| |
|
Cần Thơ, Quê Hương Tôi
-
NGUYỄN BÁ CẨN
-
-
Đoàn
học sinh tuổi trung b́nh từ 12 đến 18 đang diễn hành đều bước trên
Lộ Mới là một trong những con đường nhộn nhịp nhất chạy từ trung
tâm thành phố Cần Thơ đến sông Cái Khế. Con đường này, nay được
gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Cách đây 60 năm, người Pháp cai trị Đông
Dương nên đă có thời kỳ con Lộ Mới này được đổi tên là Capitaine
d'Hers, sau nữa đổi thành Phan Thanh Giản cho đến năm 1975. Nó
chạy xuyên ngang một khu đông đúc gồm có trại gia binh và trường
trung học Phan Thanh Giản ở phía Nam và khu gia cư ở phía Bắc lên
đến tận sông Cái Khế. Cứ mỗi buổi chiều, đến giờ thể dục th́ học
sinh trung học tập đi diễn hành ngoài đường và ca ngợi nước Pháp
với hai câu hát được Chính Phủ Pháp tung ra, “Maréchal!
Nous voilà! Devant toi le sauveur de la France” (Thưa Thống Chế, vị
cứu tinh của nước Pháp! Chúng tôi đang tŕnh diện trước mặt Ngài!), để
vinh danh Thống Chế Pétain, vị anh hùng của trận Verdun hồi thế
chiến thứ I.
-
Năm 1941, khi Phát Xít Đức xâm chiếm các nước Âu Châu, trong đó có
Pháp, Chánh Phủ Cộng Ḥa Pháp kể cả Quốc Hội tự động giải tán.
Quốc gia Pháp được thành lập tại miền Nam nước Pháp dưới quyền
lănh đạo của Thống Chế Pétain, chủ trương hợp tác với Phát Xít Đức
để cứu văn nước Pháp, ít lắm là theo lời tuyên bố của ông ta,
trong lúc đại đa số người dân Pháp hướng về Thiếu Tướng De Gaulle,
đang kêu gọi toàn quốc kháng chiến, từ Luân Đôn (Anh Quốc) là nơi
ông đă thành lập Chính Phủ Pháp Tự Do và lănh đạo cuộc chiến đánh
đuổi Đức Quốc Xă để giải phóng nước Pháp.
-
Nhà tôi nghèo. Quê tôi là làng Phú Hữu, ở tận cực Nam của tỉnh Cần
Thơ, cách tỉnh lỵ độ 18 cây số. Bên nội tôi sống bằng nghề nông.
Trước năm 1945, xă Phú Hữu cũng như tất cả các xă khác, trừ xă tại
quân lỵ, chỉ vỏn vẹn có một lớp Đồng Ấu để dạy trẻ con biết đọc và
viết mà thôi. Với hoài bảo cho các con ăn học để tương lai được
sáng sủa hơn là cứ miệt mài với ruộng vườn quanh năm suốt tháng mà
không thoát cảnh nghèo nàn, ba mẹ tôi dời lên ở tỉnh lỵ Cần Thơ,
cất nhà sát bên cạnh trường trung học Lộ Mới, tiện cho việc học
hành của các con sau này.
-
Quê tôi nghèo. Bên nội tôi gồm khoảng 50 gia đ́nh thuộc ba bốn thế
hệ chia nhau chiếm trọn con Kinh Nhỏ là nơi phát nguồn của Rạch
Mái Dầm giáp ranh với tỉnh Sóc Trăng. Toàn dân trong xă làm ruộng,
hết mùa lúa ở quê nhà th́ rủ nhau bơi xuồng xuống Ba Xuyên gặt lúa
để kiếm thêm chút đỉnh, hoặc bằng tiền hoặc bằng hiện vật là lúa
để tăng cường lợi tức thấp kém của ḿnh. Lúc bấy giờ trong nước
chỉ làm ruộng một mùa. Người nào siêng năng cần cù th́ trồng thêm
vài luống khoai hoặc bắp, kiếm thêm thức ăn độn cho gia đ́nh. Nông
thôn ta lúc bất giờ chưa biết làm lúa hai mùa hoặc trồng rẫy qui mô
để sinh lợi. Sau khi gặt hái, c̣n lại nửa năm không biết làm ǵ
nên dân làng thường tổ chức cờ bạc và đá gà.
