| 
		 
		Cao Lănh, Quê hương 
		tôi 
		
		  
		
		Nguyễn Vĩnh Thượng 
		
		  
		
		Lời tác giả :     Bài 
		“ Cao Lănh, Quê hương tôi” 
		đă đăng trong Tập 
		San Nghiên Cứu Văn Hoá: Đồng 
		Nai- Cữu Long” ở California,Hoa 
		Kỳ, số 2: tháng 7 năm 2005: 
		
		              
		
		“Đồng Nai chim đậu đất lành, 
		
		Cửu Long trù phú dân t́nh ấm no. 
		
		Phương Nam khai phóng cơi bờ, 
		
		Con đường nhân bản tự do đời đời”. 
		
		                       NTL 
		
		  
		
		Tôi đăng lại bài viết này để tưởng nhớ đến 
		hai vị đă giúp tài liệu để tôi viết bài này, một phần  của non sông gấm 
		vóc ở  phương Nam: - Bà Nguyễn thị Quỳnh đă qua đời vào ngày 27 tháng 
		Giêng năm 2010 tại Paris, Pháp,hưởng thọ được 95 tuổi; và cụ Trần Quăng 
		Đại đă qua đời vào ngày 13 tháng 12 năm 2010, hưởng thọ được 89 tuổi tại 
		Toronto, Canada. 
		
		  
		
		Tôi có sửa chữa và bổ túc một vài chỗ trong 
		bài đăng lần thứ hai này. 
		
		  
		
		                                            
		Toronto, 24 tháng 12 năm 2013 
		
		
		                                                          NVT 
		
		  
		
		"Hữu duyên thiên lư năng tương 
		ngộ" 
		
		  
		
		Cách đây hơn 10 năm, ông bà Trần Quăng Đại đă định cư tại Toronto, 
		Canada, do một người con bảo lănh. Ông cụ đă cho tôi một số sách và tài 
		liệu nói về đất Cao-Lănh đồng thời cũng kể lại cho tôi nghe những nơi và 
		những điều ông đă biết trong quăng đời ông đă sống tại Cao-Lănh và Sa-Đéc. 
		Cụ nay đă 83 tuổi (năm 2005). 
		
		  
		
		Nhà văn Huỳnh Trung Chánh, từ một thành phố ở California Hoa Kỳ, đă gởi 
		cho tôi một số tài liệu về Cao-Lănh. 
		
		  
		
		Mẹ tôi, Bà Nguyễn Thị Quỳnh, nay đă 90 tuổi (năm 2005), đang định cư ở 
		Paris, Pháp cũng đă kể cho tôi nghe nhiều điều mắt thấy tai nghe về Cao 
		Lănh, nhất là Bà đă chép lại một bài thơ duy nhất mà bà đă sáng tác vào 
		năm 1947, ghi lại tâm sự của Bà trong cuộc tản cư của dân Cao-Lănh trước 
		cảnh khói lửa chiến tranh vào hồi đó. 
		
		  
		
		Thêm vào đó, một số thân hữu của tôi ở xa và gần: có vị gởi tài liệu, có 
		vị điện thoại kể lại việc này việc khác, có vị đă gởi e-mail (điện thư) 
		góp ư và cho thêm tài liệu về Cao-Lănh. Tôi chân thành cám ơn tất cả các 
		vị đă nêu trên. 
		
		  
		
		Khi sắp xếp tài liệu lại để căn cứ vào đó mà viết về Cao-Lănh, tôi nhận 
		thấy rằng tài liệu vẫn hăy c̣n thiếu sót, có nhiều điều tôi chưa biết 
		hết, và ngay cả điều tôi được biết th́ cũng chưa chắc đă đúng. Thiếu sót, 
		lệch lạc th́ có thể đưa đến chỗ những điều tôi viết có thể sai lầm. Tôi 
		ước mong các độc giả sau khi đọc những ǵ tôi viết về đất Cao-Lănh nếu 
		có chỗ thiếu sót, có chỗ sai th́ quí 
		vị giúp giùm bổ sung và sửa chữa lại.  
		
		  
		
		Cao-Lănh chỉ 
		là một vùng đất nhỏ ở phương Nam của đất nước Việt Nam. Ngày xưa, cả 
		vùng đất mới ở phương Nam gọi là Nam-Kỳ Lục Tỉnh v́ gồm có 6 tỉnh như 
		sau: 1. Biên Ḥa, 2. Gia Định, 3. Định Tường, 4. Vĩnh Long, 5. An Giang, 
		6. Hà Tiên. Đất nước ta đă bắt đầu mở mang bờ cơi đi về vùng đất phía 
		nam, một miền đất trù phú và thịnh vượng, đă được khoảng 300 năm nếu 
		tính từ lúc chúa Nguyễn Phước Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn cho quốc 
		vương Chân Lạp Chey Chetta II năm 1620 rồi mượn đất Prey Nokor-Kaskobey 
		để thiết lập trạm thuế (1623), rồi được quốc vương Nặc Tôn của nước này 
		dâng đất Tầm Phong Long năm 1757 để tạ ơn. Rồi Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư 
		Trinh lo việc bảo vệ và mở mang đất Gia Định trong ṿng 11 năm 
		(1754-1765), rồi Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ với chức vụ Khâm Sai Đô Đốc 
		trấn thủ Hà Tiên đă mở mang đất Hà Tiên (gồm Hà Tiên - Rạch Giá – Cà 
		Mau) … cho đến ngày nay, năm 2004. 
		
		Trong bài này, tôi sẽ viết về nguồn gốc địa danh Cao-Lănh, di tích Tháp 
		Mười và nền văn hóa Óc Eo. 
		
		  
		
		Trong tương lai, nếu có cơ hội thuận lợi, tôi sẽ viết tiếp về 
		- 
		Các nhà cách mạng kháng chiến chống Pháp tại Cao-Lănh và các nhân vật có 
		uy tín tại Cao-Lănh; 
		- 
		Tinh thần dân Cao-Lănh hay là phong cách của người dân Cao-Lănh. Văn thơ 
		Cao-Lănh, một mảnh văn chương của văn học miền Nam; 
		- 
		Phật giáo xứ đàng trong ở tại Cao-Lănh, Ḥa Thượng Phạm Văn Hổ, tức Ḥa 
		Thượng Hấu, và quan niệm độc đáo của vua Tự Đức (1847-1883) trong việc 
		sắc phong các cư sĩ có đạo cao đức trọng làm Ḥa Thượng, một chức sắc 
		cao cấp trong hàng giáo phẩm của Phật Giáo. 
		
		  
		
		I.       Nguồn gốc địa 
		danh Cao-Lănh 
		
		  
		
		Cao-Lănh cách Sài G̣n 162 km đường bộ. Từ Sài G̣n đi quốc lộ 4 (bây giờ 
		là quốc lộ 1A) tới An Hữu rồi rẽ về phía phải để đi vào đường liên tỉnh 
		40, tức là đường đi về phía Tây Bắc th́ Cao-Lănh cách ngả ba An Hữu 36 
		km. Chúng ta cũng có thể đi qua Sa Đéc rồi từ Sa Đéc đi về Cao-Lănh cũng 
		được, nhưng thời gian lâu hơn v́ phải qua bắc Mỹ Thuận (bây giờ đă có 
		bắt cây cầu ngang qua sông Tiền khỏi phải chờ đợi qua bắc như trước) rồi 
		qua Sa Đéc, từ Sa Đéc đi Cao-Lănh, trước khi qua Cao Lănh th́ phải qua 
		bắc Cao Lănh. Cao Lănh nằm bên ḍng sông Cao Lănh dài 16 km là một nhánh 
		nhỏ của Tiền Giang. 
		
		  
		
		Dưới thời vua Gia Long (1802-1819), Cao Lănh (chưa có tên là Cao Lănh) 
		là một phần đất thuộc phủ Tân Thành 
		tỉnh Định Tường. Phủ Tân Thành gồm hai huyện: huyện Kiến Hưng và huyện 
		Kiến Phong. Ông Chưởng Dinh Nguyễn Hữu Cảnh đă thi hành lịnh của triều 
		đ́nh Huế để kêu gọi các đồng bào từ miền Bắc và miền Trung vào khai khẩn 
		đất hoang ở vùng đất mới này. Một số lưu dân Cao Lănh từ Thuận Hóa nhưng 
		nhiều nhất là từ Quảng Nam, một ít từ Phú Xuân và từ miền Bắc. Các lưu 
		dân đến từ miền Bắc đă dứt khoát rời khỏi lũy tre làng bao quanh các 
		làng mạc ấm cúng của họ để đi vào vùng đất mới mà khai khẩn đất hoang, 
		những người đến từ miền Trung cũng rời bỏ nơi chôn nhao cắt rún để đi 
		lập nghiệp ở vùng đất mới này. Lúc đầu, các lưu dân Việt Nam tiền phong 
		đến khai khẩn ở Cao Lănh phải cực nhọc và đối phó với nhiều thú rừng như 
		rắn độc, voi, cọp …, và phá các đám rừng nhứt là các rừng tràm ở vùng 
		Đồng Tháp Mười, thật sự th́ không phải dễ ăn đâu. Cho măi tới mấy đời 
		sau, con cháu mới được hưởng cảnh “làm chơi ăn thiệt”, 
		một khi các rừng rậm đă được khai khẩn để trở thành đồng ruộng bao la, “c̣ 
		bay thẳng cánh”. 
		
