túc, Phú Đức, Rạch 
		Đình. Bên kia là Rạch Gầm Xoài Hột, nơi mà Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ làm cỏ 
		quân Xiêm La (Thái Lan) từ 20.000 quân xuống còn 1.600 phế binh và cho 
		tàu đưa về nước theo diện nhân đạo! 
		
		Ngã ba Bến Rớ có câu 
		hò rất dễ thương: 
		
		"Ba phen quạ nói 
		với diều 
		
		Ngã ba Bến Rớ có 
		nhiều cá tôm" 
		
		chớ không phải: 
		
		"Vĩnh Long cầu 
		sắt có nhiều xác Tây" 
		
		Một cánh đồng bát 
		ngát phân chia Tiên Thủy Tiên Long thành ranh giới. Bên kia ven đồng là 
		xã Quới Thành, Thành Triệu. Hai xã này là quê hương của loài nấm mối. 
		Một sản phẩm quý hiếm của giới tu hành mà mỉa mai thay, dân nhậu lại 
		thích càng dữ tợn nữa. 
		
		Ở các nơi khác, nấm 
		mọc tự nhiên có gò. May lắm là nhổ được nửa rổ, nửa thúng, hoặc một 
		thúng là cùng. 
		
		Đàng này dân xã Qưới 
		Thành biết khai thác đặc tính của nấm để biến thành nguồn kinh tế đáng 
		kể. 
		
		Đến mùa khô, dân 
		chúng chặt chót tàu lá dừa ném dày trên liếp vườn. Để lá cho mục và lá 
		sẽ là thực phẩm cho loại mối. Mối có thực phẩm sẽ ở nguyên tại chỗ không 
		vô nhà phá phách. Dễ sanh sôi nẩy nở và sẽ trồng nấm vào mùa mưa sắp 
		tới. 
		
		Người dân có lịch 
		nấm mọc. Ngày tháng... chỉ xê xích vài hôm thôi. Lúc mưa vừa chào sân 
		thì họ mau mau hốt bùn ở dưới mương dừa ném lên liếp. Bùn vừa ráo, cơn 
		mưa kế tiếp bắt đầu, nắng ngã màu vàng hanh là lúc nấm mọc. Tai nấm mọc 
		xuyên qua lớp đất ướt, thân nấm dài gấp đôi gấp ba lúc bình thường. Ngù 
		chưa mở dù, cân nặng ký lại dòn ngon. 
		
		Đem nấm rửa sạch để 
		ráo trộn ít muối ớt cho vào lá bạc hà non, thêm tí mỡ hành gói kín đem 
		để lên lửa than cho chín. Nấm tỏa mùi hương bát ngát - Ăn vào sẽ thấy 
		nấm vừa dòn, vừa ngọt, vừa thơm... đến thánh nhân cũng phải gật gù. 
		
		Nãy giờ nhắc nhiều 
		đến mồi quá mà chưa kể đến món mà các đấng mày râu đợi chờ có vẻ sốt 
		ruột: đó là nước mắt quê hương. Vâng! Bến Tre của chúng tôi chẳng những 
		có, mà có một cách hãnh diện vì có rượu đế nào sánh kịp rượu chợ Thơm, 
		giữa Mỏ Cày và Hương Mỹ. 
		
		Cần Thơ có rượu Cái 
		Trâm, Rạch Giá có rượu Đường Xuồng, ven đô có rượu Hốc Môn, Gò Đen; 
		nhưng nếu đem so với đế Chợ Thơm thì chắc phải chào thua. Dân Chợ Thơm 
		nấu rượu bằng nếp Hương chọn kỹ. Nước Hà Nàm pha với nước nhì là tắt lửa 
		dẹp kháp. Rượu Hà Nàm uống cháy ruột, rượu Hàng Ba nấng bọn dạ. Hà Nàm 
		pha với nước nhì cho một nồng độ như cognac Pháp. Hương vị quê hương 
		thấm thía tình người. 
		
		Xin quý vị nam tử 
		xách lít rượu Chợ Thơm xuống Ba Tri, quê của cụ Đồ Chiểu, quý vị sẽ có 
		mồi nhâm nhi đúng mức: Đó là sò huyết Ba Tri! Con sò không to như sò 
		Rạch Giá nhưng sò Ba Tri thân tròn thịt mập. Sò được nướng vừa há mồm 
		thì tách ra cho ít chanh, 
		
		tiêu vào. Mình sò đỏ 
		hỏm mập ù. Mùi vị thơm tho, ngọt béo. Bây giờ có sẵn rượu đế Chợ Thơm 
		xin đưa cay một chút, quý vị sẽ thấy tâm hồn mình bay lên tám ngả sơn 
		khê! 
		
		Chưa hết đâu! Quê 
		hương của cụ Nguyễn Đình Chiểu còn có một sản phẩm trứ danh nữa đó là 
		cua biển Ba Động. 
		