-
Đất nước tôi nghèo, nghèo lắm. Hơn 90 phần trăm nhân dân sống lam
lũ ở nông thôn. Ngoại trừ một thiểu số làm công chức và nghề tiểu
công nghệ hoặc tiểu thương, đa số quần chúng sống trong cảnh nghèo
đói theo định nghĩa “nghèo đói” của Liên Hiệp Quốc ngày nay. Nước
nghèo lại gặp cảnh thế chiến. Gạo thừa thải chút đỉnh nhưng xuất
cảng không được. Ngoài ra, Pháp và Nhật tung đ̣n đánh phá nhau về
kinh tế gây nạn đói ở Bắc Việt chết hàng triệu người. Có đủ gạo
th́ ăn cơm, thiếu gạo th́ phải độn khoai cho đỡ đói, và đừng mong
mua được đồ biến chế ngoại quốc v́ các phe lâm chiến phong tỏa
khắp các mặt biển và hải tŕnh.
-
Trong trọn tỉnh lỵ Cần Thơ, tôi chỉ thấy một chiếc xe hơi của Chánh
Tham Biện tức Tỉnh Trưởng người Pháp. Lúc bấy giờ, thế giới chưa
có máy lạnh (air conditioner), và máy truyền h́nh. Tôi cũng chỉ
thấy có một tủ lạnh (refrigerator) nơi tư thất của một trong 10
gia đ́nh giàu nhất ở chợ Cần Thơ. Ngoài ra, từ trường trung học
cho đến sông Cái Khế, trọn một khu gia cư dọc theo đại lộ Phan
Thanh Giản gồm có cả trăm gia đ́nh mà chỉ có nhà ông giáo Chưởng,
thầy dạy tôi lớp vỡ ḷng tại trường tiểu học tỉnh lỵ, là có một
cái máy phát thanh duy nhất. Chiều chủ nhật nào, Lộ Mới cũng đông
nghẹt nơi đây v́ lối xóm ngồi chiếm nửa mặt lộ trước nhà ông giáo
này để nghe Huyền Vũ tường thuật các trận túc cầu quốc tế ở Sài
G̣n.
-
Anh cả của tôi dạy học, lương khoảng 100 đồng bạc Đông Dương. Một
người anh khác làm thợ máy cho Công Chánh, lương khoảng 70 đồng.
Từng ấy lợi tức giúp má tôi nuôi một gia đ́nh gồm má tôi và 8 anh
em. Cho đến khi học năm thứ ba trung học, tôi vẫn c̣n mặc bà ba và
mang guốc cây để đi học như 90 phần trăm bạn bè cùng trường. Một
vài học sinh giàu mới mua sắm được “sơ mi” và quần tây ngắn. Ngay
cả giáo sư trung học và các công chức cũng đều mặc quần ngắn, lư
do là v́ hằng 4, 5 năm kể từ ngày thế chiến bùng nổ, không có nhập
cảng hàng vải được nữa. Công tư chức mới mua được một chiếc xe đạp
để đi làm và dùng cho mọi cuộc di chuyển khác sau giờ làm việc
hoặc cuối tuần. Trong lớp học của tôi chỉ có một học sinh duy nhất
là anh Lê Đ́nh Thêm, em vợ kỹ sư Phan Khắc Sửu (sau cuộc Cách Mạng
và Chỉnh Lư, đảm nhận vai tṛ Quốc Trưởng Việt Nam), mới có xe đạp.
Toàn dân mang guốc cuốc bộ. Cho đến đường cát, sữa đặc và diêm
quẹt cũng phải đến Quận Châu Thành hoặc Ṭa Hành Chánh Tỉnh xin
phiếu mua dùng. Nêu lên một vài cảnh sinh hoạt kinh tế tại tỉnh lỵ
mỹ miều Cần Thơ để biết mức độ nghèo khổ của quê hương yêu dấu
trước 1945.