		  
		
		Các vị tiền phong khai khẩn đă nói: 
		
		  
		“Muỗi 
		kêu như sáo thổi, 
		
		Đỉa lội tựa bánh canh. 
		
		Cỏ mục thành tinh, 
		
		Rắn đồng biết gáy.” 
		
		(Ca dao) 
		
		  
		
		Vùng Đồng Tháp Mười là một vùng nước mặn đồng chua, nước có nhiều phèn. 
		Đất đai ở đây rất thích hợp với cây tràm. Do đó có rất nhiều tiền nhân 
		đến đây gây dựng thêm các cánh đồng tràm, ngoài các rừng tràm sẵn có. 
		
		  
		
		 Tôi 
		xin mở ngoặc ở đây để nói một chút về các chuyện có liên đến bên ngoại 
		tôi .Ông Nguyễn Xuân Trước (1874 – 1957) là ông ngoại của tôi, theo lời 
		kể lại của má tôi th́ ông ngoại là một bậc thâm nho và cũng là một 
		thương gia có tiếng ở Cao Lănh. Ngoài lănh vực thương nghiệp ông c̣n tạo 
		lập hàng ngàn mẫu ruộng và cấy trồng hàng trăm mẫu tràm. Tràm là loại 
		cây sống ở vùng nước động. Vườn tràm của ông nằm kế vườn Tràm của người 
		em thứ sáu của ông là ông Nguyễn Thành Tố, dân Cao Lănh trong thập niên 
		1940 thường gọi là Sáu Tố. Vườn tràm Sáu Tố là vườn tràm nổi tiếng ở nơi 
		đó.Ông ngoại tôi cấy trồng tràm nhằm cung ứng cho nhu cầu vật liệu xây 
		cất. Ngoài ra ông c̣n trồng hàng trăm bụi tre và cây sao – một loại cây 
		cung cấp ván gỗ trong việc đóng ghe thuyền, đó là một phương tiện giao 
		thông tối cần thiết cho vùng sông nước Đồng Tháp Mười: 
		
		  
		
		“Đồng Tháp Muời c̣ bay thẳng cánh, 
		
		Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.” 
		
		   ( Ca dao) 
		
		  
		
		Thật vậy, Đồng Tháp Mười có ruộng 
		lúa ph́ nhiêu, cá tôm bơi lội lấp lánh đầy đồng, có rừng tràm dày đặc, 
		có sen nở bạt ngàn. 
		
		  
		
		Ông ngoại tôi đă lập “Vạn 
		Thọ Trang” ở làng Ḥa An 
		vào thập niên 1930, cách chợ quận lỵ Cao Lănh khoảng 800 mét. Tại đây 
		ông trồng nhiều loại cây kiểng có dược tính trong thuốc nam để giúp chữa 
		bệnh cho các bệnh nhân trong vùng; ông trồng hoa Vạn Thọ rất nhiều, hoa 
		Vạn Thọ là biểu tượng cho “Vạn Thọ Trang”. Vạn Thọ Trang gồm có một biệt 
		thự lớn để thờ ông bà và để ở, phía trước có hàng rào đúc bằng xi-măng 
		cốt sắt, có hai cửa lớn để đi vào gia trang , chạy thẳng hai bên hông 
		biệt thự, thích hợp với nguyên tắc phong thuỷ về thiết kế ngoại thất. 
		Ngoài sau biệt thự có nhiều mẫu đất , có một nhà dựa lúa để trử lúa sau 
		muà gặt hái , có trồng nhiều loại cây xoài như xoài thanh ca , xoài ḥn, 
		xoài tượng, xoài nghệ, có trồng nhiều loại mận có cây trái rất bự ,đặc 
		biệt có loại mận xanh rất ngọt, có nhiều cây quit, cây cam, nhiều vú sửa 
		như vú sửa tím,vú sửa trắng, có loài vú sữa có thể lột vỏ như lột vỏ củ 
		khoai lang. Ở phía sau hơn nữa, có nhiều mẫu đất vào mùa nước nổi th́ 
		trồng lúa , c̣n mùa nước khô th́ trồng thuốc hút để Ông hút và bán … Sau 
		1975, Vạn Thọ Trang đă trở nên hoang tàn, v́ các con cháu không c̣n sống 
		ở đây nữa. 
		
		 
		Má tôi kể lại rằng anh của Má tôi là 
		ông Nguyễn Xuân Khôi (1912 – 1943) đă đến sống ở đồng Tháp Mười mấy 
		tháng rồng rả để trông coi việc cấy trồng tràm trong các cánh đồng của 
		ông ngoại tôi. Trong thời gian này, cậu N.X. Khôi đă dùng quả lắc (pendule) 
		để t́m hiểu tính chất của vùng đất này dựa vào khoa học quả lắc, Ông 
		tiên đoán vùng Đồng Tháp Mười có quặn mỏ ở dưới ḷng đất như mỏ dầu lửa, 
		dầu khí. Trước năm 1975, Ba tôi đă dựa vào các sách vở tài liệu mà ông 
		đă đọc th́ thấy nói nơi nào có nhiều tôm th́ nơi đó có thể có mỏ dầu lửa. 
		Ba tôi nói lời tiên đoán của cậu Khôi hồi khoảng năm 1930 có thể đúng. 
		Cậu Khôi đă được ông Ngoại tôi cho đi du học ở Hà Nội vào đầu thập niên 
		1930. Hồi đó, các thanh thiếu niên ở miền Nam thường được cha mẹ cho đi 
		du học hoặc ở Pháp hoặc ở Hà Nội v́ Saigon chưa có trường Cao đẳng hoặc 
		Đại học. Cậu Khôi là một công tử thông minh và hiếu học. Ở Hà Nội , vào 
		thập niên 1930, ông là người Việt Nam đầu tiên đă diển thuyết, giới 
		thiệu công dụng của quả lắc trong việc chuẩn mạch bệnh nhân, dự đoán 
		người phụ nử đang mang thai sẽ sanh ra con trai hay con gái, việc t́m 
		mạch nước ở dưới ḷng đất, quặng mỏ v… v… 
		
		 
		Hồi tháng 9 năm 2012, một vị bà con 
		với tôi là cụ Trần Châu Trần đă gởi tặng cho tôi quyển sách xưa đă được 
		in lại bằng phóng ảnh do cậu Khôi đă viết như sau : 
		
		 
		Tác giả :   NGUYỄN XUÂN KHÔI 
		
		 
		Tên sách :  KHOA HỌC QUẢ LẮC 
		
		                  La Science du Pendule – ( Radiesthésie) 
		
		 
		Lời tựa:    Bác Sĩ NGUYỄN VĂN NHĂ 
		
		Nhà xuất bản:  VŨ-TRANG, ở Cholon: Juillet 1938 
		  
		
		
		
		  
		
		  
		
		Đây là một quyển sách có giá trị vào cuối thập niên 1930: giới thiệu 
		khoa học quả lắc, và chỉ cách sử dụng quả lắc để dự đoán các điều đă 
		viết ở trên. 
		
		  
		
		Trong lời tựa, Bác sĩ Nhă đă giói thiệu tác giả và tác phẩm về khoa học 
		quả lắc như sau: 
		
		“… ông Nguyễn Xuân Khôi là 
		một thiếu niên háo học. 
		
		(…) người ta chẳng những 
		dung cái quả lắc để t́m mội nước, mà người ta lại dung để đoán bịnh, để 
		bói món thuốc nào trị lành bịnh, để hỏi coi vật ăn thức uống có bị tẩm 
		độc không? 
		
		…………………………………………………… 
		
		Tôi thấy nhiều lần cái quả lắc không cải tôi 
		những khi tôi xem mạch định chứng binh.Thành thử, lắm khi tôi dùng quả 
		lắc để hỏi nhỏ trước coi người bịnh đau chứng ǵ. Vậy sau tôi mới dùng 
		khoa học mà nghiên cứu lại. 
		
		………………………………………… 
		
		  
		
		Ông N.X.K có công khảo cứu một khoa-học ít 
		người An-nam để 
		ư. Rất khen ông ham học, ṭ ṃ sưu tầm. ( …..) Chắc rằng công chúng sẽ 
		hoan-nghinh cuốn sách của ông”. 
		
		Saigon, Juillet 1938 
		
		Docteur NGUYEN-VAN-NHA 
		
		  
		
		Tương truyền vào năm Đinh Sửu (1817) dưới đời vua Gia Long (1802-1819), 
		Ông và Bà Đỗ Công Tường gốc ở Quảng Nam đă hưởng ứng lời kêu gọi của 
		Chưởng Dinh Nguyễn Hữu Cảnh di dân tới lập nghiệp tại làng Mỹ Trà. Ông 
		Đỗ Công Tường, có tục danh là Lănh, là người chánh trực, nho học am 
		tường nên được cử làm chức Câu Đương, chức này có nhiệm vụ phân xử các 
		vụ tố tụng trong làng. Ông lập một vườn quưt rộng lớn, các cây quưt có 
		rất nhiều trái nặng trĩu, trong vườn quưt này có một sân rộng sát bên 
		nhà được ông và nhiều người dân dùng làm nơi buôn bán đổi chác như một 
		cái chợ. 
		