		Cua Ba Động bắt lên 
		lúc tối trời. Thân cua đen kịch nặng nề. Đem nướng lên thịt cua trắng 
		phau đầy đặn, gạch cua đỏ hỏn chứ không phải vàng hoe như cua nơi khác. 
		Thịt cua Ba Động ngọt lịm chứ không mặn như cua nơi khác. Đám tiệc đám 
		cưới mà đem về được vài xâu cua Ba Động để làm chả thì còn gì hơn nữa. 
		
		Bên trên bản đồ một 
		chốc là Giồng Trôm - Quê hương của bánh tráng mè và bánh phồng: 
		
		Em tráng bánh tráng, 
		anh quết bánh phồng 
		
		Cảm thương đôi má 
		ửng hồng, hẹn em chợ Mỹ Lòng ăn cháo về đêm 
		
		Chợ Mỹ Lòng ban ngày 
		sinh hoạt có vẻ thưa thớt, nhưng ban đêm lại đông vui tấp nập đủ loại 
		thực phẩm tươi ngon. Do đó nam thanh nữ tú thường hẹn nhau ra chợ Mỹ 
		Lòng về đêm. 
		
		Bên kia cù lao Minh 
		là Bình Đại, quê hương của Tây Le Roy và Đồng Văn Cống. Tây Le Roy đánh 
		giặc hay, biết dụ dân, cho nên có lúc y rượt Đồng Văn Cống chạy quên mặc 
		áo. 
		
		Đưa nữ địch vận vô, 
		nữ địch vận mê mẩn tâm thần, quyết theo chàng về Pháp. Tây Le Roy biết 
		ca vọng cổ, biết gõ nhịp song lang. Về sau qua Pháp, Le Roy bắt Tây 
		thiệt là tướng Salan giam vô bót. 
		
		Cách một bờ Cửu Long 
		là Thạnh Phú. Nơi đây Chà Là mọc thành rừng. Mới nhìn tưởng đâu là đất 
		hoang rừng rậm. Dân làm sao sống nổi. Nhưng thưa không. Rừng Chà Là đó 
		là 
		
		tiền bạc đấy. Dân ở 
		đây chuyên nghề chặt củ hủ Chà Là con. Mỗi đọt như vậy là một vị Đuông 
		nằm chễm chệ ở trong. Dân chặt đọt Chà Là bó thành bó, đem gấp ra chợ 
		Bến Tre 
		
		hoặc Sài Gòn để bán. 
		Bó Chà Là về tới Chợ Cũ Sài Gòn là tư thế nó khác rồi. Nó nằm trong tiệm 
		Chà Và nhà hàng đặc sản - Đắt không thể tả - Khách đông không thể đếm. 
		
		Người ta tách đọt 
		Chà Là bắt hoàng tử Đuông ra cho lội muối một chút là nó vừa sạch vừa 
		bất động. Nhét vào thân Đuông một hạt đậu phộng rang. Thoa ít nước xì 
		dầu hoặc nước mắm Phú Quốc rồi chiên bơ. Con Đuông chiên vừa béo vừa 
		thơm. Đúng ra chiên bơ cũng còn hơi thừa vì Đuông tự nhiên đã có mùi bơ 
		béo ngậy rồi. 
		
		Bến Tre còn có loại 
		Đuông Dừa cũng béo, to con hơn và nhiều hơn, nhưng lại không thơm bằng 
		Đuông Chà Là nên vì vậy mà rẻ tiền hơn. Có lẽ sản phẩm của Bến Tre quá 
		nhiều, quá phong phú. Chúng ta chỉ nhắc sơ qua các đặc sản trên cạn chứ 
		chưa đề cập tới thủy sản, hải sản. Những món này có dịp khác chúng tôi 
		sẽ bàn. Vì cù lao Bến Tre hình tam giác đáy quay về biển, và biển với 
		cửa sông giao nhau để tích lũy vô số tôm cá dồi dào của dòng bằng Nam 
		Việt trù phú. 
		
		Thật là một sai lầm 
		to tát khi gọi mấy người răng hô là dân Bến Tre. Họ muốn nói cái răng 
		hàm hô giống như bàn nạo để nạo dừa. Lâu rồi thành câu diễu cợt khả ố! 
		Các thanh niên ở xa đâu có biết rằng: 
		
		Con gái 
		Bến Tre tóc mây da trắng 
		
		Mắt 
		nhung đen má phấn môi son 
		
		Dáng đi 
		yểu điệu ru hồn 
		
		Em đi 
		khuất dạng mà anh còn trồng cây si! 
		
		Đó là 
		những nét đẹp xinh, duyên dáng của Bến Tre tôi vào thuở thanh bình xa 
		xưa. Giờ thì tất cả đã đổi thay. Trận cuồng phong 30-4-1975 đã cuốn đi 
		tất cả truyền thống, tập quán của quê mình. 
		
		Mong ngày 
		nào đó, đồng bào cả nước cùng đồng hương chúng ta khôi phục lại quê 
		hương, cho xứng đáng lòng trung dạ hiếu của cụ Đồ Chiểu và khối óc tinh 
		anh uyên bác của nhà bác học Trương Vĩnh Ký. 
		
		HỒ LIỄU 
		
		(Trích ĐS. 
		Tiền Giang - Hậu Giang) 
		 
		 
 Nguồn: saigontimesusa  |