-
Tại tỉnh lỵ th́ c̣n thấy người dân ăn no mặc ấm. Nhưng khi đi sâu
vào nông thôn như tôi năm nào cũng sống hai tháng hè tại quê nội,
là nơi mà 90 phần trăm dân ta sinh sống, th́ cảnh nghèo khó biến
thành bần cùng. Đa số nhân dân ăn mặc rách rưới. V́ không có vải
nhập cảng nên đă bắt đầu thấy “vải ta” xuất hiện, ḿnh vải hết sức
thô v́ được dệt bằng bông vải nội địa và dệt bằng tay theo lối
tiểu công nghệ. Nhiều gia đ́nh nghèo không mua nổi vải, phải may
quần áo bằng bố tời (loại bao bố chỉ gai màu xám lợt để làm bao
đựng lúa hoặc đựng gạo). Chính mắt tôi chứng kiến nhiều gia đ́nh
nghèo đến nỗi chỉ mua sắm được có một bộ quần áo, dù là bằng bố
tời. Khi có việc phải ra khỏi nhà th́ vợ hoặc chồng mới dùng đến
bộ quần áo duy nhất đó. Ở thôn quê chí rận nhiều, v́ vừa nghèo vừa
thiếu điều kiện vệ sinh. Cho nên trước khi mặc quần áo bằng bố th́
phải trải trên mặt phản và lấy ve chai loại 1 lít, đè thật mạnh và
lăn qua lăn lại để giết chí rận, đè nát lên bọn chúng, tiếng nghe
“răng rắc”.
-
Đó là thực tế đời sống ở miền Nam trước khi thế chiến II chấm dứt.
Những mỹ từ thường được dùng như “Ḥn Ngọc Viễn Đông” để ám chỉ
Sài G̣n, bao lơn Thái B́nh Dương khi nói đến Việt Nam, và “Tây Đô
bên bờ sông Hậu” cũng chỉ nhằm an ủi niềm đau khổ thấp hèn của
người dân thuộc địa mà thôi. Có lẽ độc giả thắc mắc tại sao ai
cũng nói miền Nam Việt Nam, nhất là miền Tây là một vùng giàu có
nhất trong nước, thế mà tại sao tôi lại mô tả đen tối đến thế.
-
Miền Tây Việt Nam c̣n được gọi là Hậu Giang chỉ có lúa ruộng. Phần
lớn đất đai do người Pháp khai khẩn, như tại Cần Thơ có một số đồn
điền người Pháp canh tác ruộng lúa tại những vùng Thới Lai, Cờ Đỏ
và miệt kinh xáng như Kinh Bảy Ngàn. Nếu không ở trong tay của
Pháp th́ cũng ở trong tay của Hoa Kiều vốn dĩ có nhiều vốn liếng
lại c̣n được hưởng đặc quyền đặc lợi thụ đắc qua các hiệp ước kư
kết với Triều Thanh trong tinh thần Pháp Hoa lưỡng lợi, chia sẽ
miếng mồi thuộc địa. Có một số chủ điền Việt Nam có từ năm, mười
cho đến vài trăm mẫu ruộng do hai ba đời cần cù làm lụng tiết kiệm
để tậu măi. C̣n lại đa số là tiểu điền chủ có từ một vài sào cho
đến một hai mẫu ruộng là cùng. Gặt hái xong được vài chục hoặc vài
trăm giạ lúa, một số để dành làm giống cho mùa sau, c̣n lại để ăn
trong năm, thiếu trước hụt sau. Đại đa số người dân trong xă không
có ruộng phải xin thuê ruộng để canh tác, được gọi là tá điền, lại
c̣n nghèo hơn tiểu điền chủ hai ba bậc. Trong đại đa số này có một
số khá đông không thuê được ruộng th́ đi làm công cho chủ điền, từ
công việc cày bừa, gieo cấy cho đến khi gặt hái, được trả “lương
chết đói” bằng hiện vật là lúa.
-
Đừng đánh giá Hậu Giang giàu sang khi nh́n thấy một số đại điền
chủ người Việt hoặc Minh Hương (Việt lai Tàu) sinh sống thảnh thơi
hoặc khi đọc truyện các công tử Bạc Liêu phung phí tài sản trong
đó có Cậu Ba Qui con của một đại điền chủ giàu khét tiếng miền
Tây, mỗi cuối tuần tự lái máy bay riêng lên Sài G̣n khiêu vũ trác
táng với gái “hạng sang” tột bực, đến chiều thứ hai mới lái về
nhà. Do đó, mỗi chiều thứ hai, trẻ con chúng tôi ở Lộ Mới thường
tụ tập để đón xem máy bay của “Cậu Ba” bay ngang tỉnh lỵ, trên
đường về Bạc Liêu.