		  
		
		Vào năm Canh Th́n (1820), tại làng Mỹ Trà đă xảy ra một nạn dịch trời, 
		dịch này lan tràn quá nhanh chóng, dân chúng bị dịch chết như rạ, không 
		thuốc nào chữa trị được để ngăn chận dịch này. Cái chợ bên nhà ông Tường 
		dần dần vắng bóng người lui tới v́ nạn dịch này. Ông Bà Đỗ Công Tường 
		động ḷng trắc ẩn trước cảnh dân chúng ở đây chết chóc bởi nạn dịch này 
		mà không có thuốc nào chữa chạy, nên hai Ông Bà mới nghĩ ra cách đặt bàn 
		hương án giữa trời, tại sân chợ bên nhà ông, rồi Ông Bà khấn vái xin 
		Trời Phật cho Ông Bà chết thế mạng cho dân chúng ở vùng này. Rồi vào 
		mùng 6 tháng 6 năm Canh Th́n (1820), Ông Bà bắt đầu ăn chay liên tục và 
		cầu khấn Phật Trời mỗi ngày để dân t́nh thoát khỏi nạn dịch này. Qua 
		ngày mồng chín th́ Bà Tường lâm bịnh dịch trời, tắt hơi thở vào lúc 10 
		giờ đêm. Ngày hôm sau, tức ngày mồng mười, th́ Ông bất thần ngả ra chết 
		theo Bà. Dân làng xúm lại lo an táng cho hai Ông Bà cùng một lượt.Một 
		điều thần bí và kỳ diệu xảy ra là sau khi dân chúng đă chôn cất Ông Bà 
		xong th́ dịch trời chấm dứt và dân chúng không c̣n bị dịch trời hoành 
		hành nữa, dân chúng được b́nh phục và trở lại cuộc sống b́nh thường. Lời 
		cầu nguyện rất thành tâm của Ông Bà Đỗ Công Tường đă được ơn trên chứng 
		giám. 
		
		  
		
		Dân chúng lại tiếp tục nhóm chợ ở vườn quưt bên nhà Ông Bà Tường. Để 
		tưởng nhớ công đức Ông Bà Đỗ Công Tường, dân chúng đặt tên cái chợ ở 
		vườn quưt bên cạnh nhà Ông Bà là chợ “Câu Lănh”. Dân chúng đă họp 
		lại, bàn luận, quyết định lấy chữ “Câu” từ chức “Câu Đương” 
		của ông, và chữ “Lănh” là tục danh của ông mà kết hợp lại thành “Câu 
		Lănh”. Lâu dần chữ “Câu” đă được đọc trại ra là “Cao”, 
		có nhiều bô lăo đă giải thích v́ có nhiều người Việt gốc Hoa buôn bán ở 
		chợ này phát âm là “Cao” thay v́ “Câu”, âm Cao nghe cũng suông tai nên 
		rồi mọi người đều phát âm là “Cao Lănh” cho đến ngày nay. 
		
		  
		
		Sau đó dân chúng đă cùng nhau đóng góp: kẻ góp công, người góp tiền mua 
		vật liệu, để lập miếu thờ Ông Bà Đỗ Công Tường ở ngay nơi hai ngôi mộ 
		của Ông Bà ở làng Mỹ Trà làm nơi thờ phượng hai Ông Bà. 
		
		  
		
		Hằng năm, vào ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 6 âm lịch là ngày vía Ông Bà, 
		ban Tế Tự và dân chúng tấp nập kéo đến miếu cúng vái và cầu nguyện khói 
		hương nghi ngút. Dân chúng ở đây đă và đang hết ḷng kính trọng Ông Bà 
		Cao Lănh, nên trải qua nhiều biến cố và chiến tranh lâu dài ở Việt Nam, 
		miễu thờ Ông Bà Cao Lănh vẫn c̣n nguyên vẹn trước nhiều cảnh thay chủ 
		đổi ngôi ở đây. Miễu thờ ở dựa mé kinh Thầy Khâm, cách châu thành quận 
		lỵ độ ba trăm thước. Theo dân chúng, miễu thờ Ông Bà Cao Lănh rất hiển 
		linh, họ thường đến đây để khấn vái cho tai qua nạn khỏi và làm ăn phát 
		đạt thịnh vượng, gia đ́nh b́nh an v.v… 
		
		  
		
		Rất nhiều người đến đây để xin xâm, lấy quẻ xem điềm tốt xấu mỗi khi 
		muốn quyết định làm một việc ǵ, chẳng khác nào quang cảnh xin xâm ở 
		lăng Quan Thượng Tả Quân Lê Văn Duyệt tại bà Chiểu, thuộc tỉnh Gia Định 
		ngày trước. 
		
		  
		
		Trần Quang Hạo trong quyển “Cao Lănh đến 1954” xuất bản tại Cao Lănh 
		tháng 7 năm 1963, tr. 24 đă ghi “Ủy Ban Hành Chánh địa phương (1945) và 
		tướng Nguyễn Ḥa Hiệp, đệ tam sư đoàn (1946) trước khi rút vô Đồng Tháp 
		Mười lập chiến khu đều đến xin xâm nơi đây”. 
		
		  
		
		Văn tế Ông Bà Câu Lănh ở làng Mỹ Trà 
		
		  
		
		“Ḷ tạo ai xây, mảnh h́nh ai đấp, tiếng tiêu 
		thiều chín chặp; sùi sụt kia v́ nỗi đắng cay, thiết vắn tế mấy hàng t́nh 
		tự kể ra tích lớp. 
		
		Thuở Minh Mạng kinh quyền, người có chức chốn 
		thị thuyền, sắm sửa cũng xuê xang, năm Canh Th́n (1820), phong khí đất 
		khôn dời, thấy thiên hạ nhộn nhàng như sấm chớp. 
		
		Ngài thấy vậy đau ḷng xót dạ, thiết đàn cầu 
		an ổn nhơn dân; Trời nghe cho trước vợ, sau chồng, muốn tiếng để cho 
		thạnh ḥa hương ấp, thời đồng theo đi xuống chốn huỳnh tuyền, đều dị oái 
		mới về miền thạch lập, cơn sóng gió phu thê là nghĩa trọng, đem thân cầu 
		thế từ ít muôn ngàn; cuộc sống tang thương biến cải khó bao nài. 
		
		Thay phận cứu tri sanh nhiều mấy thập, thảm 
		là thảm Bà mồng chín ngày trong tháng sáu, bước chân lên Ngọc Đế qú 
		tâu; thương là thương Ông mồng mười sau có một ngày, nhón gót xuống Diêm 
		Vương mà báo cấp. 
		
		Người dường ấy mà công trạng dường ấy, nay 
		hương thôn cám tưởng tấm ḷng vàng; thấy giang san mà tủi hổ với giang 
		san, nên phổ hội sấm dưng bàn lễ bạc, ngọn rau tấc đất nhân ân, bát nước 
		cây hương xin hưởng giúp cho hương lư thờ thay, vơ lao thiểu nhựt tân, 
		trong phổ hội đặng khương cường sĩ dân tập. 
		
		Hởi ôi ! Thương thay ! 
		
		(Khuyết danh) 
		
		  
		
		Bài thơ vịnh Ông chủ chợ Cao Lănh 
		
		  
		
		Muôn miệng như nhau đă nói rành, 
		
		Câu-Đương là chức, Lănh là danh. 
		
		Lập làng khó nhọc, công vừa dứt, 
		
		Cất chợ chăm nom, việc mới thành. 
		
		Dân đụng giặc trời, cam thọ tử, 
		
		Cụ đền nợ nước, quyết hy sinh. 
		
		Thoát nàn, bá tánh lo thờ phượng, 
		
		Miễu đó ngàn thu rạng tiết lành. 
		( 
		Lăng Ba ) 
		
		
		  
		  
		  
		
		  
		
		Miểu Ông Bà chủ chợ Cao Lănh ngày 
		nay  
		
		 
		 
		Ở trước giữa miếu thờ Ông Bà Cao Lănh có 4 chữ lớn : 
		
		  
		
		CHỦ THỊ ĐỖ CÔNG 
		
		  
		
		Hai câu liễn ở trước hai bên miếu : 
		
		  
		
		Mỹ kiểng Câu Đương hữu chí lập thành sanh bửu 
		cuộc, 
		
		Trà giang Lănh thị triêm ân thương măi nhựt 
		vinh ba. 
		
		  
		
		Một tấm liễn treo ở trong miếu do ông Đại Hương Cả Huỳnh Kim Sanh cúng 
		dường : 
		
		  
		
		“Chủ Thị Miếu” 
		
		  
		
		Một tấm liễn treo tại bái đường do ông Huỳnh Thanh Phẩm cúng dường : 
		
		  
		
		“Hiển Thế Lưu Danh” 
		
		  
		
		Năm 1914, dưới triều vua Duy Tân (1907-1916) quận Cao Lănh được thành 
		lập thuộc tỉnh Sa Đéc. 
		Châu thành quận Cao Lănh được đặt tại làng 
		Mỹ Trà. Lúc đó tỉnh Sa Đéc gồm có 3 quận : Quận Châu Thành, quận Cao 
		Lănh và quận Lai Vung. Sa 
		Đéc do 
		tiếng Miên là Phsar-Dek, 
		nghĩa là chợ sắt. 
		