-
Trong thời gian thế chiến II, Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương không
theo đường lối của nước Pháp Tự Do do De Gaulle lănh đạo, mà lại
nghiêng về Chính Phủ Vichy, tức là chính phủ hợp tác với phe Trục
(Đức/Ư/Nhật) ngỡ mong được Nhật Bản để yên. Hy vọng này trở nên
hăo huyền v́ ngày 9/3/1945, Nhật Bản đảo chính Đông Dương để làm
bàn đạp tiến chiếm Mă Lai và Singapore. Chính Phủ Trần Trọng Kim
ra đời, rồi tiếp đến “Cách Mạng Mùa Thu”, Hoàng Đế Bảo Đại thoái
vị để làm công dân một nước độc lập. Từ trước năm 1944, Đảng Cộng
Sản Đông Dương, với một số cán bộ ṇng cốt được huấn luyện tại
Moscow về đấu tranh giai cấp và cách mạng lật đổ chính quyền, đă
biết lợi dụng thời cơ tổ chức kháng chiến đánh phá Nhật Bản, mục
đích là mua ḷng Trung Hoa và Hoa Kỳ để được viện trợ vũ khí của
hai nước này hầu phát triển lực lượng vơ trang của họ. Cộng Sản đă
lấn lướt các phe phái Quốc Gia trên b́nh diện chính trị và ngoại
giao.
-
Về nội bộ th́ Cộng Sản sẵn có cái vốn kỹ thuật xách động quần
chúng đấu tranh nên đă chiếm ưu thế lănh đạo trong các tổ chức cứu
quốc như Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc và sau đó là Cộng Sản liên minh
với Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của Nguyễn Hải Thần, Quốc Dân
Đảng của Vũ Hồng Khanh và Đại Việt Dân Chính của Nguyễn Tường Tam.
Đến khi Nhật Bản đầu hàng và Chánh Phủ Trần Trọng Kim từ chức, th́
thời thế đă chín muồi cho Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động quần
chúng biểu t́nh áp lực Bảo Đại và dư luận toàn quốc phải để cho
Việt Minh thành lập chính phủ. Cộng Sản vừa có kế hoạch, vừa có
cán bộ cuồng nhiệt và liều lĩnh để thực thi kế hoạch, nên ngày
17/8/1945, bọn chúng đă biến cuộc biểu t́nh tại Nhà Hát Lớn Hà
Nội, thay v́ để ủng hộ Chính Phủ Trần Trọng Kim, thành ủng hộ Việt
Minh và bất thần cho cán bộ đến chiếm Ṭa Công Sứ một cách dễ
dàng.
-
Tại Sài G̣n cũng vậy, trong lúc cán bộ Cộng Sản do Moscow đào tạo
Trần Văn Giàu thuyết phục Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất gồm có Đại
Việt, Cao Đài và Ḥa Hảo gia nhập VNĐLĐMH để giải phóng đất nước
th́ được tin Bảo Đại mời Việt Minh thành lập chính phủ. Do đó mà
Mặt Trận tuyên bố giải tán để trở thành Ủy Ban Lâm Thời Nam Bộ do
Trần Văn Giàu cầm đầu. Cứ như thế mà Cộng Sản nhờ núp dưới chiêu
bài Việt Minh kháng chiến lần lượt tiếm thâu quyền hành từ Hà Nội,
Huế, Sài G̣n và các tỉnh trong toàn quốc. Tại Nam Kỳ, lúc bấy giờ
Phật Giáo Ḥa Hảo do Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ sáng lập thu hút hàng
triệu tín đồ. PGHH chủ trương “hành Đạo giúp Đời” và đặt Ân Đất
Nước lên hàng đầu trong Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Do đó các tôn giáo khác,
các chánh đảng và đoàn thể yêu nước qui tụ lại thành Mặt Trận Quốc
Gia Liên Hiệp do Đức Thầy lănh đạo với sứ mệnh đánh đuổi Pháp để
tranh thủ độc lập cho nước nhà.
-
Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ của Việt Minh là đảng viên Cộng
Sản Trần Văn Giàu lo ngại uy thế của Đức Thầy và Mặt Trận Quốc Gia
Liên Hiệp. Sẵn dịp ngày 8 tháng 9 năm 1945, lănh tụ PGHH Năm Lửa ở
miền Tây tổ chức biểu t́nh hàng ngàn người tại Cần Thơ để kêu gọi
nhân dân ủng hộ Chính Phủ Việt Minh và yêu cầu vơ trang quần chúng
để chống xâm lăng, Trần Văn Giàu chụp mũ Ḥa Hảo nổi loạn để đàn
áp cuộc biểu t́nh và bắt giữ một số tín đồ PGHH, mặc dù cuộc biểu
t́nh đă được thông báo trước cho nhà cầm quyền địa phương. Ngày
hôm sau, tức ngày 9 tháng 9, Trần Văn Giàu cho Quốc Gia Tự Vệ Cuộc
bao vây trụ sở PGHH tại Sài G̣n để lùng bắt Đức Thầy nhưng Đức
Thầy thoát nạn.
-
Thế chiến thứ II vừa chấm dứt th́ Chính Phủ Pháp do De Gaulle lănh
đạo mang quân qua tái chiếm thuộc địa cũ là Nam Kỳ. Tuy Việt Minh
chưa ra lệnh “Tiêu thổ kháng chiến”, nhưng chỉ thị dân chúng thi
hành chánh sách “Vườn không nhà trống”, bỏ trống thành thị tản cư
về quê.. Quân đội Pháp sau khi chiếm xong Sài G̣n đang chuẩn bị
tiến đánh các tỉnh. Trước khi chiến cuộc lan tràn đến tỉnh nhà, mẹ
tôi hướng dẫn trọn gia đ́nh di tản bằng đường thủy về quê ngoại
tại quận lỵ Tam B́nh thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đ́nh chúng tôi chỉ
kịp mang theo quần áo và mùng mền, bỏ lại tất cả tài sản, khóa cửa
nhà lại để xuống ghe từ chợ Cần Thơ theo sông Cửu Long xuôi miền
Nam đến Trà Ôn rồi nương theo kinh đào đến quận Tam B́nh. Ghe vừa
đến ngang quận lỵ th́ thấy dân chúng tập họp đông đảo khác thường
tại cầu tàu. Đến khi lại gần th́ chứng kiến một cảnh tượng hăi
hùng. Trên cầu tàu, một người tuổi độ tứ tuần bị lột áo để ḿnh
trần, đang bị cán bộ Cộng Sản hành quyết bằng cách mỗ bụng v́ tội
đàn áp phong trào “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” của Cộng Sản trước đó vài
năm. Nạn nhân là một cựu Chánh Tổng trước kia có cộng tác với cơ
quan an ninh của chính quyền Pháp ruồng bắt cán bộ Cộng Sản tổ chức
khá đông tại Tam B́nh. Một hai tuần sau đó, tôi có dịp chứng kiến
một loạt hành quyết khác tại các xă xung quanh quận lỵ. Khác với
lần đầu mỗ bụng, các lần sau Cộng Sản chặt đầu các nạn nhơn bằng
mă tấu. Th́ ra, thay v́ dùng súng, Cộng Sản cố t́nh dùng những
phương pháp rùng rợn hơn như chặt đầu và mỗ bụng moi gan để gây
khiếp đảm và khủng bố tinh thần dân chúng.
-
Tạm trú tại Tam B́nh độ một tháng th́ được tin quân đội Pháp tiến
đánh Vĩnh Long nên gia đ́nh tôi lại phải xuống ghe đi qua xă Phú
Hữu phía cực Nam của tỉnh Cần Thơ. Gia đ́nh tôi tạm trú tại nhà
bà nội tôi ở ấp Kinh Nhỏ. Bà ở một ḿnh trong một căn nhà ba gian,
khá lớn. Gian giữa có bàn thờ tổ tiên, cùng một bộ tràng kỷ gơ
đen, cẩn ốc xa cừ để tiếp khách. Hai bộ phản bằng ván gơ dầy 1
tấc chiếm phía trước hai gian b́a, c̣n phía sau th́ hai pḥng ngủ
có cửa gài khóa lại. Phía sau bề ngang rộng ba gian dùng làm kho,
sát vách hè có 10 mái đầm (lu cỡ thật lớn ở miền Tây), 5 mái chứa
nước mưa để uống quanh năm, 5 mái c̣n lại đựng lúa giống để gieo
mạ mùa lúa tới.