		  
		
		Hồi năm 1935, ông Huỳnh Kim Sanh là Đại Hương Cả làng Mỹ Trà đă thỉnh 
		cầu ông Đốc Phủ Lê Văn Giáp, chủ quận (bây giờ là quận trưởng) Cao Lănh 
		đệ tŕnh lên triều đ́nh Huế xin phong thần cho ông Chủ Chợ Cao Lănh. Qua 
		năm 1936, vua Bảo Đại (1926-1945) đă ra sắc phong ông Đỗ Công Tường là “Dực 
		Bảo Trung Hưng Thành Hoàng Chi Thần”. 
		
		
		  
		  
		  
		
		
		  
		  
		Chợ Cao Lănh ngày nay 
		
		
		  
		
		  
		
		Quận Cao Lănh ở giữa Nam Việt, nằm bên phía trái sông Tiền, phía đông 
		giáp tỉnh Mỹ Tho (sau đổi là tỉnh Định Tường và Kiến Tường), tây giáp 
		tỉnh Long Xuyên (An Giang) phía nam giáp Sông Tiền, phía bắc giáp tỉnh 
		Tân An (Long An). 
		
		  
		
		Quận Cao Lănh có 3 tổng là : 
		
		  
		
		1. Tổng An Tịnh gồm có các làng Ḥa An, Tân Thận Đông, Tân Thuận Tây, 
		Tân Tịch, Tân Thới. 
		
		2. Tổng Phong Thạnh thuộc châu thành quận Cao Lănh đặt tại làng Mỹ Trà 
		gồm có các làng An B́nh, Mỹ Ngăi, Mỹ Trà, Nhị Mỹ, Phong Mỹ, Tân An. 
		
		3. Tổng Phóng Nẫm gồm có các làng B́nh Hàng Tây, B́nh Hàng Trung, B́nh 
		Thạnh, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội, Mỹ Long, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Xương. 
		
		Năm 1956, dưới thời đệ nhất Việt Nam Cộng Ḥa, chính phủ Sài G̣n đă 
		thành lập tỉnh Kiến Phong, tỉnh lỵ đặt tại Cao Lănh, từ đó Cao Lănh tách 
		rời khỏi tỉnh Sa Đéc. Kiến Phong có các quận Hồng Ngự, Thanh B́nh, Cao 
		Lănh … Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai tỉnh Kiến Phong và Sa Đéc được 
		sát nhập thành tỉnh Đồng Tháp. Tỉnh Đồng Tháp gồm có hai thị xă là Cao 
		Lănh và Sa Đéc. Thị xă Cao Lănh là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp; như vậy, 
		Sa Đéc không c̣n là tỉnh lỵ nữa; tỉnh Đồng Tháp có các quận : Tân Hồng, 
		Hồng Ngự, Tràm Nông, Thanh B́nh, Tháp Mười, Cao Lănh, Lấp Ṿ, Châu 
		Thành, Lai Vung. 
		
		  
		
		Tỉnh Đồng Tháp là một trong ba tỉnh của vùng Đồng Tháp Mười, là một 
		trong 9 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, là một trong 58 tỉnh của Việt 
		Nam. 
		
		  
		
		
		  
		
		  
		
		
		  
		  
		
		Vị trí Cao Lănh ở miền Nam và tỉnh Đồng 
		Tháp (1999) 
		
		  
		
		Cao Lănh Phong Cảnh : 
		
		  
		
		Cao Văn 
		tự thử kiến đa tài, 
		
		Lănh địa 
		tằng văn cửu sĩ giai. 
		
		Phong sương 
		sơ đáo t́nh vô hạn 
		
		Cảnh sắc 
		xuân quang phụng hỉ hài. 
		
		(khuyết danh) 
		
		  
		
		Vịnh Cao-Lănh 
		
		  
		
		Cơi Việt trời Nam tiếng sấm vang, 
		
		Nước sông Cao-Lănh trở màu vàng, 
		
		Đất vung ng̣i viết ḍng to nhỏ, 
		
		Cồn nổi ḷng nghiên cái dọc ngang; 
		
		Việt-thạch hiện-thường ngôi chủ-tể, 
		
		Bửu-tinh chớp nhoáng cửa văn-chương; 
		
		Mỹ-Trà trông thấy Văn-khôi vượng, 
		
		Ngựa tía cương buông đă chật đàng. 
		
		(Ng. M. T., Sađéc nhơn-vật 
		chí, 1926) 
		
		  
		
		Vài đặc điểm của Cao Lănh: 
		
		  
		
		 “Thuốc 
		rê Cao Lănh thơm nồng, 
		
		Con gái Cao Lănh má hồng thấy mê”. 
		
		      ( Ca dao ) 
		
		  
		
		Gà ṇi và thuốc 
		lá Cao Lănh: 
		
		  
		
		“Gà nào hay bằng gà Cao Lănh, 
		
		Thuốc nào bảnh bằng thuốc Hoà An”. 
		
		       (Ca dao) 
		
		  
		
		-          Gà ṇi Cao Lănh: 
		ngày xưa, gà Cao Lănh rất nổi tiếng v́ gà có cựa dài, gân rắn chắc,đá 
		nước nạp. Gà Cao Lănh đă từng đá độ với gà Bà Điểm, thuộc Quận Hóc Môn, 
		tỉnh Gia Định (trước 1975).Gà Bà Điểm có cựa cụt nhưng đ̣n đá rất nguy 
		hiểm, nổi tiếng ở miền Đông. Có nhiều độ đá ăn thua, gà Cao Lănh ở Đồng 
		Tháp Mười đă thắng gà Bà Điểm ở miền Đông. 
		
		Gà ṇi Cao Lănh nỗi tiếng đến nổi nhiều người dân Cao Lănh được các nơi 
		khác ví như là “gà Cao Lănh”, tức là dân Cao Lănh th́ ngon lành , bảnh 
		lắm, cái ǵ cũng muốn làm trước thiên hạ, không muốn thua ai. 
		-        
		Thuốc lá: Cao 
		Lănh là vùng trồng rất nhiều thuốc lá, thuốc thơm với hưong vị đặc biệt. 
		Vào những năm 1940,41,42, thuốc lá  Cao Lănh đă được bán cho các hảng 
		thuốc lá lớn ở Saigon, Cholon như Bastos, Mic, Mitac, Cofat v..v... 
		
		  
		
		Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, Cao Lănh là một vị trí chiến 
		lược cho cả hai phía: Pháp và Việt Minh; bởi v́ Cao Lănh ở gần biên giới 
		Cao Miên, và Đồng Tháp Mười là nơi rừng rậm hiểm trở nên Việt Minh lấy 
		đó làm chiến khu. Theo hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954, Việt Nam bị 
		phân chia làm hai miền Nam và Bắc lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến, Cao 
		Lănh là một trong các điểm Việt Minh tập trung quân để đi tập kết ra Bắc 
		trong ṿng 300 ngày. 
		
		Quân đội Hoa Kỳ đă đặt căn cứ quân sự ở Cao Lănh, ngày nay trên internet 
		chúng ta có thể đọc nhiều bài các cựu quân nhân Hoa Kỳ đă từng phục vụ 
		tại Cao Lănh. Các cựu chiến binh này có người viết bài kỷ niệm, hồi bút 
		hoặc tùy bút về vùng Cao Lănh. 
		
		  
		
		II.    
		
		  Di Tích Tháp 
		Mười và nền Văn Hóa Óc Eo 
		
		
		  
		
		Cao Lănh nằm trên khu vực sông Cửu Long. Theo các lư thuyết của các nhà 
		địa lư học th́ vào khoảng vài ngàn năm trước, mực nước Biển Đông đă lên 
		đến mức tối đa, nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long - Ở hai bên nhánh 
		Sông Tiền và Sông Hậu – đă từng bị ngập nước. Rồi dần dần mực nước biển 
		rút xuống và phù sa sông Cửu Long (hai nhánh Tiền và Hậu giang) đă bồi 
		dần dần thành đồng bằng bao la như ngày nay. Và từ nay cho đến vài trăm 
		năm tới th́ mực nước Biển Đông có thể tăng thêm vài thước nữa, do đó 
		hiện nay thường có nhiều nạn lục ở châu thổ sông Cửu Long. Rồi khoảng 
		vài ngàn năm nữa th́ mực nước Biển Đông sẽ rút xuống rất nhiều, Vịnh 
		Thái Lan có thể trở thành khô cạn, đồng bằng sông Cửu Long sẽ mở rộng 
		ra. 
		
		  
		
		Đồng bằng Sông Tiền và Sông Hậu gồm có các tỉnh sau đây: An Giang, Long 
		An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc 
		Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. 
		
		  
		
		Ngày xưa, người ta thường đă thấy những di tích của các tàu biển, có thể 
		đă bị ch́m, như cột buồm, ḷi tói, mỏ neo … gần Cao Lănh c̣n thấy các g̣ 
		cát trắng như G̣ Bắc Vung, G̣ Da, G̣ Bắc Chiên, G̣ Đồng Tháp, G̣ Động 
		Cát; mà xưa kia có lẽ là các cù lao cát ven biển. Cánh đồng bao la quanh 
		Cao Lănh, Đồng Tháp Mười là một vùng đất trũng được phù sa sông Cửu Long 
		bồi đắp, nước mặn vẫn c̣n ứ đọng nhiều nơi, đất đai ngày xưa hăy c̣n bỏ 
		hoang và rất thích hợp cho cây Tràm, ở đây có nhiều rừng Tràm dày đặc; 
		có nhiều bàu sen, láng bông súng, lung năng, đồng lác. Ngày Xưa rừng rậm 
		ở đây có nhiều thú dữ như rắn, cọp, voi … ngày xưa có nơi voi đi hàng 
		đàn nên gọi là “Láng Tượng” ở gần làng Tân Phú. Người Việt Nam tiền 
		phong đến khai khẩn đất hoang ở Cao Lănh ngày xưa đă nhận xét về Đồng 
		Tháp Mười: 
		
		  
		
		“Muổi kêu như sáo thổi, 
		
		Đỉa lội tựa bánh canh. 
		
		Cỏ mục thành tinh, 
		
		Rắn đồng biết gáy.”  
		
		(Ca dao) 
		
		  
		
		  
		
		Cụ Trần Quang Hạo (1899-1981) suốt đời sống tại đất Cao Lănh, là một 
		nhân sĩ có nhiều uy tín ở nơi đây đă chép: 
		
		  
		“Hồi 
		năm 1931, ông Đốc Phủ Trần Văn Mẫng, chủ quận Cao Lănh, sau khi đi kinh 
		lư ở vùng đầm lầy này đă làm phúc tŕnh nói về một ngôi tháp mà ông thấy 
		ở cánh đồng này lên cấp trên của ông. Cho nên qua năm 1932, ông 
		Parmentier, nhà khảo cổ trứ danh của trường Bác Cổ Viễn Đông ở Hà Nội 
		đến viếng di tích này, phái đoàn này đi bằng xuồng, bằng lỉa trâu v́ 
		chưa có đường giao thông. Chính nhà bác học này xem chữ Phạn khắc trên 
		mấy bia đá nứt nẻ v́ phong sương, tuế nguyệt và tan tác ngổn ngang, đă 
		cho biết rằng đây là cái “Tháp Thứ Mười” trong số mười cái tháp của vua 
		chúa Thủy Chân Lạp hồi xưa. V́ thế thiên hạ đă gọi cánh đồng mênh mông 
		có cái tháp thứ mười ấy là “Đồng Tháp Mười”. 
		
		  
		“Tháp 
		Mười” làm toàn bằng những tảng đá xanh ở trên một g̣ cát tại làng Mỹ 
		Thọ thuộc quận Cao Lănh vào lúc bấy giờ. Chung quanh g̣ cát là một cánh 
		đồng bao la cây cối um tùm, lau sậy chằn chịt. Muốn vào Tháp Mười th́ 
		chỉ có thể đi bằng con sông Cần Lố (tiếng Miên gọi là Nước Lộn), con 
		sông này chảy quanh co giữa hai bờ lau sậy. 
		Ở 
		phía trước Tháp Mười có 
		một tượng đá sư tử và một trụ cự thạch (trụ 
		đá lớn) gọi là Linga (dương 
		vật) ở trạng thái đầy sinh lực tượng trưng cho sự sinh thành, sinh tồn 
		tức là sự truyền giống. Trong tôn giáo ở Ấn Độ, thần Siva-Bhadresvara 
		được tượng trưng bằng Linga. 
		
		
		  
		
		  
		  
		
		  
		
		  
		
		  
		
		  
		
		Một số di tích cổ cũng được t́m thấy ở đây như tượng Phật, các tượng thờ 
		khác bằng đá, bằng đồng đều được đem về Viện Bảo Tàng Sài G̣n, Viện Bảo 
		Tàng Sài G̣n được xây cất từ năm 1927 và hoàn thành năm 1929, lúc ấy có 
		tên Viện Bảo Tàng Blanchard de la Brosse, đó là tên của Thống Đốc Nam Kỳ 
		vào lúc đó. Năm 1954 có tên mới là Bảo Tàng Viện Quốc Gia có trên 5000 
		cổ vật thuộc các nền văn hóa của các nước Đông Nam Á. 
		
		  
		
		Hồi năm 1964, giáo sư Nghiêm Thẩm (đă qua đời ở Sài G̣n sau năm 1975) đă 
		hướng dẫn các sinh viên môn nhân chủng học đến thăm viện khảo cổ Sài G̣n 
		nói trên, ở trong khuôn viên Sở Thú/ Thảo Cầm Viên Sài G̣n. Tôi cũng đă 
		thấy Linga và 
		c̣n cả Yoni (âm 
		vật) là một trụ đá lớn mà phần trên có h́nh như một cái chậu không sâu 
		lắm. Linga và Yoni 
		hợp lại để chỉ cho sự sinh thành của vũ trụ. G.S. c̣n giải thích 
		trên đầu cột trụ đá “Linga” được bóng láng là v́ các phụ nữ, theo tôn 
		giáo thờ các h́nh tượng này, tin rằng khi muốn cầu tự th́ có thể lấy bàn 
		tay xoa lên đầu Linga và khấn vái cho được có con. 
		
		  
		Ở 
		Nhật Bổn, có vài nơi thờ Linga và Yoni được tạc bằng gỗ. Cứ mỗi năm 
		trước khi làm mùa, người ta thường làm lễ hội để cho Linga và Yoni đụng 
		chạm với nhau với một niềm tin là các vị thần này sẽ giúp cho được mùa. 
		
		  
		
		Nhà khảo cổ Pháp Parmentier đă căn cứ vào minh văn ở một tấm bia nơi 
		tháp cổ này mà xác định rằng ngôi tháp cổ này được vua Javavarman VII 
		(1181-1281) cho xây dựng nên. 
		
		Tháp Mười cách chợ Cao Lănh khoảng 9 km. 
		
		  
		
		Ngoài ra chúng ta thấy c̣n 2 truyền thuyết nữa đă giải thích về nguồn 
		gốc của “ngôi tháp cổ 
		lịch sử” này như sau: 
		
		  
		
		1. Tháp Mười là cây tháp có 10 tầng của Thiên Hộ Dương đă xây cho nghĩa 
		quân làm trạm canh gác. Thuyết này không đứng vững, v́ cách kiến trúc 
		của ngọn tháp cùng với những di tích để lại chứng tỏ Tháp Mười thuộc nền 
		văn hóa Óc Eo đă có từ thế kỷ I đến thế kỷ VI. Có thể Thiên Hộ Dương đă 
		sử dụng cây tháp có sẵn để làm vọng gác. 
		
		  
		
		2. Tháp Mười là ngôi mộ tháp của vị vua thứ mười của vương quốc Phù Nam. 
		Thuyết này không có ǵ chứng minh một cách rơ ràng, như đă nói trên, nhà 
		khảo cổ Parmentier đă xác định là vua Javavarman VII (1181-1281) cho xây 
		ngôi tháp cổ này. 
		
		  
		
		“Tháp Mười nước mặn đồng chua, 
		
		Phù sa muôn dậm của vua chùa vàng” 
		
		(Ca dao) 
		
		  
		
		Đồng Tháp Mười nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông 
		Cửu Long thuộc về vương quốc Phù Nam vào thời xa xưa. Phù Nam (Fu Nan) 
		là tiếng phiên âm trong sử liệu cổ của Trung Hoa như Tấn Thư, Lương Thư 
		từ hai chữ Phạn “Biu Nam” để chỉ một vương quốc có trước vương quốc 
		Khmer. Theo truyền thuyết, vương quốc Phù Nam được thành lập do sự phối 
		hợp của hai ḍng họ Somac (Mặt trăng) và Kaundynia (người thuộc đẳng cấp 
		giáo sĩ Bà La Môn) vào đầu thế kỷ I. Đế đô của đất Phù Nam là Vyadhapura 
		(tiếng Phạn có nghĩa là đô thị của các nhà săn bắn) nằm gần đồi núi “Ba 
		Phnom” (Phnom có nghĩa là núi) và ở gần xă “Ba Nam” ở trong tỉnh Prey 
		Veng thuộc Cao Miên (Campuchia) ngày nay. Hồi ấy, Phù Nam nằm trên đồng 
		bằng sông Cửu Long bao gồm nhiều lưu vực của các con sông như Sông Tiền, 
		Sông Hậu, sông Vàm Cỏ, sông Đồng Nai và sông Sài G̣n. 
		
		  
		
		Qua thế kỷ II cho đến thế kỷ VI, vương quốc Phù Nam đă phát triển thế 
		lực sau một thời gian củng cố xây dựng nên một triều đại lớn. Triều đại 
		Phạm Sư Man (Sri Mara, tiếng Phạn) trị v́ khoảng 225-230 Tây lịch là 
		thời kỳ hưng thịnh của xứ Phù Nam, trước sức hung mạnh đang lên, nhà vua 
		cho đóng nhiều chiến thuyền để vượt biển đánh chiếm thêm các nước ở 
		ngoài hải đảo để mở mang bờ cơi. Vương quốc Phù Nam đă thống trị cả vùng 
		đất bao la trải dài từ đồng bằng sông Cửu Long đến sông Ménam (Thái Lan) 
		và xuống đến tận các hải đảo Indonesia, Mă Lai. 
		