-
Sở dĩ nhà nội tôi có phần khá hơn bà con trong xóm v́ khi sanh
tiền, ông nội tôi bao tá được vài chục mẫu ruộng. Sau khi ông qua
đời, bà tôi chỉ c̣n giữ lại ngôi nhà, c̣n lợi tức cũng chỉ đủ
sống đấp đổi qua ngày như đa số bà con nghèo khác. Hai anh tôi mỗi
người được Ủy Ban Kháng Hành Tỉnh (Kháng chiến Hành chánh) phát
cho hai tháng lương. Mẹ tôi rất tiện tặn v́ dự trù có thể tản cư
cả năm th́ phải lo kinh tế tự túc chớ đâu thể ỷ lại vào hai tháng
lương này được. Lớn nhỏ đều đổ ra đồng làm rẫy, hàng ngang hàng
dọc. Nào là dọc theo mương th́ thả giàn trồng bầu, bí đao, mướp,
dưa leo, khổ qua, v.v.. Tận dụng các khoảng đất trống xung quanh
nhà để trồng các loại đậu xanh, đỏ, đen, cùng bí rợ, và các loại
cải trắng, cải xanh, cải rổ, v.v.. Ngoài công việc trồng trọt, c̣n
phải nghĩ đến thịt, cá để tăng cường dinh dưỡng. Tôi và người anh
thứ tư của tôi tổ chức giăng câu, thả chà dưới sông, đặt lọp, lưới
cá, ṃ tôm, v.v.. Các em nhỏ tôi th́ chăn nuôi, săn sóc các bầy gà
vịt, lượm trứng, cho ấp nở các bầy khác, Gia đ́nh chúng tôi ít
được dùng gà vịt v́ phải dành để đổi lấy gạo, đường, nước mắm, và
các loại vật dụng khác mỗi khi có “ghe hàng” thổi “tù và” báo cho
đồng bào trong xóm đến đổi chác cho nhanh v́ ghe c̣n phải qua các
làng khác.
-
Chỉ tại vùng đồng bằng Cửu Long ở Miền Tây là câu tục ngữ “trời
sinh voi sinh cỏ” có ư nghĩa nhất. Đừng có lo. Đến mùa mưa lúa lớn
mạnh như thổi cùng với tôm cá sinh sản tràn đồng. Kịp đến ruộng
khô không c̣n tôm cá nữa th́ đến mùa lúa chín, là mùa chim và
chuột ăn lúa chín mập tṛn. C̣n rắn th́ nhờ bắt được nhiều chuột
hơn trước nên cũng to béo hẳn lên. Chim th́ “rô-ti”, rắn th́ nấu
cháo đậu xanh. Thịt chim hay rắn đều có thể bầm nhỏ xào củ hành
xúc bánh tráng, lớn nhỏ đều ưa thích. Chuột th́ thui rồi lột da,
vứt bỏ đồ ḷng, giữ lại mỡ sa để thắng thành dầu thắp đèn ban đêm.
Thân chuột banh ra mập trắng như heo sữa bày bán ở các sạp thịt
nhà lồng chợ. Món anh em tôi thích nhất là chuột ớp sả ớt, kẹp
nướng than hồng, ăn với cơm trắng và nước mắm tỏi ớt. Tuy nhiên,
trong các tháng nước kém, cạn ḷi ḷng sông, cá tôm hoàn toàn biến
mất. Chuột rắn cũng không c̣n. Nhiều hôm không t́m được ǵ th́ lấy
nước mắm kho sệt lại để ăn với rau luộc. Có sống ở nông thôn mới
biết nước ḿnh nghèo. Có chia sẻ cọng rau hột muối với nông dân
mới thương dân ḿnh nghèo, dân ḿnh đói.
Nguồn: saigontimesusa |
|