		Từ giữa thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI, Phù Nam đă liên hệ ngoại giao với 
		Trung Hoa và Ấn Độ. 
		
		Phù Nam đă là một cường quốc đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Đông Nam 
		Á, cũng như đế quốc La Mă trong lịch sử Âu Châu. Uy thế của cả hai xứ 
		này c̣n tồn tại khá lâu sau khi bị sụp đổ. 
		
		Năm 1944, nhà khảo cổ người Pháp là Louis Mallaret, thuộc trường Viễn 
		Đông Bác Cổ, đă đào được nhiều cổ vật ở Óc 
		Eo. Óc Eo là 
		nơi thuộc xă Mỹ Lâm, tỉnh Long Xuyên bây giờ; ở gần núi Ba Thê (Ba 
		Phnom) ở Châu Đốc. Óc 
		Eo là hải cảng của Vyadhapura, theo 
		sách cổ Trung Hoa th́ đế đô Vyadhapura cách bờ biển 120 hải lư. Tại Óc 
		Eo thấy có nền một thành cổ dài 1500 thước, có nhiều đồ trang sức với 
		nhiều loại khác nhau: đất nung, thủy tinh, đá quư, kim cương, ch́ thiếc, 
		bạc vàng…c̣n có bùa đeo, con dấu và đồng tiền nhiều loại, có cả đồng 
		tiền La Mă nữa. Đặc biệt có nhiều đồng tiền cắt đôi, cắt tư, cắt tám làm 
		tiền lẻ … Tôi nhớ lại hồi khoảng 1953, 1954 ở Việt Nam người ta xé 1 
		đồng bạc giấy “Bảo Đại” ra làm 2 phần bằng nhau theo chiều dọc để làm 
		tiền lẻ, mỗi bên 5 cắc (50 xu). Tại Óc Eo, nhà khảo cổ c̣n t́m thấy các 
		khuê bài bằng vàng của hoàng đế La Mă, Antonius Pius, năm 152 T.L. và 
		các ấn chiếu ghi chữ Phạn thời này. 
		
		  
		
		Óc Eo là trung tâm thương măi của nhiều người 
		ngoại quốc ở trên xứ Phù Nam kể từ thế kỷ I. Xứ 
		Phù Nam ở trên con đường thủy giao thông giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Các sử 
		liệu cua Trung Hoa đă chép rằng xứ Phù Nam có nhiều sông rạch lớn, đă 
		giúp người Trung Hoa có thể chạy thuyền buồm đi xuyên qua Phù Nam để đến 
		hải đảo Mă Lai. 
		  
		
		
		  
		 
		Theo truyền thuyết, có một cơn băo lụt dữ dội (tsunami) đă tàn phá 
		hải cảng Óc Eo và kinh đô Vyadhapura của vương quốc Phù Nam thành b́nh 
		địa. Các nhà khảo cổ và nhà sử học chưa xác định được năm nào. 
		
		Các nhà khảo cổ đă giải thích và xây dựng lại đời sống kinh tế, phong 
		tục, tập quán cũng như đời sống tinh thần, tín ngưỡng của cư dân ở đây. 
		Căn cứ trên các cổ vật, di tích t́m được tại Óc Eo, Các nhà khảo cổ gọi 
		nền văn hóa có đặc tính như ở Óc Eo là văn hóa Óc Eo. Văn hóa Óc Eo đă 
		trải khắp trên vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VI. Riêng ở 
		Việt Nam, nền văn minh này được trải rộng từ cao nguyên Lâm Đồng cho đến 
		vùng rừng rậm U Minh ở Rạch Giá Cà Mau. 
		
		  
		
		Gần đây, một số cổ vật được khai quật có những đặc tính được xếp vào nền 
		minh Óc Eo, các di chỉ này được khai quật ở: Nền Chùa (1982-1983), nhiều 
		di chỉ mới khai quật thêm ở Óc Eo vào năm 1983, 1984,1993, G̣ Tháp 
		(1984,1993), Đá Nổi (1985), Cây Gáo (1986-1987), G̣ Rộc Chanh (1986); 
		Đồng Bơ (1986 -1987), Lưu Cừ (1986-1987), B́nh Tả, thuộc quận Đức Ḥa 
		tỉnh Hậu Nghĩa (1987-1989), G̣ Thành (1988). 
		
		  
		
		Các nhà khảo cổ học phương tây chia ra 6 thời kỳ để nghiên cứu về khảo 
		cổ học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long như sau: 
		
		  
		
		1. Thời kỳ tiền sử và sơ sử: từ nguyên thủy cho đến đầu Tây Lịch; 
		
		2. Thời kỳ Óc Eo: đầu 
		Tây Lịch đến thế kỷ VI-VII (tương ứng với vương quốc Phù Nam); 
		
		3. Thời kỳ tiền Angkor: thế kỷ VI-VII cuối thế kỷ VIII; 
		
		4. Thời kỳ chuyển tiếp: đầu thế kỷ IX cuối thế kỷ IX (thời kỳ tiền 
		Angkor và thời kỳ chuyển tiếp tương ứng với thời kỳ hậu Óc Eo, thời hậu 
		Óc Eo tương ứng với thời kỳ Thủy Chân Lạp); 
		
		5. Thời kỳ Angkor: cuối thế kỷ IV giữa thế kỷ XV; 
		
		6. Thời kỳ hậu Angkor: giữa thế kỷ XV trở về sau. 
		
		  
		
		Về phương diện tín ngưỡng, các 
		di tích thuộc nền văn hóa Óc Eo chứng tỏ rằng Ấn Độ giáo và Phật giáo đă 
		được phổ biến và lưu hành trong dân gian ở xứ Phù Nam. Hai tôn giáo này 
		được du nhập vào đồng bằng sông Cửu Long vào thế kỷ thứ I của Tây Lịch. 
		
		  
		
		* Về Ấn Độ giáo, 
		người ta t́m thấy Linga bằng đá, biểu tượng của Siva-Bhadresvara, Yoni 
		bằng đá hoa cương, tượng thần Visnu to bằng người thật. Lại c̣n có bùa 
		đeo làm bằng đá quư, thủy tinh, hợp kim bằng thiếc có h́nh ḅ bứu, đinh 
		ba (biểu tượng của Siva) h́nh con ốc (biểu tượng của Visnu); người đeo 
		bùa tin tưởng rằng sức mạnh của các vị thần có thể che chở hay bảo vệ 
		cho họ. Ta nhận thấy từ xa xưa, con người đă có niềm tin vào ma thuật, 
		tức là tin tưởng rằng các bùa đeo có thể có ma lực tác động một cách có 
		hiệu quả và trực tiếp vào ngoại cảnh. Các nhà khảo cổ c̣n thấy tượng 
		h́nh người đàn bà khỏa thân ngồi trong một tư thế rất thoải mái, thường 
		thường là một người đàn bà có bầu. 
		
		  
		
		Người Phù Nam xưa tin tưởng rằng người đàn bà đang mang thai tượng trưng 
		cho một năng lực giúp cho sự sinh sôi nảy nở, đem lại sự phồn thịnh cho 
		việc làm ăn buôn bán và mang lại sự ph́ nhiêu cho đất đai để có thể gặt 
		hái được vụ mùa tốt. 
		
		  
		
		Trong quyển “Sử Liệu Phù 
		Nam”, Lê Hương đă dịch một bản văn viết bằng Phạn ngữ t́m thấy trong 
		di tích G̣ Tháp (ở Đồng Tháp Mười). Bản văn này đă được chép lại những 
		nghi thức thờ thần Visnu nhân dịp thái tử Gunavarman được sắc phong để 
		trị v́ ở vùng Đồng Tháp Mười hồi thế kỷ thứ VI: 
		
		  
		“Nhà 
		vua đă cưới một người đàn bà đẹp có một dáng đi …và một thắt lưng xinh 
		xắn, sinh đứa con trai tên Gunavarman, tâm hồn cao thượng và trí thông 
		minh … Do nhà vua gặp vận may có dáng đi hùng dung của vị thần Vikramin 
		và chính là “Mặt Trăng” của ḍng dơi tiền vương Kaundinya, vị thái tử 
		này dù c̣n nhỏ tuổi đă 
		được chỉ định lănh đạo một địa phương sùng đạo chinh phục trên bùn lầy, 
		nhờ ngài là người có đạo đức và phẩm hạnh. 
		
		Do thái tử Gunavarman … của bà mẹ ngài, đă 
		đặt trên mặt đất một dấu chân của thần Bhagavat, dấu chân mà cách tŕnh 
		bày với sắc thái không thể so sánh được do ngài xây dựng, (ngài) không 
		c̣n muốn h́nh ảnh nào khác trên đời nữa. 
		
		Ngày thứ tám, dấu chân này cúng dâng chư thần 
		do các tu sĩ Bà La Môn, thông hiểu kinh Veda, kinh Upavada va kinh 
		Vedanga, giống như những người bất tử, đă nhận những huấn điều trong 
		kinh điển Cruti, tuyên bố danh xưng trên mặt đất là Crakratirthasvamin. 
		
		Mong rằng người sùng đạo đối với vị thần ngự 
		tại địa điểm đă kính dâng lên thần Sri Cakratirtha, điều thiện … của 
		thái tử Gunavarman đạo đức, hiếu thuận và nhân từ hoặc người nào chỉ đi 
		vào (đến), sẽ đến nơi an nghĩ tối cao của thần Visnu với tâm hồn hoan 
		hỉ, giải thoát được nghiệp chướng xấu xa của minh. 
		
		Người nào được Gunavarman là vị thái tử rất 
		chuộng sự công bằng kư thác cho thần Bhagavat phải tuân theo lệnh ngài, 
		tùy theo sự sắp xếp của tất cả tu sĩ Bhagavatas, những kẻ khốn khổ không 
		được bảo vệ và những kẻ làm việc tại nơi đây, chiếu theo luật định, kẻ 
		nào làm trái ngược quy tắc sẽ sa xuống địa ngục của diêm vương Yama cùng 
		với những kẻ mang nặng trọng tội. 
		
		Mong rằng người có tâm hồn cao thượng sẽ làm 
		khởi sắc những điều tốt đẹp của thần Bhagavat … được đến nơi nghỉ tối 
		cao của thần Visnu và đạt được một thanh danh to tát, vui hưởng niềm 
		hạnh phúc vô biên.” 
		
		  
		
		Cũng trong quyển “Sử Liệu Phù Nam” này, Lê Hương c̣n dịch bản minh văn “Neak 
		Ta Dambang Dek (Takeo) chép 
		về việc lập tu viện thờ thần Visnu do hoàng hậu Kulaprabhavati, chánh 
		cung của vua Kaundinya-Jayavarman vào thế kỷ V: 
		
		  
		“Cho 
		người nặng ḷng suy tưởng an giấc ngàn thu nơi lăng tẩm này là vùng biển 
		sữa, nằm trên giường đầy những rắn Sesa uống cong ḿnh; chúc người yên 
		nghỉ nơi đây gồm ba thế giới trong ḷng minh, người nằm đây có một đóa 
		hoa sen mọc từ cuốn rún*(“người nằm đây có một  đoá sen mọc từ cuốn” 
		là thần Visnu ), 
		bảo vệ hoàng hậu, chánh cung của quốc vương Sri Jayavarman. 
		
		…nơi cư ngụ của tín đồ Bà La Môn giáo tại 
		thành Kurumba … đă dựng một tượng thần trang sức bằng vàng …với tâm tư 
		tŕu nặng v́ những kết quả không tốt của việc làm … dù có điều vui vẻ 
		nhưng thiếu niềm hạnh phúc. 
		
		Nổi danh trên hoàn vũ như hoàng hậu,như chánh 
		cung Saci của quốc vương Sakra, Svaha, của thần lửa, Rudrami, của Hara 
		và Sri của Sripati, rất muốn được kết duyên với quốc vương Sri … đă 
		nhiều phen nhận xét sự bất nhất của nhà vua trên thế giới … 
		
		Rất thân mật với quốc vương Sri Jayavarman … 
		đă nhận như là người bạn của bà và hưởng nhiều hạnh phúc … đă ư thức 
		rằng việc thụ hưởng nhiều lạc thú chóng tàn như bọt nước … (bà xây cất) 
		một tu viện có hồ nước có một tư thất…” 
		
		  
		
		Tại chùa Bửu Sơn, ở thị xă Biên Ḥa, tỉnh Đồng Nai hiện nay, có thờ một 
		tượng thần Visnu bốn tay bằng đá, ở trong một tư thế ngồi, lưng dựa vào 
		một phiến đá h́nh ṿng cung đỉnh nhọn có khắc 9 ḍng chữ Chiêm Thành cổ, 
		các nhà khảo cổ dự đoán tượng này được tạc khoảng thế kỷ thứ XIII. 
		
		  
		
		
		  
		  
		
		  
		
		Tượng thần Visnu cao 1 thước 9, ngồi trên bệ đá dày 0 thước 39. Thần 
		Visnu ngồi xếp bằng, hai tay trước đặt lên đùi, mỗi tay cầm một cây gậy 
		ngắn. Hai tay sau đưa lên cao, tay phải cầm một bánh xe nhỏ, tay trái 
		cầm con ốc. Thần Visnu mang nhiều đồ trang sức: măo gồm một vương miện 
		và một chóp tṛn nhọn trên đỉnh đầu, hoa tai lớn rũ xuống vai. Ṿng đeo 
		cổ lớn, rộng đến nửa vai và che phần trên ngực, gồm hai hạt chuỗi dài 
		treo thơng xuống. Một dây quàng chạy từ vai trái xuống bụng, ṿng qua 
		hông phải, luồng dưới mép trên ở cổ tay; hai tay sau có đeo ṿng trạm 
		trổ ở cổ tay. 
		
		  
		
		*  Về Phật giáo, 
		song song với sự phát triển của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo cũng phát triển 
		vượt bực nhờ sự truyền bá đạo Phật từ Ấn Độ dưới thời vua Asoka (A-Dục 
		Vương). Nhiều tượng Phật bằng gỗ, đá và đồng đă t́m thấy ở nhiều nơi, 
		các di tích này thuộc thời đại văn hóa Óc Eo như ở Kiên Giang (Rạch 
		Giá), Đồng Tháp Mười, Hậu Giang, Vũng Tàu … Nhiều bia đá ở Chiêm Thành 
		(Chân Lạp, Lâm Ấp) khắc bằng chữ Phạn giảng về Phật Pháp cũng đă được 
		t́m thấy. Các nhà khảo cổ tây phương đă t́m thấy ở Mă Lai 2 tấm ngói lợp 
		nhà trong một khu đă hoang phế có khắc chữ Phạn, có lẽ trước đây là một 
		căn pḥng của một vị thiền sư, một trong hai tấm ngói ấy có ghi lời 
		giảng của kinh Phật về thuyết nhân quả, được dịch như sau: 
		
		  
		“Nhân 
		quả là căn nguyên của sự luân hồi, khi người ta sáng suốt th́ luật nhân 
		quả không tái sinh nữa, và nếu dứt được nhân quả th́ không c̣n tái sinh 
		nữa (luân hồi).” 
		
		  
		( 
		Hall, D.G.E.: Đông Nam Á 
		sử lược, Nguyễn 
		Phúc Tấn dịch, NXB Khai Trí, Sài G̣n 1968.) 
		
		G.S. Mai Thọ Truyền, trong bài giảng “Lịch sử Phật Giáo Đông Nam Á”,khóa 
		mùa xuân 1965, tại Viện Cao 
		Đẳng Phật Học Sài G̣n đă giảng rằng vào đầu thế kỷ VI, hai nhà sư Phù 
		Nam là Sanghapala (Tăng Già Bà La) và Mandra (Mạn Đà La) đă qua Trung 
		Hoa và dịch kinh Phật cho triều đ́nh nhà Lương. Mandra đến kinh đô Trung 
		Hoa vào năm 503; kể từ năm 506 ngài cùng với Sanghapala cộng tác trong 
		việc dịch thuật kinh điển nhà Phật. Năm 546, triều đ́nh nhà Lương đă yêu 
		cầu vua Phù Nam gởi cao tăng đến Trung Hoa, vua Phù Nam đă phái đại sư 
		Paramartha qua thuyết giảng Phật Pháp ở Trung Hoa. 
		
		  
		
		Trước đó, vào năm 484, đặc sứ của xứ Phù Nam là đại sư Sakya Nagasena 
		(Sa-Kỳ-Na-Già-Tiên) tại triều đ́nh nhà Nam Tề, đă dâng lên hoàng đế Vĩnh 
		Minh một tờ biểu có một đoạn dài nói về Phật, Bồ Tát, và những khái niệm 
		về Ba-la-Mật (Paramita), kiếp, nghiệp, luân hồi, tam bảo … 
		
		Tư tưởng Phật Giáo cũng 
		đă được biên soạn để truyền bá, nhiều minh văn được thấy đă ghi lại tư 
		tưởng Phật Giáo bằng chữ Phạn. Lê Hương, trong quyển “ Sử 
		Liệu Phù Nam” đă dịch bia 
		Vơ Canh (ở Khánh Ḥa) do 
		vị vua kế nghiệp của Sri Mara lập ra vào khoảng cuối thế kỷ thứ III, có 
		đoạn ghi: 
		
		  
		
		“…ḷng trắc ẩn đối với muôn loài … 
		
		Người thuộc gịng vua Sri Mara, người được 
		danh dự cùng huyết thống với (vua)Sri Mara đă tuyên bố giữa (buổi họp) 
		những kẻ ấy, lời nói đầy hảo ư đối với muông loài. Người là bậc ưu tú 
		nhất của hai “Karin” khi ngự trên ngai vàng. Người xem xét t́nh trạng 
		bất an của thế gian mà rằng: 
		
		“Khi con trẫm và em trẫm cùng người nào khác 
		được thỏa măn ư muốn chiếm tài sản làm của riêng …những ǵ (tạo thành) 
		kho tàng của trẫm, bạc, vàng, những vật hay dời đổi và bất động, tất cả 
		món ấy, trẫm cúng hiến cho họ với niềm vui sướng và sự lợi ích (cho muôn 
		loài) …” 
		
		  
		
		Tư tưởng thương xót muôn loài thể hiện triết lư đại từ đại bi của Phật 
		Giáo và quan niệm về lẽ vô thường của cuộc đời là nền tảng căn bản của 
		triết lư đạo Phật. Sự hy sinh của cải vật chất để giúp đỡ, bố thí cho 
		người nghèo khổ là thể hiện ḷng từ bi của nhà Phật. Qua đoạn minh văn 
		trên chứng tỏ vị hoàng đế của xứ Phù Nam lúc ấy đă thấm thuần tư tưởng 
		Phật Giáo. 
		
		  
		
		Cũng trong quyển “Sử Liệu Phù Nam” Lê Hương đă dịch bia 
		Ta Prohm ở Bati như sau: 
		
		  
		“Vinh 
		diệu thay cho kẻ chiến thắng được kẻ thù là tất cả sự đam mê với những 
		dấu vết của chúng (mầm móng, nghia34la2 sự đam mê trong trạng thái ngủ 
		say). Vinh diệu thay cho những kẻ đạt được trạng thái hoàn toàn trong 
		mọi việc mà lư trí không nhận chân những chướng ngại, hiểu được kinh 
		Jina với ḷng từ bi và hướng vào hạnh phúc của người khác, mà điểm vinh 
		quang vĩ đại và không t́ vết truyền bá trong khắp lănh vực của không 
		gian. 
		
		Sau khi cứu vớt được thế giới đắm ch́m trong 
		ḷng đại dương của ba điều kiện tạo dựng (ưa nhục dục, nhục thể, vô 
		h́nh) và đạt tới Niết Bàn là vùng đất cao nhất không thể thấy được, 
		không thể so sánh được… đấng Tôn Sư ấy mà những thành tích nhắm vào sự 
		tạo hạnh phúc cho muôn loài, hiện nay vẫn c̣n ban bố hạnh phúc cho kẻ 
		khác. 
		
		Tất cả việc thiện của nhà vua rất mực trung 
		thành với Phật pháp (dharma) … mục đích thực hiện những ư định tốt của 
		ngài đối với thế gian và không phải (để thực hiện) những việc làm của 
		tên Ksatrija trái ngược với ư ngài. 
		
		Đức Thích Ca, đức Dharma, đức Sangha, mỗi vị 
		với tất cả đức tốt, ưu tú … người thực hiên mọi hành vi của một Upasaka, 
		không bị sa ngă…” 
		
		  
		
		Si mê là một mầm móng của tam độc: Tham, Sân, Si. Tam bảo: Phật, Pháp, 
		Tăng, Niết Bàn, điều thiện và cách hành tŕ để khỏi sa ngă đều được 
		giảng dạy. Các điều này đă chứng tỏ các nhà sư Phù Nam đă có một kiến 
		thức về tư tưởng Phật Giáo thật là uyên thâm để đi thuyết pháp và hoằng 
		dương chánh pháp của nhà Phật. 
		
		  
		
		Qua các sử liệu nêu trên chúng ta có thể kết luận rằng Phật 
		Giáo đă được truyền bá qua Trung Hoa, xuyên qua ngă Phù Nam, vào cuối 
		thế kỷ VI. Như vậy Phật 
		Giáo đă được thuyết giảng ở Trung Hoa, triết lư Phật Giáo đă hấp dẫn các 
		đại sư Huyền Trang (629), Nghĩa Tịnh (671) và đă là trợ duyên cho các 
		ngài trong việc quyết định đi qua Ấn Độ để nghiên cứu Phật Pháp và thỉnh 
		các kinh điển nhà Phật. 
		
		  
		
		Người ta đă t́m thấy một pho tượng Phật bằng đá lớn và nhiều tượng nhỏ ở 
		núi lớn gần Gành Rái có đặc tính của thời hậu Óc Eo. Tượng Phật này đang 
		được thờ phượng ở trong một ngôi chùa ở xă Thắng Tam thuộc thị xă Vũng 
		Tàu. 
		
		  
		
		
		  
		
		  
		
		Tượng Phật bằng sa thạch cao 1 mét, bệ đá cao 0.18 mét. Đức Phật ở trong 
		tư thế ngồi thiền, chân xếp bằng theo lối hoa sen, hai tay nối trước 
		bụng, bàn tay phải đặt trên bàn tay trái, cả hai bàn tay đều tựa trên 
		chân phải. Gương mặt đức Phật theo dóc dáng Ấn Độ, miệng mỉm cười một 
		cách nhân từ, tóc xoăn, khoác áo cà sa bó người để lộ vai phải. 
		
		  
		
		Trong bài này chúng tôi đă không tŕnh bày chi tiết về đời sống kinh tế, 
		phong tục, tập quán … của các cư dân của vương quốc Phù Nam vào thời đại 
		Óc Eo. Chúng tôi chỉ tŕnh bày một số nét chính về Ấn Độ Giáo và Phật 
		Giáo mà thôi. 
		
		  
		
		Các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng là thiên 
		đàng của các nhà khảo cổ, 
		v́ nơi đây có nhiều cổ vật, nhiều di tích đă, đang và sẽ được khai quật 
		nên các nhà khảo cổ có cơ hội để khám phá và thực hiện khả năng của ḿnh 
		trong việc giải thích và phác họa đời sống tinh thần và vật chất của các 
		cư dân sống vào một thời kỳ xa xưa trong lịch sử Đông Nam Á. 
		
		  
		
		Viết lần thứ nhất tại 
		Toronto, ngày 26 tháng 12 năm 2004. 
		
		Bản có sửa chữa và bổ túc thêm, 
		tháng 12 năm 2013. 
		
		Nguyễn Vĩnh Thượng 
		
		  
		
		Tài liệu tham khảo chính yếu: 
		
		  
		
		Bùi Văn Liêm: Vài 
		nét về Đồng Tháp Mười, Đặc san 
		Tiền Giang – Hậu Giang số 7, California, 2003, tr.314-316 
		
		Đại Nam Nhất Thống Chí: Lục 
		tỉnh Nam Việt, tập hạ, dịch 
		giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Nhà Văn Hóa Giáo Dục, Bộ Giáo Dục, Sài G̣n, 1959 
		
		Huỳnh Minh: Sa 
		Đéc xưa, Sài G̣n, 1970 
		
		Hall, D.G.E.: Đông 
		Nam Á sử lược, Nguyễn Phúc Tấn 
		dịch, Khai Trí, Sài G̣n, 1968 
		
		Lê Hương: Những 
		người Việt tiên phong trên bước đường Nam tiến tại Cao Lănh, 
		Sài G̣n, 1970 
		
		Châu Lạc Quan: Chân 
		Lạp phong thổ kư, dịch giả Lê 
		Hương, Kỷ nguyên mới, Sài G̣n, 1973 
		
		Lê Hương: Người 
		Việt gốc Miên, do Đại Nam in lại, 
		Califonia, 1980 
		
		Lê Hương: Angkor, 
		Đế Thiên, Đế Thích, do Đại Nam in 
		lại, Califonia, 1980 
		
		Lê Hương: Chợ 
		trời biên giới Việt Nam – Cao Miên (Giải 
		thưởng phóng sự năm 1969) in lại ở Mỹ 
		
		Mạng Internet của các 
		tác giả Việt Nam và các cựu quân nhân Mỹ đă từng phục vụ tại các căn cứ 
		Cao Lănh 
		
		Mai Thọ Truyền: bài 
		giảng “Lịch Sử Phật Giáo Đông Nam Á”, Viện cao đẳng Phật Học Sài 
		G̣n, khóa mùa xuân 1965, in Ronéo. 
		
		Nguyễn Thanh Liêm: “Những 
		biến đổi trong văn hóa Việt Nam”, Califonia: tập san nghiên cứu văn 
		hóa Đồng Nai – Cửu Long, số 1, 2004, tr. 9-20 
		
		Nguyễn Văn Xuân: Khi 
		những người lưu dân trở lại, Lửa 
		Thiêng, Sài G̣n, 1967 
		
		Phan Khoang: Việt 
		sử: xứ đàng trong, Khai Trí, Sài 
		G̣n, 1967 
		
		Sơn Nam: T́m 
		hiểu đất Hậu Giang, Phù Sa, Sài 
		G̣n, 1959 
		
		Sơn Nam: Lịch 
		sử khẩn hoang miền Nam, Xuân Thu 
		in lại, Califonia, 1979 
		
		Trần Quang Hạo: Cao 
		Lănh Đến 1954, Cao Lănh, tháng 4 năm 1963 
		
		Trần Trọng Kim: Việt 
		Nam sử lược, Tân Việt, Sài G̣n, 
		1958 
		
		Trịnh Hoài Đức: Gia 
		Định Thành thống chí, Nguyễn Tạo 
		dịch, Bộ Văn Hóa Giáo Dục, Sài G̣n, 1972 
		  
		Nguồn: http://an-phong-an-binh.blogspot.ca 
		Post ngày: 
		12/08/18  
		   |